Lời nói đầu 1
CHƯƠNG I: MỘT SỐ NỘI DUNG LÝ LUẬN CỦA CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC. 2
1. Doanh nghiệp Nhà nước và vai trò của doanh nghiệp Nhà nước. 2
1.1. Doanh nghiệp Nhà nước. 2
1.2. Vai trò của doanh nghiệp Nhà nước. 3
2. Khái niệm cổ phần hoá, các hình thức cổ phần hoá. 3
3. Phân biệt cổ phần hoá và tư nhân hoá. 6
II. Sự cần thiết của quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. 7
1. Những lợi ích có thể đạt được từ việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. 8
2. Sự cần thiết phải cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. 10
III. chủ trương, chính sách cổ phần hoá của Đảng và Nhà nước ta. 10
IV. Những nội dung chủ yếu trong quá trình cổ phần hoá. 12
1. Xác lập mục tiêu cổ phần hoá. 12
2. Xác định điều kiện cổ phần hoá. 12
3. Quy trình cổ phần hoá một doanh nghiệp Nhà nước 13
V. kinh nghiệm cổ phần hoá ở một số nước trên thế giới. 16
1. Kinh nghiệm cổ phần hoá của Hungary. 17
2. Trung quốc. 17
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HOÁ CÓ MỘT SỐ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC. 19
1. Thực trạng chung. 19
CHƯƠNG III: MỘT SỐ VƯỚNG MẮC PHÁT SINH VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨYMẠNH QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC. 22
1. Trong quá trình xác định giá trị doanh nghiệp. 22
2. Trong quá trình bán cổ phần. 23
3. Giải quyết việc làm cho người lao động. 24
4. Về cơ chế chính sách của Nhà nước. 25
5. Một số vấn đề khác. 26
KẾT LUẬN 28
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 29
31 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1147 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à 34%.
Tư nhân hoá toàn bộ là việc chuyển toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước trong doanh nghiệp vào tay tư nhân. Việc này có thể xảy ra ngay lập tức hoặc là bước tiếp theo của tư nhân hoá một phần.
Để thực hiện quá trình tư nhân hoá, có thể sử dụng nhiều biện pháp, bán cho tư nhân, cho không công nhân viên chức hoặc toàn dân (như Tiệp Khắc, Balan, Liên Bang Nga đã làm) bán đấu giá tài sản, bán một phần tài sản thuộc sở hữu Nhà nước cho các thành phần kinh tế.
Như vậy qua việc phân tích trên chúng ta thấy về mặt hình thức thì cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta giống với giải pháp tư nhân hoá một phần ở các nước khác. Nhưng những đặc điểm khác biệt là sau khi thực hiện quy trình cổ phần hoá bắt buộc phải chuyển đổi sang công ty cổ phần và sẽ không có một cá nhân hay một gia đình nào chiếm được trên 50% cổ phiếu do vậy cổ phần hoá không phải là tư nhân hoá.
II. Sự cần thiết của quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước.
1. Những lợi ích có thể đạt được từ việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước.
Xu hướng cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở các nước diễn ra ngày càng phổ biến và những lợi ích thực tế thu được từ nó là điều không thể phủ nhận. Qua nghiên cứu thực tế, người ta rút ra rằng chính phủ các nước tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước có thể đạt được các lợi ích cơ bản sau:
Thứ nhất: Nó tạo động lực mạnh mẽ cho các nhà đầu tư cho nền kinh tế bằng cách đa dạng hoá sở hữu qua cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước tạo điều kiện bán cổ phần, thu hút vốn đầu tư của nhiều thành phần kinh tế, mở cửa cho việc đa dạng hoá sở hữu không riêng gì cho các doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hoá, mà còn góp phần đa dạng hoá sở hữu cả nền kinh tế. Và chính việc đa dạng hoá sở hữu này sẽ tạo động lực cho người đầu tư, người có cổ phần, người lao động và cho cả nền kinh tế, tiếp thêm sức cho yêu cầu cạnh tranh thị trường vì mục tiêu lợi nhuận, vì quyết tâm tính hiệu quả tối ưu cho đồng vốn đầu tư của pháp nhân và cá nhân trong hoạt động kinh tế.
