Đề tài Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn Hà Nội

MỞ ĐẦU 3

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC 5

1.1. Sự cần thiết phải cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. 5

1.1.1. Doanh nghiệp nhà nước và vai trò của doanh nghiệp nhà nước 5

1.1.2. Sự cần thiết phải cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam 7

1.2. Nội dung và qui trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. 11

1.2.1. Nội dung cơ bản của chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 11

1.2.2. Qui trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 13

1.3. Kinh nghiệm của Trung Quốc và Thành phố Hồ Chí Minh về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. 14

1.3.1. Kinh nghiệm Trung Quốc 14

1.3.2. Kinh nghiệm Thành phố Hồ Chí Minh 18

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI 21

2.1. Sơ lược quá trình cổ phần hoá ở Việt Nam. 21

2.1.1. Giai đoạn thí điểm (1992-5/1996) 21

2.1.2. Giai đoạn mở rộng (5/1996-6/1998) 23

2.1.3. Giai đoạn chủ động (7/1998-nay) 26

2.2. Thực trạng cổ phần hoá tại các doanh nghiệp nhà nước ở Hà Nội. 28

2.2.1. Khái quát tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Hà Nội giai đoạn 1996-2003 28

2.2.2. Đánh giá thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Hà Nội 29

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH TIẾN TRÌNH CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI HÀ NỘI 31

3.1. Quan điểm, mục tiêu cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước của Hà Nội đến cuối năm 2005. 31

3.1.1. Quan điểm tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 31

3.1.2. Mục tiêu 32

3.2. Một số giải pháp đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Hà Nội. 34

3.2.1. Nâng cao nhận thức của cán bộ công nhân viên về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 34

3.2.2. Hoàn thiện cơ chế chính sách về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 35

3.2.3. Lựa chọn doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá đồng thời củng cố lại doanh nghiệp trước khi tiến hành cổ phần hoá 42

3.2.4. Hoàn thiện cơ chế định giá doanh nghiệp nhà nước 43

3.2.5. Cần có cơ chế phân bổ và tổ chức bán cổ phiếu hợp lí hơn 46

3.2.6. Gắn sự phát triển thị trường chứng khoán với cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 49

KẾT LUẬN 50

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 51

 

 

