Đề tài Cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

MỤC LỤC

 

LỜI NÓI ĐẦU 1

CHƯƠNG 1 : LÝ LUẬN CHUNG VỀ CỔ PHẦN HÓA DNNN VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI TIẾN HÀNH CỔ PHẦN HOÁ DNNN Ở VIỆT NAM. 3

1.1 Một số vấn đề lý luận về cổ phần hóa các DNNN ở Việt Nam. 3

1.1.1 Quan niệm về cổ phần hóa DNNN. 3

1.1.2 Nội dung cổ phần hóa. 4

1.2.2.1 Đối tượng cổ phần hóa. 4

1.2.2.2 Hình thức tiến hành cổ phần hóa. 5

1.2.2.3 Xác định giá trị doanh nghiệp. 5

1.2.2.4 Đối tượng mua cổ phần và cơ cấu phân chia cổ phần. 6

1.2 Doanh nghiệp nhà nước và sự cần thiết phải tiến hành cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam. 7

1.2.1. Tình hình hoạt động của các DNNN ở Việt Nam hiện nay. 7

1.2.2 Sự cần thiết phải tiến hành cổ phần hóa DNNN. 8

CHƯƠNG 2 : CỔ PHẦN HÓA DNNN Ở VIỆT NAM (TẠI TỔNG CÔNG TY BIA- RƯỢU-NƯỚC GIẢI KHÁT HÀ NỘI ) 10

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP. 10

2.1 Tiến trình cổ phần hóa DNNN trong những năm vừa qua. 10

2.1.1 Giai đoạn thí điểm cổ phần hóa (từ 1992 đến 1996). 10

2.1.2 Giai đoạn mở rộng (từ 1996 đến 2002). 10

2.1.3 Giai đoạn bắt đầu cổ phần hóa (từ 6/2002 đến 11/2004). 11

2.1.4 Giai đoạn đẩy mạnh cổ phần hóa (từ 12/2004 đến nay). 12

2.2 Thực trạng cổ phần hóa DNNN và tình hình hoạt động của Tổng công ty bia- rượu- nước giảI khát Hà nội trong quá trình cổ phần hóa. 12

2.2.1 Thực trạng cổ phần hóa DNNN. 12

2.2.2 Tình hình cổ phần hóa Tổng công ty bia- rượu- nước giảI khát Hà nội( Habeco). 14

2.3 Đánh giá kết quả Cổ phần hóa DNNN. 16

2.3.1 Đảng và Nhà nước đã nhận thức được vai trò và sự cần thiết phải tiến hành cổ phần hoá một bộ phận DNNN: 16

2.3.2 Đảng và Nhà nước ta đã bước đầu quan tâm, chỉ đạo tiến trình CPH: 16

2.3.3 Nội dung CPH là đúng đắn, mục tiêu CPH đặt ra là cụ thể, mang tính khả thi; lợi ích mà CPH mang lại là cụ thể, khách quan và gắn với bản thân doanh nghiệp và người lao động 16

2.3.4 CPH đã thực sự nâng cao quyền làm chủ của người lao động trong Doanh nghiệp, gắn lợi ích của người lao động với lợi ích của Doanh nghiệp, từ đó thúc đẩy người lao động sản xuất, có trách nhiệm với công việc, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất- kinh doanh. 17

2.3.5 Các nhà lãnh đạo DNNN và các cán bộ công nhân viên đã nhận thức được được lợi ích và sự cần thiết cổ phần hoá. 17

2.4 Những khó khăn cần được tháo gỡ . 17

2.4.1 Những hạn chế của công tác cổ phần hóa. 17

2.4.2 Những vấn đề hậu cổ phần hóa. 19

2.5 Giải pháp thúc đẩy quá trình CPH DNNN ở Việt Nam và nâng cao hiệu quả hoạt động Tổng công ty Bia- Rượu- Nước giảI khát Hà nội. 20

2.5.1 Giải pháp thúc đẩy quá trình CPH các DNNN. 20

2.5.2 Tăng cường hiệu quả hoạt động ngành Bia- Rượu- Nước giảI khát Việt nam nói chung và Tổng công ty Habeco nói riêng. 22