Hai là: Đạo điều kiện mở cửa cho thị trường vốn ra đời đáp ứng vốn phong phú của cả nền kinh tế. Việc thu hút vốn cổ phần của nhiều thành phần kinh tế thông qua phát hành và bán cổ phiếu đặt ra yêu cầu phải xây dựng một thị trường vốn đa dạng, phong phú và cũng là cơ sở ra đời thị trường chứng khoán. Việc thu hút vốn một cách năng động và phong phú qua các thị trường vốn ngân sách Nhà nước. Vì vậy việc cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước sẽ mở ra khả năng tích cực cho việc hình thành các hoạt động của thị trường vốn, thị trường chứng khoán.
Ba là: Hình thành những điều kiện thuận lợi mới để cơ cấu lại nền kinh tế phân bổ theo nhiều thành phần kinh tế từ đó cũng có cơ sở để kế hoạch lại nền kinh tế dựa trên hai vế hết sức quan trọng là: động lực sở hữu của nhiều thành phần kinh tế và việc phân công lao động toàn xã hội theo tác động của thị trường cạnh tranh. Đây cũng là cơ sở thực tế để điều chỉnh,đổi mới cách thức lãnh đạo, quản lý của Nhà nước, cần xác định lại vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế Nhà nước trên những mũi nhọn chiến lược, ngành chủ lực để thực hiện vai trò điều tiết, ngăn chặn khủng hoảng kinh tế hơn là bao cấp rộng rãi nhiều lĩnh vực, nhiều ngành nghề, đầu tư vốn quá lớn, quá tràn lan không nắm chắc hiệu quả đồng vốn, đưa đến nguy cơ bấp bênh, thua lỗ việc cơ cấu lại nền kinh tế mở cửa thị trường sức lao động theo quan điểm kinh tế hoá sức lao động của nền kinh tế, mở cửa thị trường sức lao động đáp ứng yêu cầu phát triển đa dạng nền kinh tế quốc dân.
Bốn là: tác động tích cực đến việc cải tiến quản lý có hiệu quả hơn. Việc cổ phần hoá, hình thành các công ty cổ phần cũng có nghĩa là xác định vai trò chủ nhân trong tập thể cụ thể là hội ddồng quản trị, thay mặt và chức trách hiệm về hiệu quả của đồng vốn, hiệu quả sản xuất kinh doanh đối với tất cả các cổ đông góp vốn, hội đồng quản trị thực hiện làm chủ thực của công ty của các cổ đông thành viên trong đó có cả thành viên của hội đồng quản trị với động lực vì hiệu quả. Đây cũng là giải pháp hạn chế tới mức thấp nhất sự can thiệp thô bạo, phí kinh tế của các cơ quan công quyền hạn chế các chỉ đạo vốn có của một doanh nghiệp Nhà nước. Viề vậy chủ thực sự của công ty, xí nghiệp là hội đồng quản trị thay mặt các cổ đông và được các cổ đông bầu lên, chứ không phải ai khác. Đây cũng là điều kiện thuận lợi cho việc tách rời chức năng quản lý sản xuất kinh doanh với chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế, tạo thế chủ động cho người bỏ vốn ra đầu tư trong mọi bài toán hiệu quả đối với đồng vốn của mình, củng cổ động lực cạnh tranh trong nền kinh tế.
Năm là: thực hện quyền làm chủ thực sự của người lao động. Đối với việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, tất cả người lao động trong hoạt động bằng số tiền hưởng từ quỹ phúc lợi của doanh nghiệp được phân bổ và cả vốn riêng của cá nhân đều có thể tham gia mua cổ phần của công ty cổ phần hoá. Với việc góp vốn này, người lao động từ công nhân trực tiếp sản xuất đến giám đốc đều có thể trở thành người chủ thực sự đồng vốn của mình được tha gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào phương hướng kế hoạch và trong sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần với quyết tâm và ý chí chung là gặt hái được hiệu quả cao nhất, tốt nhất.