doc51 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1397 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sở hữu của nhà nước trong các công ty vẫn giữ vai trò trọng yếu, chi phối hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Bài học kinh nghiệm từ quá trình cổ phần hoá ở thành phố Hồ Chí Minh: Từ thực tế cổ phần hoá của cả nước mà điển hình là thành phố Hồ Chí Minh cho thấy việc chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước sang hình thức công ty cổ phần chẳng những giúp nhà nước bảo tồn nguồn vốn của mình mà còn tăng đáng kể tỷ suất lợi nhuận trên nguồn vốn trước đây, nhà nước cũng thu hồi vồn để đầu tư cho các doanh nghiệp khác. Vai trò của người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá cũng có sự đổi khác họ vừa làm việc cho công ty cổ phần vừa là chủ sở hữu công ty trên cơ sở đồng vốn của mình. Vì thế ý thức và tinh thần trách nhiệm được nâng cao hơn trước. Hoạt động của các doanh nghiệp sau cổ phần hoá nhạy bén năng động tự chủ hơn trước. Nhờ đó mà chất lượng hiệu quả công việc cũng cao hơn trước, các khoản đóng góp vào ngân sách nhà nước cũng tăng lên. Cổ phần hoá đã đem lại lợi ích cho cả nhà nước, người lao động và cổ đông của doanh nghiệp. Từ thực tế đó đã chứng minh rằng chủ trương của Đảng và nhà nước ta về cổ phần hoá là hoàn toàn đúng đắn. Chương 2 thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn Hà Nội 2.1. Sơ lược quá trình cổ phần hoá ở Việt Nam. 2.1.1. Giai đoạn thí điểm (1992-5/1996) Giai đoạn này cả nước mới chỉ có 5 doanh nghiệp được cổ phần hoá. Trong đó Hà Nội không có doanh nghiệp nào được cổ phần hoá. Các công ty được cổ phần hoá đó là công ty cổ phần chế biến thức ăn gia súc Việt Phương, cổ phần hoá vào ngày 1/7/1995 với tổng vốn là 7.912 triệu đồng, nhà nước nắm giữ 30% số cổ phần tại doanh nghiệp. Công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển cổ phần hoá ngày 1/7/1993 với số vốn là 6.200 triệu đồng. Công ty cổ phần cơ điện lạnh ngày 1/10/1993 với số vốn ban đầu là 16.000 triệu đồng. Còn các công ty khác được cổ phần hoá lại ở các địa phương khác, mà nhà nước chủ yếu chỉ nắm giữ 30% cổ phần tại công ty. Riêng tại Công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển nhà nước chỉ nắm giữ 18% tổng số cổ phần. Các nghị quyết hội nghị Trung ương 2 khóa VII, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, Thông báo số 63 TB/TW của Bộ chính trị, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nghị quyết kỳ họp thứ 10 quốc hội khóa VII ngày 26/12/1991, Nghị quyết kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa IX tháng 12/1993 đều chủ trương: - Thực hiện từng bước vững chắc việc cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn nhằm ngăn chặn tiêu cực, thúc đẩy doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có hiệu quả. - Phải làm thí điểm, chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng phạm vi thích hợp. - Cần thực hiện các hình thức cổ phần hoá có mức độ thích hợp với tính chất và lĩnh vực sản xuất kinh doanh, trong đó sở hữu Nhà nước chiếm tỷ lệ cổ phần chi phối. - Tùy tính chất, loại hình doanh nghiệp mà tiến hành bán một tỷ lệ cổ phần cho công nhân, viên chức làm việc tại doanh nghiệp để tạo động lực bên trong trực tiếp thúc đẩy phát triển và bán cổ phần cho tổ chức hay cá nhân ngoài doanh nghiệp để thu hút thêm vốn, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh. Cụ thể hóa các nghị quyết của Đảng và của quốc hội, chính phủ (lúc đó là HĐBT) đã có quyết định 202/HĐBT ngày 8/6/1992 về việc : "tiếp tục thí điểm chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần", và chỉ thị 84/TTg ngày 4/3/1993 của thủ tướng về việc "xúc tiến thực hiện thí điểm cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước và các giải pháp đa dạng hóa sở hữu doanh