2.5.2.1 Quy hoạch phát triển sản phẩm và bố trí quy hoạch. 22

2.5.2.2 Nhu cầu vốn cho các dự án đầu tư. 23

2.5.2.3 Hệ thông các giảI pháp và chính sách để thực hiện quy hoạch. 23

KẾT LUẬN 26

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 27

 

doc28 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2028 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
họ trả dần trong 10 năm mà không phải trả lãi. Doanh nghiệp nhà nước và sự cần thiết phải tiến hành cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam. Tình hình hoạt động của các DNNN ở Việt Nam hiện nay. Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, khu vực Kinh tế Nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo chi phối nền Kinh tế quốc dân cũng như giúp đỡ các thành phần kinh tế khác. Song trên thực tế, hiệu quả hoạt động của khu vực Kinh tế Nhà nước nói chung và hệ thống DNNN nói riêng còn tồn tại rất nhiều yếu kém. Trên địa bàn cả nước vào năm 2000 chúng ta có khoảng 5800 DNNN nắm giữ 88% tổng số vốn của các doanh nghiệp trong nền kinh tế nhưng hiệu quả kinh doanh rất thấp. Chỉ có trên 40% DNNN là hoạt động có hiệu quả, trong đó thực sự làm ăn có lãi và lâu dài chỉ chiếm dưới 30%. Trên thực tế, DNNN nộp ngân sách chiếm 80-85% tổng doanh thu, nhưng nếu trừ khấu hao cơ bản và thuế gián thu thì DNNN chỉ đóng góp được trên 30% ngân sách Nhà nước. Đặc biệt nếu tính đủ chi phí và TSCĐ, đất tính theo giá thị trường thì các DNNN hoàn toàn không tạo ra được tích luỹ. Có thể đánh giá thực lực của DNNN trên 3 mặt: Thứ nhất là Vốn: Các Doanh nghiệp luôn nằm trong tình trạng thiếu vốn. Tình trạng Doanh nghiệp phải ngừng hoạt động do thiếu vốn kinh doanh đã xuất hiện. Tình trạng Doanh nghiệp không có vốn và không có đủ khả năng huy động vốn để đổi mới công nghệ được coi là phổ biến. Trong khi đó, hiệu quả sử dụng vốn thấp kém, thất thoát vốn Nhà nước ngày càng trầm trọng. Năm 1998 chỉ tính riêng số nợ khó đòi và lỗ luỹ kế của các DNNN đã lên đến 5.005 tỷ đồng . Theo Tổng cục Quản lý vốn và tài sản Nhà nước tại Doanh nghiệp , trong số gần 5800 DNNN, chỉ 40,4% được đánh giá là hoạt động có hiệu quả (bảo toàn được vốn, trả được nợ, nộp đủ thuế, trả lương cho người lao động và có lãi) ; 44% số doanh nghiệp hoạt động chưa có hiệu quả, khó khăn tạm thời ; còn 15,6% số Doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả. Tổng cộng, có tới trên 59,6% DNNN hoạt động kém hiệu quả. Thứ hai là Công nghệ: Công nghệ của các DNNN lạc hậu so với trình độ chung của khu vực và của thế giới (thường từ 2-3 thế hệ, cá biệt có công nghệ lạc hậu tới 5-6 thế hệ), 76% máy móc thiết bị thuộc thế hệ những năm 50-60 và chủ yếu do Liên Xô cũ và các nước Đông Âu cung cấp. Hiện nay có đến 54,3% DNNN trung ương và 74% DNNN địa phương còn sản xuất ở trình độ thủ công, hiệu quả sử dụng trang thiết bị bình quân dưới 50% công suất. Đó chính là nguyên nhân làm cho khả năng cạnh tranh của các Doanh nghiệp trên thị trường nội địa cũng như quốc tế hết sức thấp kém. Điều này thực sự là một nguy cơ đối với các DNNNN và với nền Kinh tế Quốc dân trong quá trình hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới. Thứ ba là Trình độ, năng lực và bản lĩnh quản lý còn thấp so với yêu cầu ngày càng cao. Tại các DNNN quyền sở hữu không gắn với quyền quản lý vốn và tài sản. Mặt khác, do những nguyên nhân lịch sử, do ảnh hưởng của cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp để lại, các DNNN có số lượng lao động lớn, cơ cấu lao động bất hợp lý, đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vừa thừa, vừa thiếu, vừa yếu. Bên cạnh trách nhiệm về kinh tế, mỗi Doanh nghiệp còn phải đảm trách nhiều chức năng xã hội nữa. Từ tình hình trên, có thể thấy khu vực kinh tế Nhà