Sáu là: Tạo môi trường vừa cạnh tranh vừa hợp tác theo xu hướng hình thành các tập đoàn kinh tế mạnh với mục đích lợi nhuận cao. Với việc đa dạng hoá sở hữu của từng công ty và của cả nền kinh tế ngoài việc tạo động lực mạnh mẽ cho cạnh tranh theo hướng lợi nhuận, hiệu quả nó còn tạo được đòn bảy kích thích vừa cạnh tranh vừa liên kết để hình thành các tập đoàn kinh tế chuyên ngành, đa ngành, các tập đoàn kinh tế này sẽ có thế mạnh về thị trường về vốn và sẽ có thể thu hoạch được hiệu quả ngày một cao. Đây là kinh nghiệm có thực của tất cả các nước NICs phát triển và ở các nước NICs gần đây. Đây cũng là tiền đề và triển vọng cho việc hình thành các công ty, các tập đoàn đa quốc gia, xuyên quốc gia trong nền kinh tế thế giới hiện nay.
2. Sự cần thiết phải cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Mặc dù nền kinh tế mà chúng ta đã chuyển sang cơ chế thị trường nhưng những hậu quả của cơ chế bạo cấp vẫn là những gánh nặng lớn đối với toàn xã hội. Sự tồn tại của hàng loạt các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn không có hiệu quả, kém hiệu quả đang là gánh nặng cho nền kinh tế. Giải pháp đặt ra là cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Với việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước sẽ huy động được vốn của toàn xã hội bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xây dựng trong và ngoài nước, để đầu tư đổi mới công nghệ tạo thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thực hiện cơ cấu lại doanh nghiệp Nhà nước.
Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những người đã đóng góp vốn được làm chủ thực sự, thay đổi phương thức quản lý, tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản Nhà nước nâng cao thu nhập thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước.
Còn một lợi ích nữa có thể nhận thấy được, đó là việc giảm bớt các doanh nghiệp Nhà nước sẽ giảm bớt gánh nặng cho ngân sách vì đã số cá doanh nghiệp Nhà nước này làm ăn kéo hiệu quả và phải bù lỗ. Đây cũng là mục tiêu chính yếu vì nếu chỉ nhằm những mục tiêu trên thì Nhà nước chỉ cần khuyến khích lập các công ty cổ phần.
iii. chủ trương, chính sách cổ phần hoá của Đảng và Nhà nước ta.
Chủ trương cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước của nước ta đã đượ đưa ra từ rất sớm. Trong nghị quyết hội nghị lầ 2 ban chấp hành trung ương Đảng khoá 7 (tháng 11-1991) ''chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước có điều kiện thành công ty cổ phần và thành một số công ty quốc doanh cổ phần mới''.
Chủ trương đó được tiếp tục phát triển qua hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiều kỳ khoá 7-11-1991, hội nghị quyết định đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ 8(7-1996).
Thực hiện nghị quyết Đảng và quốc hội, chính phủ đã ban hành những văn bản triển khai việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước như:
- Quyết định 202/CT ngày 8-6-92 của chủ tích hội đồng bộ trưởng nay là thủ tướng chính phủ về việc tiếp tục thí điểm chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần.
- Nghị định số 28/CP ngày 7-5-96 của chính phủ về việc chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần.
- Nghị định số 28/CP ngày 26-3-97 của chính phủ về sửa đổi một số điều kiện của nghị định số 28/CP.
- Quyết định 01/CPH ngày 9-6-96 của bộ trưởng ban cổ phần hoá Trung ương về'' các thủ tục chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần''.
- Nghị định số 44/CP ngày 29-6-98 về việc chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần.
Trong đó nghị định 44/CP ngày 29-6-98 của chính phủ là văn bản có tính chất pháp lý cao nhất cho đến nay quyết định một cách tương đối đầy đủ và toàn diện về mục tiêu, nguyên tắc, phương pháp, các chính sách ưu đãi và tổ chức thực hiện cổ phần hoá.