nghiệp Nhà nước", đây là những cơ sở pháp lý đầu tiên của chính phủ hướng dẫn và thúc đẩy việc thực hiện thí điểm cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước. Về phía ngành tài chính cũng đã ban hành thông tư số 36/TC/CN ngày 7/5/1993 hướng dẫn những vấn đề về tài chính trong việc thực hiện thí điểm cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước. Có thế nói chương trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam thực sự bắt đầu từ năm 1992. Nhìn chung, do hoạt động cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước mới chính thức được thực hiện ở Việt Nam, do đó hệ thống cơ chế chính sách về cổ phần hóa cũng chưa lường hết được những khía cạnh phát sinh trong tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước như: - Còn quá nhiều chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp Nhà nước, đặc biệt là các chính sách tài chính, tín dụng nên dẫn tới các doanh nghiệp cảm thấy bị thiệt thòi, khó khăn khi chuyển sang hình thức công ty cổ phần. - Việc xử lý các tồn tại về tài sản trong doanh nghiệp chưa có hướng dẫn cụ thể, rõ ràng, còn mang tính chất khoán trắng cho doanh nghiệp (doanh nghiệp phải xử lý trước khi tiến hành cổ phần hóa), làm cho các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn hết sức lúng túng khi xử lý các vấn đề tồn tại. Thậm chí một số doanh nghiệp đã xin thôi không làm thí điểm vì trong một thời gian dài vẫn chưa xác lập được quyền sở hữu đối với một số tài sản được tiếp quản trong quá trình cải tạo công thương, hoặc không tự xử lý nổi các tồn tại về mặt tài chính khác như: các khoản lỗ, công nợ khó đòi hoặc hàng hóa ứ đọng kém, mất phẩm chất... - Chưa có các chính sách ưu đãi thỏa đáng cho doanh nghiệp và người lao động ở các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa, dẫn tới người lao động ở các doanh nghiệp này cảm thấy quyền lợi mình không được đảm bảo, quá bị thiệt thòi khi chuyển sang hình thức công ty cổ phần. 2.1.2. Giai đoạn mở rộng (5/1996-6/1998): Trong giai đoạn này đã có nhiều doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá hơn trong giai đoạn trước nhờ chính phủ đã quan tâm hơn đến công tác cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Và việc một số doanh nghiệp đã cổ phần hoá thành công đã và đang thu được nhiều kết quả khả quan cải thiện đáng kể năng lực cạnh tranh của công ty và hiệu quả sản xuất kinh doanh so với trước khi cổ phần hoá, đã thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá ở Việt Nam nhưng tốc độ vẫn chậm chạp chưa đảm bảo thực hiện được kế hoạch của nhà nước giao. Cụ thể đã có 111 doanh nghiệp đã được tiến hành cổ phần hoá chiếm 2% so với tổng số doanh nghiệp nhà nước. Trong đó Hà Nội chiếm khoảng 3,6% tổng số doanh nghiệp cổ phần hoá trên cả nước. Đặc biệt là năm 1998 trên địa bàn Hà Nội đã cổ phần hoá được 30 công ty với tổng số vốn đầu tư đạt 119.341 triệu đồng trong đó vốn nhà nước là 28.744 triệu đồng chiếm 24% tổng vốn đầu tư, vốn do cổ đông trong doanh nghiệp nắm giữ là 61.655 triệu đồng chiếm 51,6% số cổ phần của doanh nghiệp còn lại là số vốn do cổ đông ngoài doanh nghiệp nắm giữ, chỉ chiếm 24,3%. Như vậy cổ đông trong doanh nghiệp là người nắm giữ tỷ lệ áp đảo số cổ phần trong các doanh nghiệp. Nhưng nhìn chung quy mô vốn của các doanh nghiệp còn nhỏ do chưa có tích luỹ nội bộ, mỗi doanh nghiệp trung bình chỉ có gần 4 tỷ đồng vốn. Văn bản ban hành trong giai đoạn này là: Nghị định 28/CP ngày 7/5/1996 về việc chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Nghị định 25/CP ngày 26/3/1997 sửa đổi một số điều NĐ28/CP và chỉ thị 658/TTg ngày 20/8/1997 của Thủ tướng chính phủ về thúc đẩy triển khai vững chắc công tác cổ phần hóa. Tuy nhiên còn nhiều hạn chế đối với chính sách này, nên tốc độ cổ phần hoá đã chững lại trên cả nước (bao hàm cả yếu tố kinh tế quốc tế). - Mục tiêu huy động vốn chưa được khai thác tốt. NĐ28/CP chưa quy định việc bán cổ phần cho người nước ngoài và giới hạn đầu tư vốn của các nhà đầu tư trong nước từ 5-10% giá trị doanh nghiệp dẫn đến chủ yếu là cổ phần hóa nội bộ, rất ít doanh nghiệp cổ phần hóa rộng rãi ra công chúng. -Việc hướng dẫn, giải thích các tiêu thức để lựa chọn doanh nghiệp Nhà nước làm cổ phần hóa trong NĐ28 còn chưa đầy đủ, chưa rõ ràng (thế nào là quy mô vừa và nhỏ, thế nào là không thuộc diện Nhà nước cần thiết giữ 100% vốn đầu tư, tiêu chí gì để xác định? ai xác định? xí nghiệp tự xác định hay Nhà nước xác định..) - NĐ 28 đưa ra 3 hình thức cổ phần hóa, tuy nhiên chưa có tiêu thức rõ ràng: thế nào là đủ điều kiện để cổ phần hóa một bộ phận, cách thức tách và tổ chức cổ phần hóa theo hình thức này? việc giải quyết các chế độ ưu đãi cho người lao động ở trong cùng doanh nghiệp nhưng không làm việc ở bộ phận này như thế nào? sẽ giải quyết ra sao đối với phần còn lại, đặc biệt khi phần còn lại hoạt động kinh doanh không có hiệu quả?... - Về định giá: thiếu một hệ thống văn bản pháp quy quy định và hướng dẫn việc định giá doanh nghiệp và thiếu đội ngũ cán bộ có đủ năng lực, trình độ để làm công tác định giá Chưa chú ý đúng mức quyền lợi của người mua: chưa tuân theo quy luật thị trường (ở đây người bán là Nhà nước định trước, người mua định sau); giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa vẫn còn chứa đựng những yếu tố rủi ro cao, hoặc người mua không có nhu cầu (như tài sản không cần dùng, chờ thanh lý, các khoản công nợ dây dưa chưa được xử lý...) - Những phương pháp xác định giá trị lợi thế (quy định tại NĐ 28 và thông tư 50 TC/TCDN) còn nhiều hạn chế: + Khi xác định tỷ suất lợi nhuận của 3 năm liền kề với thời điểm cổ phần hoá là dựa trên vốn Nhà nước cấp hiện hành. Nhưng khi xác định lợi thế lại dựa trên số vốn Nhà nước đã đánh giá lại. Sự không đồng nhất này đã làm thiệt hại cho người mua nếu phần vốn Nhà nước đánh giá tăng lên và thiệt hại cho Nhà nước nếu phần vốn Nhà nước đánh giá lại giảm đi. + Lợi thế mới chỉ dựa vào kết quả kinh doanh thực tế trong quá khứ, nhưng tương lai của doanh nghiệp còn chịu ảnh hưởng của nhiều biến động khác, đặc biệt là cạnh tranh cao thì giá trị siêu ngạch do lợi thế mang lại sẽ giảm đi. Vì vậy có tính cả 100% giá trị lợi thế vào giá trị doanh nghiệp để bán thì người mua cổ phần sẽ bị thiệt thòi. - Quy trình xác định giá trị doanh nghiệp quá phiền hà, phải qua tới 3 giai đoạn: hội đồng thẩm định giá của doanh nghiệp, kiểm toán, hội đồng thẩm định của Nhà nước và sau đó cơ quan có thẩm quyền mới công bố giá. - Giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá là giá trị thực tế mà người mua, người bán đều chấp nhận được, nhưng khi xác định giá trị doanh nghiệp tổ chức kiểm toán chủ yếu dựa trên sổ sách kế toán. Do đó, kết quả kiểm toán không sử dụng được vào việc công bố giá trị doanh nghiệp để cổ phần hoá, làm chậm tiến trình cổ phần hoá và làm tăng chi phí của doanh nghiệp. Chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp và cho người lao động khi tiến hành cổ phần hoá chưa hấp dẫn: theo NĐ28 có 6 ưu đãi cho doanh nghiệp chuyển đổi, song không quy định rõ các giải pháp để thực hiện các ưu đãi đó nên thực tế thực hiện rất khó khăn, có khi không thực hiện được như chính sách ưu đãi về tín dụng hoặc ưu đãi về thuế theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước. Chưa có giải pháp tích cực để hỗ trợ và tạo điều kiện cho doanh nghiệp sau khi chuyển thành công ty cổ phần ổn định và phát triển sản xuất. Việc ưu đãi cho người lao động như cấp một số cổ phần theo thâm niên và chất lượng công tác bộc lộ những điểm chưa hợp lý: + Cổ phần cấp cho người lao động chỉ có ý nghĩa sử dụng để lĩnh tiền lãi cổ tức do