LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN
I. Sự ra đời của công ty cổ phần
II. Một số khái niệm
III. Vai trò của công ty cổ phần trong sự phát triển của Kinh tế thị trường
CHƯƠNG II CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
I. Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
II. Một số giải pháp đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá và nâng cao vai trò của các DNNN đã được cổ phần hoá.
KẾT LUẬN
20 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1082 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước quá trình 10 năm phát triển và vai trò của nó trong sự phát triển kinh tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ối với các nhà tư bản và họ muốn đầu tư vào nhữmg lĩnh vực có hiệu quả cao này. Tuy nhiên họ lại gặp phải một vấn đề lớn là việc chuyển dịch vốn từ một nghành này sang một nghành khác là rất tốn thời gian và có thể làm mất cơ hội của họ. Mâu thuẫn đó chỉ có thể giải quyết khi các nhà tư bản liên kết với nhau cùng góp vốn để vừa có thể đầu tư vào nghành có lợi nhuận cao vừa có thể từ từ thu hồi vốn trong những lĩnh vực kinh doanh không có hiệu quả.
- Thứ ba: Đó là sự phát triển rộng rãi của cơ chế tín dụng đã tạo ra động lực thúc đẩy công ty cổ phần ra đời và phát triển. Điều này được thể hiện qua hai lí do sau: Một là, việc phát hành cổ phiêu của công ty cổ phần không thể thực hiện được nếu không có thị trường tiền tệ phát triển, nếu không có những doanh nghiệp và cá nhân có nhu cầu sử dụng vốn tiền tệ trên thị trường. Bên cạnh đó, thực tiễn đã chứng tỏ rằng sự ra đời và phát triển của công ty cổ phần đều phải thông qua hệ thống ngân hàng và hệ thống tín dụng để phát hành cổ phiếu của mình (VD: ở nước Đức năm 1869, trong nghành Điện lực có 39 công ty cổ phần thì đều sinh ra nhờ có sự giúp đỡ của hệ thống ngân hàng). Như vậy, về lịch sử cũng như về logic hệ thống ngân hàng tín dụng hình thành trước công ty cổ phần và là cơ sở, động lực cho sự ra đời và phát triển của công ty cổ phần.
- Thứ tư: Do sản xuất ngày càng phát triển, trình độ khoa học ngày càng cao và dẫn tới làm cho cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Chính sự cạnh tranh này làm cho yếu tố rủi ro- sự đe doạ dẫn tới phá sản- trong kinh doanh ngày càng lớn. Để tránh điều đó, các nhà tư bản liên kết với nhau một mặt để tìm ra nhưng phương cách để chia sẻ và làm bớt rủi ro, mặt khác lại có thể tập trung được nhiều trí tuệ của số đông. Chính yếu tố này đã làm tăng hiệu quả quản lý và làm giảm bớt đi rủi ro cho các công ty cổ phần.
Tóm lại, sự ra đời và phát triển của công ty cổ phần là một quá trình kinh tế khách quan do đòi hỏi của nền kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao đó là nền kinh tế thị trường mang lại . Nó là kết quả tất yếu của sự tập trung tư bản, nó diễn ra mạnh mẽ cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp cơ khí và sự tự do cạnh tranh dưới chế độ tư bản.
II. Một số khái niệm
1. Khái niệm chung.
trong thực tế cũng như trong các bài giảng kinh tế, có khá nhiều các định nghĩa về Công ty cổ phần. Nhưng nhìn chung lại ta thấy rằng: Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó các thành viên cùng góp vốn và họ sẽ nhận được một số lượng “cổ phần” nhất định tương ứng với số tiền mà họ đã bỏ ra, cùng hưởng lợi nhuận và cùng chịu trách nhiệm trong phạm vi vốn góp của mình trên cơ sở hoàn toàn tư nguyện.