nước không phải là điểm sáng như chúng ta mong đợi, đặc biệt nó vẫn chưa thực sự thể hiện tốt vai trò chủ đạo vủa mình. Do đó vấn đề đặt ra hiện nay là cần phải có một loạt những giải pháp tiến hành đồng bộ nhằm đẩy nhanh tiến trình sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN. Trong đó, cổ phần hóa DNNN là một trong những biện pháp được Đảng và Nhà nước đặt lên vị trí then chốt, hàng đầu. Sự cần thiết phải tiến hành cổ phần hóa DNNN. Xuất phát từ thực tế nêu trên, thực hiện cổ phần hóa là một nhiệm vụ rất cần thiết và quan trọng trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam, cổ phần hóa sẽ giải quyết được các vấn đề sau: w Thứ nhất: Thực hiện CPH là để giải quyết mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Cổ phần hóa góp phần thực hiện chủ trương đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Trước đây chúng ta xây dựng một cách cứng nhắc chế độ công hữu, thể hiện ở một số lượng quá lớn các DNNN mà không nhận thấy quan hệ sản xuất này không phù hợp với lực lượng sản xuất còn nhiều yếu kém, lạc hậu. Vì vậy cổ phần hóa sẽ giải quyết được mâu thuẫn này, giúp lực lượng sản xuất phát triển. w Thứ hai: Thực hiện cổ phần hóa nhằm xã hội hoá lực lượng sản xuất, thu hút thêm nguồn lực sản xuất. Khi thực hiện cổ phần hóa, người lao động sẽ gắn bó, có trách nhiệm với công việc hơn, họ trở thành người chủ thực sự của Doanh nghiệp. Ngoài ra, phương thức quản lý được thay đổi, Doanh nghiệp sẽ trở nên năng động, tự chủ hơn trong sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả sản xuất. w Thứ ba: Bên cạnh đó, cổ phần hóa là một yếu tố thúc đẩy sự hình thành và phát triển thị trường chứng khoán, đưa nền kinh tế hội nhập với kinh tế khu vực và trên thế giới. w Thứ tư: Thực hiện cổ phần hóa là một trong những giải pháp quan trọng nhằm huy động các nguồn lực trong và ngoài nước vào phát triển kinh tế. Với việc huy động được các nguồn lực, các công ty cổ phần có điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao được khả năng cạnh tranh trên thị trường, tạo cơ sở để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. w Thứ năm: Cổ phần hoá tác động tích cực đến đổi mới quản lý ở cả tầm vĩ mô và vi mô. Chuyển từ DNNN sang công ty cổ phần không những chỉ là sự thay đổi về sở hữu, mà còn là sự thay đổi căn bản trong công tác quản lý ở cả phạm vi Doanh nghiệp và ở cả phạm vi nền Kinh tế quốc dân. w Thứ sáu: Cổ phần hoá là một giải pháp quan trọng để cơ cấu lại nền kinh tế trong quá trình đổi mới đất nước. Như vậy, đứng trước thực trạng hoạt động yếu kém của hệ thống DNNN, cổ phần hóa với những ưu điểm và mục tiêu của mình đã chứng tỏ đó là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với quá trình đổi mới, phù hợp với giai đoạn quá độ đi lên CNXH ở nước ta. Chương 2 : cổ phần hóa Dnnn ở việt nam ( tại tổng công ty bia- rượu-nước giảI khát hà nội ) Thực trạng và giảI pháp. Tiến trình cổ phần hóa DNNN trong những năm vừa qua. Tiến trình cổ phần hóa 15 năm vừa qua (từ 1992- đến nay) có thể chia làm 4 giai đoạn: Giai đoạn thí điểm cổ phần hóa (từ 1992 đến 1996). Nhà nước chỉ thí điểm thực hiện cổ phần hóa những Doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, mang tính chất tự nguyện, việc bán cổ phần cũng chỉ giới hạn trong những đối tượng là nhà đầu tư trong nước, trong đó ưu tiên bán cổ phần cho người lao động. Chính vì vậy, mới chỉ có 5 Doanh nghiệp hoàn thành cổ phần hóa trên tổng số khoảng 16 Doanh nghiệp được thí điểm trong giai đoạn này. 5 Doanh nghiệp bao gồm: 3 DN trung ương và 2 DN địa phương : Công ty Đại lý Liên hiệp vận chuyển thuộc Bộ GTVT - ngày thực hiện CPH : 1/7/1993. Công ty Cơ điện lạnh thuộc UBND Tp Hồ Chí Minh - ngày thực hiện CPH : 1/10/1993. Xí nghiệp Giày Hiệp