Như vậy chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước đã được đề ra từ rất sớm (1991) và trở thành chủ trương xuyên suốt là nhiệm vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước trong chương trình phát triển kinh tế xã hội dài hạn của đất nước.
iv. Những nội dung chủ yếu trong quá trình cổ phần hoá.
1. Xác lập mục tiêu cổ phần hoá.
Mục tiêu cổ phần hoá đã được chỉ rõ trong nghị định số 44/CP về việc chuyển các doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần.
Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm các cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm công ăn việc làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, cơ cấu lại doanh nghiệp Nhà nước.
Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần là những người góp vốn được làm chủ thực sự, thay đổi phương thức quản lý tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản Nhà nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước.
Góp phàn giảm gánh nặng ngân sách cho Nhà nước do việc phải thường xuyên bù lỗ cho các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn kém hiệu quả.
Với những mục tiêu trên có thể thấy rằng vấn đề hiệu quả sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp Nhà nước cần phải được giải quyết một cách cơ bản. Sự lựa chọn giải pháp cổ phần hoá là con đường hiệu quả giải quyết được những vấn đề cơ bản đồng thời tạo ra mô hình doanh nghiệp hữu hiệu trong nền kinh tế thị trường đáp ứng được yêu cầu kinh doanh hiện đại đó là các công ty cổ phần. Đối chiếu với mục tiêu cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước của các nước trên thế giới các mục tiêu ở đây có sự lựa chọ cơ bản và khiêm tốn hơn, không đặt ra quá nhiều mục tiêu cũng như không đạt ra những mục tiêu quá sức như ở một số nước.
2. Xác định điều kiện cổ phần hoá.
Các doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hoá phải thoả mãn được các điều kiện sau:
- Không thuộc diện Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn đầu tư. Tức là không phải là các doanh nghiệp Nhà nước có vị trí trong yếu trong nền kinh tế mà Nhà nước cần năm giữ.
- Trước mắt tuy có gặp khó khăn nhưng có triển vọng sẽ hoạt động tốt (có phương án kinh doanh có hiệu quả).
- Ưu tiên đối với các doanh nghiệp Nhà nước có quy mô vừa và nhỏ (từ những doanh nghiệp cổ phần hoá theo hình thức giữ nguyên giá tự nhiên có, phát hành cổ phiếu với mục đích thu hút thêm vốn để phát triển doanh nghiệp).
3. Quy trình cổ phần hoá một doanh nghiệp Nhà nước
Theo quyết định số 01/CPH ngày 4-9-96 của bộ trưởng, trưởng ban chỉ đạo trung ương cổ phần hoá và công văn số 3395-VPCP/ĐMDN ngày 29-8-98 của văn phòng chính phủ thì quy định chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần được tiến thành qua bốn bước sau đây.
Bước 1: Chuẩn bị cổ phần hoá.:
Bước chuẩn bị cổ phần hoá do cơ quan quản lý doanh nghiệp Nhà nước và các doanh nghiệp trong danh sách cổ phần hoá tiến hành. Vấn đề quan trọng nhất trong bước này là lựa chọn doanh nghiệp để cổ phần hoá.
Để chuẩn bị cho việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, các cơ quan quản lý doanh nghiệp (như các bộ) cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ, uỷ ban nhân dân tỉnh thành phố trực thuộc trung ương, Hội đồng quản trị của Tổng công ty 91 ra quyết định thành lập ban chỉ đạo cổ phần hoá của bộ, địa phương và lựa chọn doanh nghiệp, bộ phận doanh nghiệp để cổ phần hoá dựa trên việc nghiên cứu các điều kiện, tình hình kinh doanh và nguyện vọng của doanh nghiệp Nhà nước.
Cơ quan quản lý doanh nghiệp thông báo cho từng doanh nghiệp được lựa chọn biết về quyết định tiến hành cổ phần hoá ở doanh nghiệp đó và sau đó tiến hành thành lập ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp.