2. Đặc điểm của công ty cổ phần
Công ty cổ phần là một hình thức tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân và các cổ đông chỉ có trách nhiệm pháp lí hữu hạn trong phần vốn góp của mình. Vốn của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là “cổ phiếu”. Giá trị mỗi cổ phiếu được gọi là mệnh giá cổ phiếu trong đó mỗi cổ phiếu là một thứ chứng khoán có giá trị ghi nhận quyền sở hữu đồng thời đảm bảo cho người sở hữu cổ phiếu có quyền nhận được một phần thu nhập của công ty tương ứng với số tiền ghi trên cổ phiếu. Mỗi công ty chỉ được phát hành một lượng cổ phiếu nhất định (thường gồm 2 loại là cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi) hình thành nên vốn cổ phần của công ty. Cổ phiếu chứng minh tư cách thành viên của những người góp vốn vào công ty cổ phần, những thành viên này được gọi là cổ đông và mỗi cổ đông có thể mua một hoặc nhiều cổ phiếu. Quyền và trách nhiệm của cổ đông cũng như lợi ích của họ phụ thuộc vào số cổ phiếu của công ty mà họ nắm giữ.
* Cơ cấu tổ chức, điều hành và quản lý của công ty cổ phần bao gồm: Đại hội cổ đông, Hội đồng quản trị, Giám đốc điều hành và Ban kiểm soát.
- Đại hội cổ đông: Là cơ quan quyết định cao nhất của một công ty cổ phần. Đó là đại hội của những người cổ đông nắm quyền sở hữu đối với công ty. Đại hội cổ đông có ba hình thức: Đại hội thành lập, đại hội bất thường, đại hội đồng cổ đông.
- Hội đồng quản trị: Được thành lập trên quyết định của đại hội đồng cổ đông và được ghi rõ vào điều lệ của công ty. Hội đồng quản trị có toàn quyền nhân danh công ty để giải quyết mọi vấn đề có liên quan đến lợi ích của công ty trừ các vấn đề thuộc thẩm quyền của đại hội đồng. Hội đồng quản trị tự bầu Chủ tịch hội đồng quản trị có thể kiêm luôn nhiệm vụ Tổng giám đốc nếu điều lệ công ty không quy định khác.
- Giám đốc điều hành: Là người điều hành mọi hoạt động hàng ngày của công ty và chịu trách nhiệm trước hội đồng quản trị về việc thực hiên các trách nhiệm, quyền hạn được giao. Giám đốc điều hành không làm việc theo nhiệm kì mà làm việc theo hợp đồng ký kết với chủ tịch hội đồng quản trị.
- Ban kiểm soát: Có vai trò giám sát mọi hoạt động của công ty. Số lượng uỷ viên kiểm soát là tuỳ thuộc vào điều lệ của công ty. Những người thuộc ban kiểm soát thì không phải là thành viên của hội đồng quản trị, giám đốc.
* Sự phân chia lợi nhuận trong công ty cổ phần:
Lợi nhuận của công ty sau khi được chi trả cho những khoản mục cần thiết thì được chia đều cho các cổ đông tỷ lệ với phần vốn góp của họ vào công ty.
3. Quá trình phát triển của công ty cổ phần.
- Giai đoạn 1: Giai đoạn mầm mống
Công ty cổ phần đầu tiên xuất hiện mang tên Đông Âu do thương nhân người Anh thành lập tại London
- Giai đoạn 2: Giai đoạ hình thành
Thời gian vào khoảng cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19. Các công ty cổ phần lần lượt ra đời với hình thức tổ chức và hình thức quản lý riêng của nó (Năm 1837 có khoảng 46 công ty cổ phần và tập trung chủ yếu trong lĩnh vực đường sông và đường sắt).
- Giai đoạn 3: Giai đoạn phát triển
Sau những năm 70 của thế kỷ 19 các công ty cổ phần phát triển một cách nhanh chóng ở nhiều nơi và số lượng tập trung tư bản lớn chưa từng có (Tại nước Anh có 86000 công ty cổ phần và 90% tư bản của Anh chịu sự khống chế của các công ty cổ phần; Tại nước Mĩ có 262000 công ty cổ phần)
- Giai đoạn 4: Giai đoạn hoàn thiện và trưởng thành
Từ sau chiến tranh thế giới thứ 2 các công ty cổ phần ngày càng hoàn thiện hơn về cơ cấu tổ chức và phát triển mạnh mẽ hơn về quy mô.