An thuộc Bộ Công nghiệp - ngày thực hiện CPH: 1/10/1994 Xí nghiệp Chế biến hàng xuất khẩu thuộc UBND tỉnh Long An - ngày thực hiện CPH : 1/7/1995. Xí nghiệp Chế biến thức ăn gia súc thuộc Bộ Nông nghiệp & phát triển nông thôn - ngày thực hiện CPH : 1/7/1995. Giai đoạn mở rộng (từ 1996 đến 2002). Với nhiều cơ chế chính sách về cổ phần hóa được hoàn thiện và ban hành đã đẩy nhanh tiến trình này. Đặc trưng của giai đoạn này là việc mở rộng nhiều hình thức cổ phần hóa mặc dù các cơ quan quản lý Nhà nước vẫn phải trực tiếp tham gia rất nhiều công đoạn và tổ chức điều hành. Đó là việc mở rộng thêm diện bán cổ phần cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài định cư lâu năm ở Việt Nam, mở rộng mức ưu đãi cho người lao động trong Doanh nghiêp; có thể bán 100% vốn Nhà nước tại Doanh nghiệp…Kết quả là giai đoạn này với một cơ chế cổ phần hóa ngày càng được hoàn thiện, sự hưởng ứng đối với tiến trình sắp xếp và cổ phần hóa doanh nghiệp ngầy càng tăng lên, chúng ta đã tiến hành cổ phần hóa được 868 DNNN, bộ phận DNNN. Giai đoạn bắt đầu cổ phần hóa (từ 6/2002 đến 11/2004). Với cơ sở pháp lý quan trọng là Nghị định số 64/2002/NĐ- CP của chính phủ về việc chuyển DNNN thành công ty cổ phần. Đây là giai đoạn Nhà nước chủ động giao cho các Bộ, ngành, địa phương trách nhiệm lựa chọn và triển khai cổ phần hóa đối với Doanh nghiệp thuộc phạm vi quản lý mà không trông chờ sự tự nguyện của các Doanh nghiệp cấp dưới như trước đây. Trong giai đoạn này, Nhà nước cũng giao thêm quyền quyết định giá trị Doanh nghiệp và phê duyệt phương án cổ phần hóa cho Bộ trưởng các Bộ, chủ tịch UBND các tỉnh (trừ trường hợp giảm trên 500 triệu đồng vốn nhà nước phải có ý kiến của Bộ tài chính). Bắt đầu áp dụng biện pháp nhằm công khai, minh bạch hóa quá trình cổ phần hóa như cho phép thuê các tổ chức trung gian xác định giá trị Doanh nghiệp; dành tối thiểu 30% số cổ phần ( sau khi trừ số lượng cổ phần nhà nước nắm giữ, cổ phần bán ưu đãi cho người lao động) để bán cho các nhà đầu tư ngoài Doanh nghiệp..Mặc dù về số lượng, giai đoạn này chúng ta đã tiến hành cổ phần hóa được 1.435 DNNN, bộ phận DNNN nhưng theo đánh giá thì các DNNN được cổ phần hóa vẫn còn khá nhỏ bé chưa chiếm đến 5% tổng sốn vốn nhà nước trong các doanh nghiệp, quá trình cổ phần hóa còn khép kín, chưa thực sự gắn với thị trường nên vừa hạn chế công tác huy động vốn của Doanh nghiệp vừa làm giảm sự giám sát của xã hội đối với hoạt động của Doanh nghiệp, việc giải quyết lợi ích giữa các bên trong một doanh nghiệp được cổ phần hóa cũng chưa được hài hòa.. Giai đoạn đẩy mạnh cổ phần hóa (từ 12/2004 đến nay). Được đánh dấu bằng việc ban hành Nghị định số 187/2004/NĐ-CP của Chính phủ về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần. Đã xuất hiện các công ty nhà nước có quy mô vốn lớn không thuộc diện nhà nước giữ 100% vốn được cổ phần hóa như Bảo Minh, Vĩnh Sơn…và được niêm yết làm tăng đáng kể quy mô của thị trường chứng khoán. Các giải pháp để nâng cao trách nhiệm của Doanh nghiệp cổ phần hóa và các cơ quan trong xử lý nợ, tài sản tồn đọng, lao động dôi dư cũng được tiến hành song song với việc bổ sung các quy định để nâng cao tính khách quan, minh bạch, tính chuyên nghiệp trong quá trình cổ phần hóa… Thực trạng cổ phần hóa DNNN và tình hình hoạt động của Tổng công ty bia- rượu- nước giảI khát Hà nội trong quá trình cổ phần hóa. 2.2.1 Thực trạng cổ phần hóa DNNN. Tính đến nay, cả nước đã tiến hành cổ phần hóa được khoảng 3.500 Doanh nghiệp và bộ phận Doanh nghiệp Nhà nước. Quá trình cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam được bắt đầu từ năm 1992, Nhà nước chỉ chọn một số Doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, kinh doanh có lãi và tự nguyện cổ phần hóa để thực hiện thí điểm. Suốt 4 năm (1992-1996) tuy chỉ cổ phần hóa được 5 Doanh nghiệp nhưng cả 5 đơn vị này đều hoạt động có hiệu quả hơn trước khi tiến hành cổ phần hóa. Do vậy, từ năm 1996 Đảng và nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương chính sách về cổ phần hóa, điểm mốc là Nghị quyết Hội nghị Trung ương ba, khóa IX (năm 2001) coi việc đẩy mạnh cổ phần hóa những DNNN không cần nắm giữ 100% vốn là khâu quan trọng để tạo bước chuyển biến cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả DNNN. Các DNNN đã được tổ chức lại bằng các hình thức sáp nhập, hợp nhất, giải thể, phá sản, khoán kinh doanh, cho thuê và cổ phần hóa. Các DNNN đã liên tục giảm mạnh về số lượng từ 5759 Doanh nghiệp vào năm 2000, xuống còn 4845 Doanh nghiệp năm 2003, 4596 vào năm 2004 và 4086 Doanh nghiệp vào năm 2005. So với năm 2000, số DNNN năm 2005 đã giảm 20% (1873 Doanh nghiệp), trong đó DNNN trung ương giảm 11,7% (242 Doanh nghiệp), DNNN địa phương giảm 61,4% (1431 Doanh nghiệp). Mặt khác các DNNN còn được cải thiện đáng kể về quy mô vốn. Các DNNN tiếp tục giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu thiết yếu cho quốc phòng, an ninh và nhiệm vụ công ích, đóng góp gần 40% GDP và 50% tổng thu ngân sách Nhà nước; 154 Doanh nghiệp đã được xử lý giãn nợ, khoanh nợ, xóa nợ thuế và các khoản nộp ngân sách Nhà nước với tổng số tiền lên đến gần 315 tỷ đồng. Tính đến 31/12/2005, số nợ đọng trên 19.000 tỷ đồng đã được xử lý trong quá trình sắp xếp và cổ phần hóa. Quỹ hỗ trợ lao động dôi dư cũng đã thực hiện hỗ trợ cho gần 3600 Doanh nghiệp, giải quyết chính sách cho hơn 19.000 người lao động với tổng số tiền 6087 tỷ dồng, bình quân khoảng 32 triệu đồng/người lao động dôi dư. Theo kết quả khảo sát của Ban chỉ đạo đổi mới và Phát triển DNNN đối với khoảng 500 Doanh nghiệp đã cổ phần hóa hơn một năm cho thấy, doanh thu tăng 43%, lợi nhuận tăng trên 2,4 lần, thu nhập của người lao động tăng 54%, cổ tức bình quân được chia 15,5%. Cơ cấu DNNN đã chuyển đổi theo hướng nhà nước chỉ nắm giữ những lĩnh vực, ngành then chốt với thị phần đủ lớn đối với các sản phẩm, dịch vụ chủ yếu; không nhất thiết phải giữ tỷ trọng lớn ở tất cả các ngành, lĩnh vực và sản phẩm của nền kinh tế. Quá trình cổ phần hóa trong thời gian qua đã được triển khai vững chắc và đạt được các mục tiêu cổ phần hóa theo đúng định hướng: Đã chuyển đổi những công ty Nhà nước mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn sang loại hình Doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu; huy động vốn của cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và ngoài nước để tăng năng lực tài chính, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh của nền kinh tế; đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động trong Doanh nghiệp; Vai trò của người lao động được nâng lên rõ rệt do được quyền làm chủ với tư cách là cổ đông, thực sự góp phần tạo ra động lực trong quá trình sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp; thực hiện công khai minh bạch theo nguyên tắc thị trường; khắc phục tình trạng cổ phần hóa khép kín trong nội bộ Doanh nghiệp; gắn với phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán. Theo nhận định của Ban chỉ đạo đổi mới và Phát triển DNNN, quá trình chuyển đổi này diễn ra chậm ở tất cả các khâu và quan trọng hơn là chưa thực sự tạo được bước chuyển biến về chất trong hoạt động của khối DNNN. Tám tháng đầu năm 2004 cả nước mới cổ phần hóa được 358 Doanh nghiệp mà mục tiêu đặt ra trong năm 2004 là phải cổ phần hóa xong 700 Doanh nghiệp và 800 Doanh nghiệp trong năm 2005, do vậy cần có những giải pháp mạnh mới có thể thực hiện được. Tuy nhiên trên thực tế ở các Doanh nghiệp cổ phần hóa, khoảng 38% vốn