Thành phần của ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp được quy định tại quyết định số 548/TTg, cụ thể bao gồm: giám đốc hoặc phó giám đốc doanh nghiệp làm trưởng ban, kế toán rưởng hoặc trưởng phòng kế toán tài vụ là uỷ viên thường trực, các thành viên khác là trưởng hoặc phó bí thư, chủ tịch hoặc phó chủ tịch công đoàn.
Ban đổi mới quan rlý lại doanh nghiệp có các nhiệm vụ sau:
- Tuyên truyền, phổ biến, giải thích cho người lao động trong doanh nghiệp về chủ trương, chính sách và những quy định liên quan đến cổ phần hoá.
- Ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp chuẩn bị các tài liệu, số liệu có liên quan đến sản xuất, tài chính, lao động của doanh nghiệp. Các tài liệu này gồm có: báo cáo về tình hình công nợ, tài sản, vật tư ứ đọng, kém, mất phẩm chất, phân tích nguyên nhân và đề ra phương hướng giải quyết, báo cáo danh sách lao động của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hoá. Ngoài ra, ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp còn có nhiệm vụ lập dự toán chi phí cổ phần hoá và tiến hành kiểm kê tài sản, vật tư, tiền vốn, công nợ của doanh nghiệp.
Bước 2: Xây dựng phương án cổ phần hoá doanh nghiệp, bộ phận doanh nghiệp.
Bước này được thực hiện bởi cơ quan quản lý doanh nghiệp, bộ tài chính (hệ thống tổng cục quản lý vốn và tài sản của Nhà nước tại doanh nghiệp) và ban đổi mới quản lý doanh nghiệp.
Vấn đề cơ bản trong bước này là xây dựng phương án cổ phần hoá, xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp.
Cơ quan chủ quản có nhiệm vụ chỉ đạo ban cổ phần hoá doanh nghiệp xác định giá trị doanh nghiệp, xây dựng phương án cổ phần hoá, giải quyết những thắc mắc, kiến nghị của doanh nghiệp về phương án cổ phần hoá doanh nghiệp. Cơ quan này có nhiệm vụ thẩm tra giá trịnh doanh nghiệp do ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp trình, ra văn bản thoả thuận mức giá trị thực tế của doanh nghiệp gửi bộ tài chính quyết định.
Cục quản lý vốn và tài sản Nhà nước tạo doanh nghiệp (bộ tài chính) có nhiệm vụ kết hợp với cơ quan chủ quản ký hợp đồng với cơ quan kiểm toán hợp pháp và xử lý những vấn đề tài chính vướt quá quyền hạn của doanh nghiệp, thoả thuận với cơ quan chủ quản và ban hành văn bản quyết định giá trị thực tế của doanh nghiệp trong thời hạn 30 ngày kể từ khi nhận đủ hồ sơ đề nghị xác định giá trị doanh nghiệp.
Ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp lập phương án chia quý khen thưởng phúc lợi bằng tiền, xác định số cổ phiếu cấp cho người lao động để hưởng cổ tức và số tiền cho vay để mua chịu cổ phiếu, bổ biến hoặc các dự kiến phương án nêu trên cho người lao động trong doanh nghiệp biết và thảo luận để thống nhất cùng thực hiện. Căn cứ vào kết quả kiểm toán và hướng dẫn của Bộ tài chính, ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp lập hội đồng xác định giá trị doanh nghiệp.
Sau khi giá trị thực tế của doanh nghiệp được dự kiến, ban đổi mới quản lý doanh nghiệp báo cáo cơ quan chủ quản để thông qua trước khi trình bộ tài chính quyết định sau đó, ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp lập phương án cổ phần hoá.
Sau khi xây dựng song phương án cổ phần hoá, ban đổi quản lý mới tại, doanh nghiệp tổ chức đại hội cổ đông công nhân viên chức bất thường để lấy ý kiến của người lao động và tiến hành hoàn chỉnh phương án này sau khi người lao động đã góp ý kiến.
Bước 3: Duyệt và triển khai phương án cổ phần hoá.
Việc duyệt và triển khai phương án cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước được thực hiện với cơ quan quản lý doanh nghiệp, Bộ tài chính (hệ thống quản lý vốn và tài sản của Nhà nước tại doanh nghiệp) và ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp.
Thẩm quyền xét duyệt phương án cổ phần hoá của những doanh nghiệp có vốn từ 10 tỷ đồng trở xuống thuộc về bộ quản lý ngành kinh tế - kỹ thuật, uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Đối với phương án cổ phần hoá của doanh nghiệp có vốn Nhà nước trên 10 tỷ đồng thì bộ quản lý ngành kinh tế - kỹ thuật, uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương báo cáo lên trung ương cổ phần hoá và bộ tài chính để trình chính phủ phê duyệt.
Sau khi có quyết định xác nhận của cấp có thẩm quyền về giá trị doanh nghiệp, mức được bán hoặc mức được huy động vốn, để triển khai phương án cổ phần hoá, ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp làm những việc sau:
- Mở sổ đăng ký mua cổ phần của các cổ đông. Đăng ký mua từ cổ hiếu tịa kho bạc Nhà nước.
- Thông báo công khai tình hình tài chính của doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá.
- Thông báo việc bán cổ phiếu, tổ chức cho các cổ đông trong và người doanh nghiệp đăng ký mua cổ phần.
- Tổ chức bán cổ phần và nộ tiền vào tài khoản nợ tại kho bạc Nhà nước.
- Báo cáo tình hình thực hiện bán cổ phần hoá theo phương án cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước đã được duyệt với bộ quản lý ngành kinh tế - kỹ thuật hoặc uỷ ban nhân dân tính, thành phố trực thuộc trung ương hoặc hội đồng quản trị Tổng công ty 91.
- Tiến hành triệu tập đại hội cổ đông lần thứ nhất để bầu hội đồng quản trị và thông qua điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần.
Bước 4: Ra mắt công ty cổ phần đăng ký kinh doanh.
Sau khi phương án cổ phần hoá doanh nghiệp đã được triển khai, giảm đocó và kế toán trưởng doanh nghiệp sẽ bàn giao cho hội đồng quản trị công ty cổ phần vốn, tài sản của doanh nghiệp, danh sách người lao động trong doanh nghiệp, hồ sơ, danh sách cổ đông và toàn bộ hồ sơ, tài liệu sổ sách của doanh nghiệp dưới sự chứng kiến của ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp và đại diện cơ quan quản lý vốn và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp. Ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp bàn giao những công việc còn lại khác do hội đồng quản trị doanh nghiệp và tiến hành công việc còn lại để chính thức ra mắt công ty cổ phần.
v. kinh nghiệm cổ phần hoá ở một số nước trên thế giới.
Trên thế giới việc cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước cũng được các nước đặc biệt coi trọng. Bên cạnh những kết quả đặt được thì việc cổ phần hoá đó còn mang lại những bài học kinh nghiệm giá trị.
1. Kinh nghiệm cổ phần hoá của Hungary.
- Về điều kiện cổ phần hoá chính phủ Hungary chủ trương chỉ cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước loại vừa và lớn. Đối với những doanh nghiệp Nhà nước loại nhỏ chính phủ bán thẳng cho cán bộ công nhân viên đã và đang làm việc trong doanh nghiệp. Trong trường hợp những người lao động trong doanh nghiệp không đủ sức mua hết thì sẽ cho người Hungary ngoài doanh nghiệp mua một số ít trường hợp người nước ngoài cũng được mua.
Trong quy định chính phủ Hungary nêu rõ: Nhà nước chỉ dự phối 172 doanh nghiệp có vai trò quan trọng. Ngoài 172 doanh nghiệp đó, những doanh nghiệp Nhà nước còn lại đều phải thực hiện cổ phần hoá và bán cổ phiếu cho tất cả các đối tượng không phân biêt công nhân Hungary hay người nước ngoài.