Tóm lại, trải qua quá trình mấy trăm năm, công ty cổ phần đã phát triển một cách liên tục từ giản đơn đến phức tạp, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn, từ một ngành một lĩnh vực đến đa ngành đa lĩnh vực, từ một quốc gia đến các công ty xuyên quốc gia. Nó luôn biến đổi theo hướng nâng cao để phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế xã hội.
III. Vai trò của công ty cổ phần trong sự phát triển của Kinh tế thị trường
Công ty cổ phần ra đời đã góp phần hết sức to lớn trong sự phát triển ngày càng cao và đa dạng của nền kinh tế thị trường.
Trước hết, Công ty cổ phần là kết quả của sự vận động tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền kinh doanh về tư liệu sản xuất. Nó vừa tạo điều kiện cho phép đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung tư bản, mở rộng quy mô sản xuất, nhanh chóng đẩy nhanh quá trình xã hội hoá sản xuất. Đồng thời, nó cũng tạo điêu kiện thuận lợi cho di chuyển tư bản, phân tán bớt rủi ro cho những người đầu tư trong một thị trường có tính cạnh tranh cao.
Bên cạnh đó, công ty cổ phần cũng mang những đặc điểm cho phép thích ứng với những đòi hỏi của sự phát triển của nền kinh tế thị trường mà các hình thái công ty khác không thể đáp ứng được như là: Sự đa dạng vềhình thức kinh doanh trước đòi hỏi hết sức khắt khe về mặt pháp lý, cơ cấu tổ chức và quản lý công ty theo nhiều tầng, nhiều lớp làm giảm bớt tính rủi ro trong kinh doanh và nâng cao được trách nhiệm của từng cá nhân và bộ phận thông qua việc giám sát lẫn nhau...
Hơn nữa, sự kết hợp của công ty cổ phần và thị trường chứng khoán vừa duy trì được sự ổn định của các doanh nghiệp vừa tạo nên sự di chuyển linh hoạt của các luồng vốn xã hội.
Ngày nay, hàng ngàn tập đoàn công ty khổng lồ được hình thành theo mô hình công ty cổ phần đã và đang góp phần tạo nên sức mạnh kinh tế của một quốc gia và tham gia tích cực, đắc lực vào các quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế quốc tế.
CHƯƠNG II: Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước thực trạng và giải pháp
I. Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
1. Tại sao phải chuyển DNNN thành Công ty cổ phần?
Nước ta đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường nhiều thành phần phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên sự đa dạng hoá về các loại hình sở hữu.
Từ thực tiễn tiến hành thành công cuộc phát triển kinh tế và những kinh nghiệm thu được qua quá trình chỉ đạo, điều hành sản xuất kinh doanh chúng ta đã xác định được rằng cải cách DNNN một cách triệt để trong đó có cổ phần hoá một bộ phận DNNN là yêu cầu có tính quyết định để tăng cường động lực phát triển sản xuất và thúc đẩy DNNN có hiệu quả hơn vì 1 số lý do sau:
- Từ khi chuyển sang cơ chế mới hầu hết các DNNN làm ăn kém hiệu quả, không có lãi và thua lỗ. Theo báo cáo của ban đổi mới DNTƯ: Năm 1996, tổng nợ là 174.797 tỉ đồng; năm 1999 lên tới 199.060 tỉ đồng. Trong đó tổng nợ phải trả là 132.366 tỉ đồng và nợ phải thu là 72.644 tỉ đồng. So với tổng vốn toàn bộ doanh nghiệp, số nợ phải thu chiếm tới 62% và số nợ phải trả là 109% trong khi khả năng thanh toán rất thấp. Bên cạnh đó, ngay từ khi thành lập ngoài vốn đầu tư ban đầu thì các DNNN hàng năm còn phải vay tới 85% vốn Nhà nước với lãi suất ưu đãi. Khi đó, Nhà nước buộc phải có chính sách tài trợ, bao cấp nhằm đảm bảo cho DNNN có thể hoạt động tốt theo chủ trương phát triển KT-XH của đất nước. Mà thực tế, trong điều kiện ngân sách luôn không đủ và thiếu hụt thì đây thực sự là một gánh nặng cho nhà nước. Do đó, chủ trương là những doanh nghiệp thua lỗ này không cần phải duy trì hình thức quốc doanh
- Hiện nay, cả nước có khoảng gần 6000 DNNN nhưng phần lớn các doanh nghiệp này có quy mô nhỏ bé và dàn trải về nghành nghề. Bình quân, mỗi doanh nghiệp chỉ có khoảng 22 tỉ đồng (1,5 triệu USD), trong đó số DNNN có vốn dưới 5 tỉ đồng (350 nghìn USD) chiếm tới 65,45%, số doanh nghiệp có vốn trên 10 tỉ đồng (700 nghìn USD) chỉ chiếm 21%. Hoạt động của các doanh nghiệp thì chồng chéo, manh mún, nhiều cấp quản lý tạo sự cạnh tranh không đáng có, không tập trung được cho những lĩnh vực nghành nghề then chốt. Đây cũng là nguyên nhân cần cải tiến DNNN.