vẫn do Nhà nước nắm giữ, tỷ lệ bán ra bên ngoài nhiều nhất cũng chưa đến 10%. Điều này cho thấy tình trạng cổ phần hóa “khép kín” trong nội bộ Doanh nghiệp vẫn đang diễn ra phổ biến; hạn chế việc thu hút nhà đầu tư có tiềm năng vốn, công nghệ và trình độ quản lý. Tình hình cổ phần hóa Tổng công ty bia- rượu- nước giảI khát Hà nội( Habeco). Tổng công ty Bia- Rượu- Nước giải khát Hà nội (Habeco) là một trong mười doanh nghiệp được báo Sài Gòn Tiếp Thị bình chọn “Hàng Việt Nam chất lượng cao” năm 2006 về lĩnh vực rượu bia. Cùng năm Doanh nghiệp được xếp vào Top 100 Thương hiệu mạnh Việt Nam. Ngày 23/1/2007, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã phê duyệt Đề án cổ phần hóa Tổng công ty Bia- Rượu- Nước giải khát Hà Nội, nhằm huy động thêm vốn, nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả sản xuất, kinh doanh của công ty. Theo quyết định 18/2007/QĐ-BCN: Quy hoạch tổng thể phát triển ngành Bia- Rượu-Nước giải khát Việt nam năm 2010 do Bộ Công nghiệp ban hành ngày 8/5/2007. Theo đó xây dựng ngành Bia- Rượu- Nước giải khát thành một ngành kinh tế mạnh, phấn đấu hạ giá thành, nâng cao khả năng cạnh tranh, đáp ứng nhu cầu trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu, tăng nguồn thu ngân sách, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Mục tiêu phát triển ngành Bia- Rượu- Nước giải khát Việt nam nói chung và Tổng công ty Bia- Rượu-Nước giải khát Hà nội (Habeco) nói riêng : Xây dựng ngành Bia- Rượu- Nước giải khát Việt nam thành một ngành kinh tế mạnh. Khuyến khích sử dụng nguyên liệu trong nước, phát triển sản xuất các sản phẩm chất lượng cao, có uy tín, thương hiệu hàng hóa mạnh trên thị trường, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, đa dạng hóa về chủng loại, cải tiến bao bì, mẫu mã, phấn đấu hạ giá thành, nâng cao khả năng cạnh tranh, đáp ứng nhu cầu trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu, tăng thu ngân sách, hội nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế giới. Khuyến khích hình thành các Doanh nghiệp mạnh, tập đoàn kinh tế trên cơ sở góp vốn liên doanh, liên kết giữa các Doanh nghiệp sản xuấ Bia- Rượu- Nước giải khát thuộc mọi thành phần kinh tế. Mục tiêu cụ thể đến năm 2010 sản xuất 3.500 triệu lít bia, 145 lít rượu và 1.650 triệu lít nước giải khát. Đánh giá kết quả Cổ phần hóa DNNN. Với những kết quả nêu trên, có thể khẳng định chính sách cổ phần hóa một bộ phận DNNN là phù hợp và đúng đắn trong giai đoạn hiện nay. Cổ phần hóa đã thực sự đem lại nhiều lợi ích không chỉ cho Doanh nghiệp mà còn đem lại nhiều lợi ích cho cả Nhà nước và bản thân người lao động. Nguyên nhân : Đảng và Nhà nước đã nhận thức được vai trò và sự cần thiết phải tiến hành cổ phần hoá một bộ phận DNNN: Để khắc phục tình trạng khủng hoảng nền kinh tế nước ta giai đoạn 1980-1990, Đảng và Nhà nước đã có chủ trương đổi mới kinh tế nhằm đưa nền kinh tế nước ta thoát khỏi tình trạng trì trệ, nghèo lạc hậu. Một trong những giải pháp được Đảng và Nhà nước lựa chọn là cổ phần hóa một bộ phận DNNN nhằm sắp xếp lại các DNNN, nâng cao vị thế chủ đạo của khu vực kinh tế Nhà nước. Đảng ta đã mạnh dạn tiến hành thí điểm và sau gần 15 năm thực hiện đã thu được những kết quả rất khả quan. Đảng và Nhà nước ta đã bước đầu quan tâm, chỉ đạo tiến trình CPH: Đảng và Nhà nước ta đã dành rất nhiều quan tâm cho công tác cổ phần hoá, thể hiện qua việc theo dõi sát sao tiến trình thực hiện, không ngừng đúc kết kinh nghiệm và khắc phục hạn chế, ban hành kịp thời nhiều văn bản pháp quy hướng dẫn, tạo điều kiện cho công tác CPH, gần đây nhất là nghị định số 64/2002/NĐ-CP, nghị định số 44/1998/NĐ-CP, các Quyết định số 145/1999/TTg, số 177/1999/TTg. Nội dung CPH là đúng đắn, mục tiêu CPH đặt ra là