- Việc cổ phần hoá được tiến hành thức công ty:
B1: Tổ chức lại doanh nghiệp Nhà nước theo hình thức công ty.
B2: Tiến hành cổ phần hoá từ những doanh nghiệp đã được công ty hoá.
2. Trung quốc.
Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là 1 bộ phận của chương trình đa dạng hoá sở hữu và là một giải pháp cải cách doanh nghiệp Nhà nước qua.
Chỉ đến đại hội 15 đảng cộng sản trung quốc (9-1997) vấn đề cổ phần hoá và xây dựng doanh nghiệp hiện đị mới thực sự được nhấn mạnh và đẩy nhanh với công thức ''củng cố doanh nghiệp lớn và giải phóng doanh nghiệp nhỏ'' và kế hoạch giảm dẫn theo 3 cấp:
- Nhà nước nắm giữ sở hữu 100% loại này có khoảng 1000 tập đoàn lớn trong các lĩnh vực chiến lược.
- Nhà nước là cổ đông tham khảo đối với các doanh nghiệp trung bình và vừa, không có tính chiến lược.
- Nhà nước cho phép cổ phần hoá, tư nhân hoá hàng loạt các doanh nghiệp nhỏ.
Hậu quả là việc sa thải hàng loạt công nhân tại các công ty tư nhân đã diễn ra. Trong khi chính phủ chưa có chính sách hỗ trợ lao động dôi dư, cộng với chức năng xã hội của doanh nghiệp Nhà nước trước đây bị tháo dỡ đã làm cho sức ép của số lao động dôi dư ngày càng tăng, de doạn sự ổn định chính trị. Tình hình trên bước chính phủ trung quốc phải kiềm chế tốc độ bán các doanh nghiệp Nhà nước.
Chương II
thực trạng cổ phần hoá có một số doanh nghiệp Nhà nước.
1. Thực trạng chung.
Từ khi tiến hành cổ phần hoá đến nay đã có hơn 650 doanh nghiệp Nhà nước được chuyển thành công ty cổ phần. Trong đó tính đến tháng 6-2000 có 56 công ty cổ phần có vốn điều lệ từ 10 tỷ đồng trở lên.
Nhìn chung hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước chuyển thành công ty cổ phần đều làm ăn có hiệu quả, kể cả các doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá bị thua lỗ. Doanh thu bình quân hàng năm tăng lên 25% số lượng lao động tăng bình quân hàng năm 10% thu nhập của người lao động tăng bình quân hàng năm 20% (chưa kể thu nhập từ cổ tức), lợi nhuận hàng năm tăng bình quân trên 26%. Các khoản nộp ngân sách tăng bình quân 30% năm, vốn điều lệ (bao gồm tích luỹ từ lợi nhuận, phát hành thêm cổ phiếu, tăng bình quân trên 25% năm. Lãi cổ tức đạt cao hưn lãi tiết kiệm, bình quân đạt 1,2% tháng có công ty đạt 2,5% tháng là nguồn cung cấp hàng cho thị trường chứng khoán.
Mặc dù số lượng các doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hoá và so với số lượng 2000 chuyển 1200 doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần và so với số lượng doanh nghiệp Nhà nước không thuộc diện doanh nghiệp cần nắm giữ 100% vốn thì tiến trình cổ phần hoá vẫn còn quá chậm.
Mặt khác hầu hết của doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá đều là các doanh nghiệp nhỏ, vốn điều lệ thấp (bình quân xấp ỉ 6 tỷ đồng trên 1 doanh nghiệp trong đó hơn 600 doanh nghiệp Nhà nước chuyển thành công ty cổ phần chỉ có khoảng hơn 50 công ty có vốn điều lệ trên 10 tỷ đồng. Phần vốn thuộc sở hữu của Nhà nước vẫn chiếm tỷ lệ lớn (35%, phần bán cho công nhân viên trong doanh nghiệp chếm tỷ lệ cao hơn 38%, tỷ lệ cổ phần bán ra cho công chúng ngoài doanh nghiệp thấp trong đó khoảng gần 40 công ty đạt tỷ lệ bán ra công chúng trên 20%.