- Thiếu vốn cũng là một nguyên nhân. Nó làm cho các doanh nghiệp không cải tiến và nâng cao được công nghệ, dẫn đến năng lực cạnh tranh kém: Sản phẩm làm ra thường chất lượng không tốt, giá cao, không có thị trường tiêu thụ (chỉ khoảng 15% đạt tiêu chuẩn xuất khẩu). Thiết bị máy móc thì được mua từ nhiều nguồn, nhập từ nhiều nước với các chủng loại và thế hệ khác nhau, không đồng bộ. Theo một khảo sát của Bộ KHCN_MT: máy móc thiết bị của chúng ta lạc hậu so với thế giới từ 10-20 năm, độ hao mòn hữu hình từ 30-50%, có tới 38% ở dạng thanh lý.
- Hơn nữa, việc đào tạo đội ngũ các bộ khoa học kỹ thuật, công nhân lành nghề chưa được chú trọng và chưa phù hợp với xu thế phát triển, chưa có những rằng buộc về mặt lợi ích để người lao động phát huy hết khả năng của mình, đặc biệt là tình trạng tham nhũng lãng phí... đang là những nhân tố làm khu vực kinh tế Nhà nước hoạt động kém hiệu quả.
- Bên cạnh đó, ngoài những khó khăn chủ quan xuất phát từ nội bộ nền kinh tế, thì các tác động tiêu cực do hội nhập kinh tế thế giới mang lại như cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực... Điều này cho thấy tính cấp bách phải khẩn trương nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nên kinh tế, để đảm bảo cho sự phát triển đất nước ổn định vững chắc cho cả hiện tại và tương lai lâu dài.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc này, Nghị quyết hội nghị TƯ khoá 8 của Đảng đã dành một phần quan trọng cho mục tiêu đổi mới mạnh mẽ các DNNN, phấn đấu đưa thành phần các DNNN thực sự trở thành lực lượng chủ đạo, làm nòng cốt để thực hiện thành công tiến trình CNH-HĐH đất nước và hội nhập kinh tế thế giới, mà cổ phần hoá DNNN là một trong bốn nội dung quan trọng của quá trình đổi mới đã được chỉ ra trong CT số 20/TTg ngày 21/04/1998.