cụ thể, mang tính khả thi; lợi ích mà CPH mang lại là cụ thể, khách quan và gắn với bản thân doanh nghiệp và người lao động Có thể nói, cổ phần hóa đã như một luồng gió mới thổi sinh khí vào khu vực Kinh tế Nhà nước , mang lại sức sống cho khu vực kinh tế này, từ đó mang lại hiệu quả cho Nhà nước, Doanh nghiệp và người lao động. Cổ phần hóa thực sự tạo động lực cho đầu tư phát triển kinh tế. Thông qua cổ phần hóa thu hút được một lượng lớn nguồn vốn trong dân cư, tạo tiền đề mở cửa cho thị trường vốn trong nước, nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển sản xuất. CPH đã thực sự nâng cao quyền làm chủ của người lao động trong Doanh nghiệp, gắn lợi ích của người lao động với lợi ích của Doanh nghiệp, từ đó thúc đẩy người lao động sản xuất, có trách nhiệm với công việc, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất- kinh doanh. Các nhà lãnh đạo DNNN và các cán bộ công nhân viên đã nhận thức được được lợi ích và sự cần thiết cổ phần hoá. Những khó khăn cần được tháo gỡ . Những hạn chế của công tác cổ phần hóa. - Tiến độ cổ phần hóa quá chậm, không năm nào đạt so với chỉ tiêu, không đáp ứng được yêu cầu sắp xếp lại DNNN. Kết quả thực hiện cổ phần hóa mới đạt khoảng 80%, trong đó nhiều Bộ, ngành, địa phương đạt dưới 50%. Thời gian để cổ phần hóa một Doanh nghiệp trung bình mất 437 ngày, thậm chí nhiều nơi là vài năm trong khi theo quy địng chỉ được 9 tháng. - Khuôn khổ pháp lý cho cổ phần hóa còn quá nhiều bất cập. Các quy định về chế độ với doanh nghiệp sau cổ phần hóa vẫn chưa rõ ràng. Các quy định được sửa đổi và bổ sung thường thì càng về sau càng có lợi, càng có nhiều ưu đãi. Chính vì vậy, về mặt tâm lý, các Doanh nghiệp không muốn triển khai nhanh mà chờ đợi để được hưởng ưu đãi nhiều hơn. - Vấn đề tư tưởng hiện nay tại các Doanh nghiệp (Gồm cả lãnh đạo và người lao động) cũng như nhiều cấp quản lý vẫn ngại cổ phần hóa do sợ mất đi nhiều quyền lợi. Có người lại nhận thức sai về cổ phần hóa, cho rằng việc chuyển dổi hình thức sở hữu sẽ dẫn đến mất chế độ, tư tưởng bao cấp đã ăn sâu vào suy nghĩ của nhiều Doanh nghiệp nên cố tình trì hoãn cổ phần hóa, lảng tránh nhiệm vụ mới. - Trong một thời gian dài, công tác chỉ đạo, tổ chức điều hành cổ phần hóa được tiến hành một cách rời rạc bị động. Ban chỉ đạo đổi mới DNNN không chủ động giao chỉ tiêu và chỉ đạo sát sao việc thực hiện mà ngồi đợi các Doanh nghiệp tự động đến đăng ký. Bản thân Ban đổi mới DNNN chưa hoạt động chuyên trách, đội ngũ quá mỏng, chưa đủ trình độ và kinh nghiệm để giải quyết các vấn đề phức tạp, lại chưa có đủ thẩm quyền chức năng để tổ chức hoạt động phối hợp làm cho các bước thủ tục thường dây dưa kéo dài. - Hiện nay, Việt Nam chưa có một phương pháp xác định, đánh giá tài sản Doanh nghiệp thống nhất theo đúng chuẩn mực quốc tế. Sự phức tạp trong việc xác định giá trị Doanh nghiệp còn gia tăng bởi các yếu tố đi kèm: việc xử lý nợ khó đòi, thẩm định giá trị nhà xưởng máy móc thiết bị và quyền sử dụng đất. Do đó việc xác định tài sản của Doanh nghiệp thường là khâu kéo dài (khoảng 3 tháng). - Chính sách đối với người lao động tại các Doanh nghiệp cổ phần hóa còn hạn chế, bởi những người có thâm niên từ 3 năm trở lên mới được hưởng nhưng mức hưởng cũng không đáng kể (chỉ chiếm tư 6- 12 tháng lương cấp bậc). Điều này khiến cho người lao động không có nhiều cơ hội tham gia vào quá trình quản lý Doanh nghiệp, thực sự làm chủ Doanh nghiệp như mục đích ban đầu của cổ phần hóa. Bên cạnh đó là tình trạng hạn chế mức mua chịu cổ phần của người lao động, cũng chỉ có người có thâm niên từ 3 năm trở lên mới được mua chịu. Trong các quy định hiện hành cũng nêu là tổng mức mua chịu không được vượt quá tổng mức mua tiền mặt, nhưng lại không đề cập việc