Các doanh nghiệp cổ phần hoá phát hành cổ phiếu dưới hình thức chứng chỉ có mệnh giá phổ biến là 100.000 đồng gấp 10 lần mệnh giá quy định trong ghị định 48-1998/ND-CP các chứng chỉ này do kho bạc Nhà nước và cổ phiếu mua chịu cả cán bộ công nhân viên được lưu dữ tại công ty, phần cổ phiếu cán bộ công nhân viên đã mua và phần bán ra công chúng ngoài doanh nghiệp do cá nhân các nhà đầu tư nắm giữ.
* Về hình thức và điều kiện cổ phần hoá.
Trong những năm qua đã có được sự đa dạng về hình thức cổ phần hoá. Từ việc cổ phần hoá 100% ở các doanh nghiệp nhỏ đến việc giữ nguyên giá trị phát hành cổ phiếu để huy động thêm vốn tại các doanh nghiệp Nhà nước có quy mô ớn. Tuy nhiên theo các nhà đánh giá thì chính sách về hình thức cũng như điều kiện cổ phần hoá của Nhà nước vẫn chưa linh hoạt cho nên còn tạo ra tâm lý lo ngại, sợ trách nhiệm tại các doanh nghiệp thuộc diện cổ phần hoá. Do vậy làm kìm hãm tiến trình cổ phần hoá.
Vấn đề phổ biến chủ trương cổ phần hoá.
Vấn đề phổ biến chủ trương cổ phần hoá cho đến nay vẫn coi rất kém phần lớn các doanh nghiệp hiện nay còn ít quan tâm đến, nếu không nói là hững hờ với chủ trương cổ phần hoá. Điều này một mặt nói lên sự gắn bó lâu nay nhưng nay những mặt khác cũng thể hiện tính cách quen ỷ lại của các doanh nghiệp và người lao động đối với những gì là của Nhà nước. Các doanh nghiệp làm ăn tốt thì không ai nghĩ đến việc cổ phần hoá cho thêm rắc rối. Các doanh nghiệp đang gặp khó khăn, chủ yếu là do công nghệ lạc hậu, hàng hoá không có sức cạnh tranh trên thị trường thì lại càng có cơ sở để không giảm cổ phần hoá. Liệu cổ phần hoá có giải quyết được khó khăn cho các doanh nghiệp một cách nhanh chóng không? có điều gì là thực chứng ch thấy cổ phần hoá là đúng là cứu cánh cho các doanh nghiệp này? cac shình thức và bài học đúc kết chưa đủ sức thuyết phục.
Do nhiều nguyên nhân lịch sử phần đông người lao động nước ta ít có kinh nghiệm trong lao động ngần ngại, bỏ vốn đầu tư khi chung vốn với Nhà nước để tạo CTCP, người lãnh đạo sẽ là ai để có thể tin được là công ty sẽ ăn nên làm ra.
Một số cán bộ công nhân nợ rằng khi cổ phần hoá doanh nghiệp sẽ khó kiếm việc làm đặc biệt các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh các mặt hàng liên quan đến vốn ngân sách. Cán bộ công nhân còn ngại, cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước có thẻ mất chỗ làm việc, mất vị trí lãnh đạo, vị trí công tác đang ổn định, cho đến nay chúng ta đang từng bước dẫn hình thành nên thị trường chứng khoán cho đến nay mới chỉ có 6 công ty có vốn pháp định trên 10 tỷ đồng tham ra giao dịch và niêm yếu tại trong tam chứng khoán ở trong thành phố Hồ Chí Minh.
Chương III
một số vướng mắc phát sinh và những giải pháp nhằm đẩymạnh quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước.
Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước của ta đã tiến hành được một thời gian dài bên cạnh những mặt được còn tồn tại nhiều vươngs mắt cần có biệp pháp giải quyết.
i. Trong quá trình xác định gi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0854.doc