2. Tiến trình cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam
Sớm nhận thức được tầm quan trọng cũng như sự nan giải trong tiến trình thực hiện, chủ trương cổ phần hoá một bộ phận DNNN đã được Đảng và Chính phủ đặt ra từ đầu những năm 1990 và chính thức triển khai từ giữa năm 1992 với hàng loạt văn bản và sự chỉ đạo thực hiện như: Nghị quyết hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành TƯ Đảng khoá VII (11/1991), Nghị quyết hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (1/1994), Nghị quyết Bộ chính trị về tiếp tục đổi mới để phát huy vai trò chủ đạo của DNNN... và đến 8/6/1992, trên cơ sở số lượng các DNNN đã đăng ký, Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) đã ra quyết định số 203/CT chọn 07 DNNN do chính phủ chỉ đạo thí điểm chuyển thành công ty cổ phần bao gồm:
1. Nhà máy Xà phòng Việt Nam – Bộ Công nghiệp
2. Nhà máy Diêm Thống Nhất – Bộ Công nghiệp
3. Xí nghiệp nguyên vật liệu chế biến thứn ăn gia súc Hà nội – Bộ Nông nghiệp
4. Xí nghiệp chế biến gỗ lạng Long Bình – Bộ Nông nghiệp
5. Công ty vật tư tổng hợp Hải Hưng – Bộ Thương Mại
6. Xí nghiệp dệt may Legamex – TP Hồ Chí Minh
7. Xí nghiệp sản xuất bao bì - TP Hà Nội
Sau một thời gian làm thử, cả 7 DNNN được Chính phủ chọn thí điểm đều xin rút hoặc không đủ điều kiiện để tiến hành cổ phần hoá như là Legamex, Nhà máy xà phòng Việt nam... Sau tiến trình 4 năm thực hiện chỉ thị 202/CT, có 5 doanh nghiệp đã được chuyển sang công ty cổ phần:
1. Công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển – Bộ Giao thông
2. Công ty cổ phần cơ điện lạnh – TP Hồ Chí Minh
3. Công ty cổ phần giày Hiệp An – Bộ Công Nghiệp
4. Công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An
5. Công ty chế biến thức ăn gia súc – Bộ Nông Nghiệp
Trong đó 2 doanh nghiệp đi tiên phong chủ trương cổ phần hoá là Công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển (Bộ Giao thông) và Công ty cổ phần cơ điện lạnh (TP Hồ Chí Minh). Hai công ty này đă hoàn thành việc cổ phần hoá và chính thức hoạt động theo hình thức công ty cổ phần từ ngày 1/10/1993.
Sau 4 năm thực hiện, chúng ta đã rút ra được một số kinh nghiệm để bổ sung và sửa đổi việc cổ phầ hoá các DNNN. Ngày 7/5/1996 Chính phủ đã ra nghị quyết số 28/CP thay cho nghị quyết 202/CP với những quy định cụ thể rõ ràng hơn. Đến đầu năm 1998 có 36 tỉnh, thành phố, bộ ngành và các tổng công ty 91 đã đăng kí hơn 200 doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá chiếm 3% trong tổng số DNNN, và đã tiến hành cổ phần hoá được 13 doanh nghiệp, số doanh nghiệp đang tiến hành ở các bước xác định giá trị doanh nghiệp, kiểm toán là 30 doanh nghiệp. Đầu năm 1998 có 18 doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá chuyển sang hoạt động theo luật công ty. Trong 18 doanh nghiệp đó, có 1 doanh nghiệp mà nhà nước không nắm giữ cổ phần đó là Công ty đầu tư sản xuất và thương mại Hà nội, còn lại 17 công ty cổ phần Nhà nước nắm giữ ít nhất 18% và cao nhất là 51%. Cổ phần do người lao động trong công ty chiếm từ 18 – 50%. Cổ phần còn lại do cổ đông ngoài xã hội nắm giữ. Sau khi thí điểm và rút kinh nghiệm, tại thông báo số 63/TB-TU ngày 4/4/1997, Bộ Chính Trị đã tổng kết và cho ý kiến chỉ đạo tiếp tục triển khai vững chắc cổ phần hoá DNNN. Ngày 29/6/1998 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 44/1998/NĐ-CP về “Chuyển DNNN thành công ty cổ phần, kèm phụ lục danh mục các loại DNNN để lựa chọn cổ phần hoá”. Theo phụ lục này, chỉ có một số doanh nghiệp đặc biệt Nhà nước chưa cổ phần hoá và một số DNNN quan trọng khác nhà nước cần nắm cổ phần chi phối, còn lại cơ bản các DNNN khác đều chuyển thành công ty cổ phần.