từng người có thể mua chịu nhiều hơn hay không, và những ai không mua tiền mặt thì có được mua chịu hay không. Hơn nữa, trong các DNNN đã cổ phần hóa thường xuất hiện tình trạng cách biệt vể số lượng mua cổ phiếu của công nhân và cán bộ lãnh đạo trong Doanh nghiệp. Thực chất là do sự cách biệt giữa người có nhiều tiền và người có ít tiền trong việc mua cổ phần. Người càng có nhiều tiền mua cổ phần lại càng có cơ hội mua chịu nhiều, đây quả là một mặt trái mà chúng ta phải tính đến. Những vấn đề hậu cổ phần hóa. Theo kết quả khảo sát mới đây của Bộ Tài chính, trong số 2.037 doanh nghiệp được cổ phần hóa, chỉ có 667 công ty cổ phần có vốn điều lệ trên 5 tỷ đồng. Vốn của các DNCP rất nhỏ và muốn vay vốn ngân hàng thì lại rất khó. Nhìn chung, DNNN được chọn để cổ phần hóa là những doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả, đội ngũ quản lý kém, nợ thua lỗ nhiều năm.. Do đó khi trở thành DNCP thì không thể trở thành Doanh nghiệp mạnh ngay được. Với bản lý lịch như thế thì thử hỏi ai dám mạo hiểm cho vay? Nhưng có lẽ nhiều DNCP “đau” nhất là không ít khó khăn chỉ phát sinh và chỉ nhận biết được sau khi cổ phần hóa. Nhiều DNCP đã phải kêu là không lường hết khó khăn sau khi tiến hành đại hội cổ đông lần thứ nhất. Lý do rất đơn giản, nhiều giám đốc DNNN đã không trung thực khi đưa ra các phương án cổ phần hóa, không dám công bố tình hình tài chính thực của Doanh nghiệp.. làm cho bộ máy quản lý mới lúng túng, đùn đẩy trách nhiệm. Thậm chí, nhiều DNCP sau hơn 1 năm không tiến hành đại hội cổ đông, chưa bàn giao xong những thủ tục cần thiết về mặt pháp lý. Ngoài ra, có những gánh nặng mà DNCP phải “nai lưng” ra để khắc phục. Đơn cử, khi chưa cổ phần hóa, DNNN đưa ra thị trường những sản phẩm không chất lượng (chạy theo doanh thu) và khi khách hàng bắt phải khắc phục thì DNCP lãnh đủ. Do đó, nhiều DNCP sau khi cổ phần hóa không tính nổi cổ tức cho các cổ đông và giám đốc DNCP cũng không phải chịu trách nhiệm về những chỉ tiêu cần phải cam kết. Doanh nghiệp muốn huy động vốn thì phải lên sàn, nhưng do lên sàn phải công khai minh bạch nhiều vấn đề, nên họ còn e ngại. Điều quan trọng là làm sao vận động Doanh nghiệp để họ thấy có lợi, chứ Nhà nước không thể ép họ được. Đối tượng đưa ra niêm yết chủ yếu là DNNN giữ cổ phần chi phối. Tuy nhiên việc có lên sàn hay không là do cổ đông quyết định. Khi triệu tập họ, người đại diện cho phần vốn sở hữu của Nhà nước trong Doanh nghiệp đó sẽ dùng quyền biểu quyết để đưa ra quyết định, nhưng nếu các cổ đông khác không ủng hộ thì khó lắm. Giải pháp thúc đẩy quá trình CPH DNNN ở Việt Nam và nâng cao hiệu quả hoạt động Tổng công ty Bia- Rượu- Nước giảI khát Hà nội. Giải pháp thúc đẩy quá trình CPH các DNNN. Để hoàn thành kế hoạch cổ phần hóa DNNN, gắn kết tiến trình cổ phần hóa với việc đăng ký niêm yết/giao dịch trên thị trường chúng khoán cần thực hiện các giải pháp đồng bộ sau: Một là: Nâng cao nhận thức về sự cần thiết phải cổ phần hóa đối với lãnh đạo các cấp. Quán triệt sâu sắc Nghị quyết đại hội IX của Đảng và Nghị quyết Trung ương IX để tạo sự thống nhất, nhất trí cao trong các ngành, các cấp, các cán bộ, đảng viên về quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ để thực hiện kiên quyết các giải pháp đẩy nhanh sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả DNNN. Trong đó cần nhận thức rõ cổ phần hóa là biện pháp cơ bản để tái cơ cấu, sắp xếp và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN. Hai là: Thúc đẩy nhanh cổ phần hóa các DNNN lớn. Xây dung chương trình hành động cụ thể cho tiến trình cổ phần hóa từng Bộ, ngành, tổng công ty, chú trọng cổ phần hóa các DNNN lớn thuộc các

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc308.doc
Tài liệu liên quan