Những thành tựu đạt được:
Tính đến giữa quí III năm 2000, cả nước ta có 451 DNNN được cổ phần hoá, một con số còn ít so với mục tiêu đặt ra. theo dự kiến của chính phủ thì cuối năm 2000 sẽ có khoảng 1000 DNNN chuyển sang hình thức công ty cổ phần. Kết quả nghiên cứu, tổng kết thực tiễn ở một số doanh nghiệp điển hình trước và sau khi Cổ phần hoá đã chứng tỏ rằng cổ phần hoá là một chủ trương đúng. Mục tiêu của chủ trương này là huy động thêm vốn, đổi mới phương thức quản lý để tăng hiệu quả kinh tế, tạo động lực cho sự phát triển, qua đó cơ cấu lại khu vực kinh tế nhà nước, xác định quyền làm chủ thực sự của người lao động trong doanh nghiệp. Đánh giá về thành công của chủ trương này ta hãy xem xét những mục tiêu đạt được:
- Về huy động vốn: Theo tính toán của các nhà kinh tế, trong dân hiện còn một nguồn vốn nhàn rỗi khoảng 8 tỷ USD. Cổ phần hoá chính là biện pháp có hiệu quả để huy động nguồn vốn này cho phát triển kinh tế nếu doanh nghiệp hoạt động sản xuất không có hiệu quả. Đây không chỉ là nhiệm vụ trước mắt mà còn là một chiến lược lâu dài. Thống kê 451 DNNN cổ phần hoá có giá trị phần vốn lớn nhà nước là 1649 tỷ đồng qua cổ phần hoá đã thu thêm được 1432 tỷ đồng của các cá nhân, pháp nhân thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau đầu tư vào. Đồng thời thông qua việc bán cổ phiếu, Nhà nước đã thu lại 814 tỷ đồng để đầu tư vào các DNNN khác và dùng vào việc giải quyết chính sách cho người lao động trong DNNN thực hiện cổ phần hoá. Về số tuyệt đối thì đây chưa phải là lớn, nhưng tỉ lệ thì rất đáng khích lệ.
Phần vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp khi cổ phần hoá được xác định lại nhìn chung đều tăng lên từ 10 – 15% so với giá trị ghi trên sổ sách. Như vậy, khi thực hiện cổ phần hoá, vốn của Nhà nước tại các doanh nghiệp cổ phần hoá lại không mất đi mà được tăng lên, hơn nữa lại còn thu hút thêm được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân.
Tuy nhiên, số lượng 451 doanh nghiệp cổ phần hoá mới chỉ chiếm 7% tổng số DNNN hiện có. Số vốn của nhà nước tại các doanh nghiệp cổ phần hoá so với tổng số vốn của nhà nước tại các DNNN hiện nay chỉ chiếm gần 1%. Điều này cho thấy số lượng doanh nghiệp cổ phần hoá và số vốn nhà nước cổ phần hoá cồn chiếm tỉ trọng rất nhỏ, chưa có tác động đáng kể đến việc cơ cấu lại vốn của khu vực DNNN.
- Về đổi mới phương thức quản lý kinh tế và hiệu quả sản xuất kinh doanh: vì trong cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần do có Hội đồng quản trị và cao hơn là Đại hội cổ đông nên hoạt động tài chính của doanh nghiệp thường xuyên được giám sát. Lợi ích của doanh nghiệp luôn gắn chặt với lợi ích của cổ đông mà cổ đông của nhưng công ty cổ phần này có số lượng lớn là người lao động trong công ty nên họ là những chủ nhân thực sự. Cũng thông qua Đại hội cổ đông và hội đồng quản trị trí tuệ tập thể đã được phát huy, nhờ đó mà phương thức quản lý kinh tế không ngừng được đổi mới cho phù hợp với tình hình biến động của nền kinh tế xã hội. (theo thống kê của Ban đổi mới quản lý Trung Ương, các doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá đều làm ăn có hiệu quả. Doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách, tích luỹ vốn đều tăng.
+ Về doanh thu: Bình quân các doanh nghiệp đều tăng gấp 2 lần so với trước khi cổ phần hoá. Điển hình là công ty Cổ phần cơ điện lạnh đã phát triển vượt bậc (Trong năm 1999, Doanh thu đạt 478 tỉ đồng, gấp gần 4 lần so với trước khi cổ phần hoá, Công ty cổ phần Bông Bạch Tuyết (năm 1999, Doanh số đạt 86 tỷ đồng, gấp 1,5 lần so với trước khi cổ phần hoá.
+ Về lợi tức cổ phần: Bình quân đạt từ 1 – 2%/tháng. Trong điều kiện nước ta đang phải chịu ảnh hưởng của nhưng cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực, sự cạnh tranh khốc liệt do toàn cầu hoá và sự hội nhập kinh tế mang lại thì mức độ lợi tức cổ phần như vây là tốt và được cổ đông chấp nhận.
+ Về vốn: Tính bình quân thì số lượng vốn đã tăng gần 2.5 lần so với trước khi cổ phần hoá, trong đó nổi bật nhất là công ty Chế biến hàng xuất khẩu Long An, tổng số vốn tăng 5 lần.
+ Về nộp ngân sách: Tăng bình quân 2 lần so với trước khi cổ phần hoá, trong đó điển hình là công ty cơ điện lạnh TP Hồ Chí Minh tăng gấp 3 lần.
+ Về việc làm và thu nhập cho người lao động: Đây là vấn đề khiến người lao động hết sức băn khoăn, lo lắng khi chuyển sang công ty cổ phần bởi họ nghĩ rằng khi đă là doanh nghiệp cổ phần, tài sản trong doanh nghiệp không còn hoàn toàn của Nhà nước, các ông chủ mới là người nắm trong tay đa số cổ phiếu của công ty, họ có thể chỉ chạy theo lợi nhuận, sa thải công nhân mà không một đoàn thể nào bảo vệ họ. Nhưng trên thực tế, hầu như không có một công ty cổ phần nào sa thải vô lý công nhân, không những thế thu nhập và việc làm của họ luôn ổn định và có xu hướng tăng lên. Do luôn luôn phải mở rộng sản xuất kinh doanh đảm bảo sự phát triển lâu dài nên các doanh nghiệp này đã tạo thêm nhiều việc làm, lao động tăng bình quân 12%, thu nhập của người lao động tại các công ty cổ phần tăng bình quân hàng năm gần 20% (chưa kể cổ tức). (Năm 1999 thu nhập của công nhân viên Công ty cổ phần Đại lý liên hiệp vận chuyển đạt 4tr đồng/người/tháng, gấp 3 lần so với trước khi cổ phần hoá.
Được làm việc trong môi trường và cơ chế mới người lao động đã thực sự gắn lợi ích của mình với lợi ích của doanh nghiệp; tự giác, tổ chức kỷ luật, chủ động sáng tạo, tiết kiệm... đó chính là những yếu tố góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, mang lại lợi ích thiết thực cho bản thân, công ty, Nhà nước và xã hội.
Qua năm 2000, năm chuyển giao của thiên niên kỷ đã có 692 DNNN được chuyển hình thức sở hữu. Trong 3 năm từ 2000-2002, đã có 1489/2000 DNNN thuộc diện phải cổ phần hoá đã áp dụng cổ phần hoá, đa dạng sở hữu (63,5%). Còn lại áp dụng hình thức hợp nhất vào các DN khác là 16,7%: Giải thể phá sản là 6%; Đơn vị sự nghiệp 2%. Tăng vốn bình quân (quy mô DNNN) từ 18.425 tỷ đồng lên 27117 tỷ đồng; Giảm được 18,5% tổng nợ và 21% số nợ Ngân hàng. Bên cạnh đó cùng với việc thiết lập được một hệ thống quản lý mới chúng ta đã có thêm những doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh cao. Tỷ trọng DNNN chuyển sang cổ phần hóa hoạt động thực sự có hiệu quả, có khả năng đứng vững trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới và khu vực đạt 21% hiên nay và phấn đấu đạt 50% vào năm 2003. Số lao động hiện đang làm việc trong các DNNN dự kiến cổ phần hoá trong 3 năm đó là 311977 người, bằng 72,7% tổng số lao động trong các doanh nghiệp thuộc diện phải xắp xếp lại và chỉ chiếm 1,9% tổng số lao động đang làm việc tại gần 5300 DNNN hiện nay. Về quy mô, các doanh nghiệp thuộc diện sắp xếp lại nói chung cũng như thực hiện cổ phần hoá nói riêng đa phần là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Số DNNN có vốn dưới 10 tỷ đồng chiếm 75% và thuộc những nghành nhà nước không cần nắm giữ
3. Những mặt chưa được và nguyên nhân
Cổ phần hoá DNNN là một công việc còn khá mới mẻ, phức tạp, vì vậy việc nghiên cứu các cơ chế chính sách cổ phần hoá còn chậm chạp. Các văn bản ban hành còn thiếu đồng bộ, chồng chéo; Quy trình triển khai phức tạp, còn nhiều mặt chưa hợp lý. Như các văn bản pháp quy về thực hiện chủ trương khống chế tỷ lệ mua cổ phần của các cán bộ quản lý và cá nhân trong lần mua đầu tiên đã làm giảm nhiệt tình và niềm tin của người lao động; Các thủ tục pháp lý về xác định giá trị doanh nghiệp, nhà xưởng đất đai còn rườm rà mất nhiều thời gian, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp thuộc các Bộ, Tổng công ty 91. Đồng thời, trong một thời gian dài chậm trễ quy định phạm vi các DNNN được cổ phần hoá, chưa đề ra mục tiêu cổ phần hoá hàng năm để phấn đấu thực hiện.
Chưa có môi trường thật sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Một số nơi coi công ty cổ phần là doanh nghiệp ngoài quốc doanh nên không được ưu ái như DNNN. Mặt khác do luật công ty trước đây và luật DNNN đều chưa quy định rõ vai trò quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp đa sở hữu có vốn góp của Nhà nước đã dẫn đến tình trạng mỗi nơi vận dụng theo một hình thức riêng, không thống nhất.
Về nhận thức: Do cổ phần hoá đụng chạm đến lợi ích, bao gồm cả lợi ích cục bộ của nghành, đơn vị và cả lợi ích cá nhân, thêm nữa là thói quen trì trệ thích yên ổn, ngại thay đổi nên không ít các Tổng Công ty ngần ngại chỉ đạo triển khai thực hiện cổ phần hoá vì tâm lý e ngại rằng khi một công ty thành viên tiến hành cổ phần hoá tính độc lập sẽ cao hơn, ít lệ thuộc vào Tổng Công ty hơn. Cũng có những đơn vị có đề án tổng thể sắp xếp lại DNNN trong phạm vi quản lý nhưng lại không có chương trình kế hoạch cụ thể mà việc triển khai chỉ mang tính chất hình thức, đối phó.
Ngay cả Ban chỉ đạo cổ phần hoá TƯ không đủ thẩm quyền quyết định trực tiếp các đề án, kế hoạch cổ phần hoá các DNNN, chỉ có nhiệm vụ hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc và giám sát các Bộ, Ngành, địa phương thực hiện cổ phần hoá bên cạnh đó Ban chỉ đạo cổ phần hoá các cấp lại còn phải kiêm nhiệm nhiều việc nên chưa tập trung được hết vào công tác chỉ đạo dẫn đến công việc bị chậm trễ kéo dài và không có tính hiệu quả cao.
Hơn nữa, việc tuyên truyền quán triệt tư tưởng chỉ đạo về cổ phần hoá trong nội bộ các cấp có thẩm quyền, tới cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp được cổ phần hoá, tới người dân còn bị xem nhẹ, đặc biệt là ở các khâu trung gian như Sở, Ban nghành, Tổng Công ty. Chưa có một chế tài cụ thể đối với việc chấp hành chủ trương cổ phần hoá, thậm chí có nơi không triển khai cũng không sao. Do đó chưa tạo được sự quan tâm và hưởng ứng tích cực của toàn xã hội đối với chủ trương cổ phần hoá
Ngoài các lý do trên còn có một nguyên nhân khác, đó là căn bệnh nằm ngay trong nội tại các doanh nghiệp cổ phần hoá. Trước hết là tình trạng tài chính nhập nhèm, nợ đọng dây dưa, nhiều năm không quyết toán được. Giá trị doanh nghiệp cũng là một vấn đề vì hầu hết các DNNN, giá trị được phản ánh trên sổ sách khác xa so với giá trị thực của doanh nghiệp. K
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0789.doc