công ty cổ phần trả hàng năm. Cổ phần cấp không thuộc quyền sở hữu của người lao động, không được chuyển nhượng trên thị trường, bị hạn chế khi thừa kế nên cũng ít hấp dẫn cho người lao động + Tổng giá trị cổ phiếu cấp cho người lao động giới hạn không quá 6 tháng lương cấp bậc, chức vụ theo hệ thống thang bảng lương Nhà nước ban hành và tổng số cổ phiếu cấp không quá 100% giá trị doanh nghiệp, trên thực tế giá trị cổ phiếu cấp cho người lao động lá rất thấp, chỉ khoảng 4% giá trị doanh nghiệp. + Việc bán chịu cổ phần cho người lao động trên thực tế không phải là ưu đãi cho người nghèo + Việc vừa cấp không cổ phiếu, vừa bán chịu cổ phần cho người lao động làm phức tạp thêm việc quản lý cổ phiếu Hệ thống chính sách cho cổ phần hoá còn thiếu và bất cập: các vấn đề liên quan đến xác định phẩm cấp tài sản, mẫu đề án, hệ thống chỉ tiêu kinh tế thuộc diện buộc phải công khai hoá, xử lý lao động dôi dư..., thiếu các văn bản hướng dẫn hoạt động sau cổ phần hoá. 2.1.3. Giai đoạn chủ động (7/1998 - nay) Văn bản: NĐ 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998 thay thế Nghị định 28/CP, NĐ 64/2002/NĐ-CP nhằm bổ sung thay thế Nghị định 44/1998/NĐ-CP và các thông tư hướng dẫn của các Bộ, ngành chức năng. Tính đến 31/5/2003, số doanh nghiệp được cổ phần hoá mới chỉ dừng ở con số 800, chiếm 15 % số doanh nghiệp và 2,5 % số vốn của khối doanh nghiệp nhà nước. Nâng mức tỷ lệ giữa công ty cổ phần so với doanh nghiệp nhà nước là 15%. Trong đó năm 1999 có 249 doanh nghiệp được cổ phần hoá chiếm 4,4% số doanh nghiệp nhà nước. Năm 2000 có 212 doanh nghiệp cổ phần hoá chiếm 3,7 % tổn số doanh nghiệp nhà nước hiện nay. Còn đến ngày 1/3/2004 cả nước đã có gần 1000 doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá với 229.778 lao động trong các công ty này trung bình có 116 lao động trên 1 doanh nghiệp. Trong đó tỷ lệ cổ phần hoá trong ngành thương nghiệp, khách sạn, nhà hàng, dịch vụ du lịch và công nghiệp là cao nhất với hơn 60% số công ty cổ phần hoạt động trong lĩnh vực này. Còn ngành nông lâm nghiệp có tỷ lệ này là nhỏ nhất chỉ có 2 % số doanh nghiệp. Ngành xây dựng, giao thông vận tải, bưu điện có tỷ lệ là 24 % số doanh nghiệp cổ phần hoá. Tất cả các ngành còn lại chỉ chiếm 13,7% trong số các công ty cổ phần. Riêng thành phố Hà Nội năm 1999 là 40 công ty với tổng vốn 131.497 triệu đồng, nhà nước nắm 27.135 triệu đồng chiếm 20,63% tỷ lệ vốn của doanh nghiệp. Các cổ đông trong doanh nghiệp chiếm 75.156 triệu đồng tương ứng với tỷ lệ 57% tổng vốn của doanh nghiệp, với 3439 cổ đông, còn lại số vốn do cổ đông ngoài doanh nghiệp nắm giữ là 29.206 triệu đồng chiếm 22,2% như vậy ở hầu hết các doanh nghiệp thì cổ đông trong doanh nghiệp đều nắm giữ đa số cổ phiếu của doanh nghiệp. Điều này đã tạo cho người lao động quyền làm chủ doanh nghiệp, khiến họ hăng say sản xuất hơn, tăng năng suất lao động. Nhưng cũng lại là điều khó khăn khi hầu hết người lao động không có kiến thức về quản lý kinh tế và hoạt động kinh doanh nhưng họ lại nắm phần lớn số cổ phiếu thì khi giám đốc doanh nghiệp đưa ra quyết định sẽ khó khăn hơn nếu không được đa số cổ đông chấp nhận. Từ tháng 6/1998 đến tháng 11/2003, thực hiện cổ phần hoá theo Nghị định 44/CP, và tiếp theo đó là NĐ 64/2002/NĐ-CP nhằm bổ sung thay thế Nghị định 44/1998/NĐ-CP , Hà Nội đã cổ phần hoá được 81 doanh nghiệp, đưa tổng số doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá ở Hà Nội lên 85 doanh nghiệp . 2.2. Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Hà Nội Khái quát tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Hà Nội giai đoạn 1996 - 2003. Trước khi tiến hành cổ phần hoá mở rộng thì trên địa bàn Hà Nội có hơn 600 doanh nghiệp nhà nước. Đa phần các doanh nghiệp này làm ăn kém hiệu quả, tình trạng thua lỗ kéo dài . Trong khi đó thì tình hình chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước sang hình thức tư nhân hoá và cổ phần hoá là diễn ra rất chậm, trong suốt thời kỳ thí điểm cổ phần hoá thì Hà Nội không cổ phần hoá được doanh nghiệp nào. Trong 2 năm 1996 –1998 thực hiện cổ phần hoá theo nghị định 28/CP (5/1996 đến 6/1998), Hà Nội mới chuyển được 4 doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Từ 6/1998 đến 11/2003, thực hiện cổ phần hoá theo Nghị định 44/CP, NĐ 64/2002/NĐ-CP Hà Nội đã cổ phần hoá được 81 doanh nghiệp, đưa tổng số doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá ở Hà Nội lên 85 doanh nghiệp. Từ năm 1998-2000 toàn thành phố có 70 doanh nghiệp được cổ phần hoá. Đây là một kết quả khá so với cả giai đoạn trước đó nhưng thực tế vẫn còn rất nhiều doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả cần chuyển đổi hình thức sở hữu. Tổng vốn của các doanh nghiệp cổ phần hoá đạt 250.838 triệu đồng (trung bình mỗi doanh nghiệp có số vốn đầu tư là gần 3.600 triệu đồng), trong đó vốn nhà nước là 55.879 triệu đồng ( chiếm 22,27% tổng vốn đầu tư), vốn do cổ đông trong doanh nghiệp nắm giữ là 136.811triệu đồng ( chiếm 54,5%), số vốn do cổ đông ngoài doanh nghiệp nắm giữ là 58.347 triệu đồng ( chiếm 23,2%). Số lao động trong các doanh nghiệp đã cổ phần hoá trong năm là 3119 người. Số cổ đông trong doanh nghiệp là 3097 người, còn cổ đông ngoài doanh nghiệp là 428 người. Như vậy ở hầu hết các doanh nghiệp thì cổ đông trong doanh nghiệp đều nắm giữ đa số cổ phiếu của doanh nghiệp. Thời kỳ 2000 - 2003 tình hình triển khai cổ phần hoá có phần chững lại. So với kế hoạch thành phố đặt ra là cổ phần hoá 60 doanh nghiệp nhà nước thì thành phố chỉ tiến hành cổ phần hoá được 18 doanh nghiệp (2 doanh nghiệp đang trong quy trình chuyển giao) đạt 30%, thấp hơn hai năm trước. Trong 18 doanh nghiệp cổ phần có số vốn là 46.634 triệu đồng (trung bình mỗi doanh nghiệp có số vốn là 2.591 triệu đồng), trong đó nhà nước góp số vốn là 6.800 triệu đồng (chiếm 14,6% tổng vốn đầu tư), cổ đông trong doanh nghiệp nắm giữ 31.672 triệu đồng (chiếm 68 % cổ phần), ngoài doanh nghiệp chỉ có 8.162 triệu đồng (chiếm gần 17,5 % cổ phần), số cổ đông trong doanh nghiệp có 1.646 người (96%), ngoài doanh nghiệp chỉ có 68 người (4%). Tính đến nay, toàn thành phố đã cổ phần hoá được 90 doanh nghiệp nhà nước; trong đó có 74 doanh nghiệp nhà nước độc lập và 16 doanh nghiệp bộ phận của nhà nước tiến hành cổ phần hoá. Tổng vốn cổ phần của các công ty cổ phần này là 297.672 triệu đồng. Trung bình mỗi doanh nghiệp có số vốn đầu tư là 3.800 triệu đồng trong đó nhà nước nắm giữ 22,6 % số cổ phần của doanh nghiệp còn lại cổ đông nắm giữ 77,4 % số cổ phần còn lại, trong đó cổ đông trong doanh nghiệp nắm 56,6 % số cổ phần của doanh nghiệp, còn cổ đông bên ngoài doanh nghiệp nắm 30,8% cổ phần. So với trước cổ phần: vốn tăng 18%; Doanh thu tăng 43,08%; Lợi nhuận tăng 25,05%; Nộp ngân sách tăng 56,21%; Lao động tăng 15,78%; Thu nhập trên đầu người tăng 0,52%; Cổ tức đạt 6-24%. 2.2.2. Đánh giá thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Hà Nội. Từ thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Hà Nội 1996 – 2003, có thể rút ra những nhận xét, đánh giá sau: - Thứ nhất, số lượng doanh nghiệp cổ phần hóa và vốn điều lệ tăng lên. - Thứ hai, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp sau cổ phần hoá đã ổn định và hiệu quả hơn. - Thứ ba, sau cổ phần hoá số lượng lao động thu hút tăng lên. - Thứ tư, tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Hà Nội vẫn còn một số hạn chế: * Việc chuyển giao bất động sản nhà xưởng và vật kiến trúc còn nhiều bất cập: nhiều cơ quan và cá nhân cùng quản lý sử dụng chung trụ sở làm việc với doanh nghiệp cổ phần hoá. Doanh nghiệp cổ phần hoá đã đầu tư xây dựng cơ bản trên đất đi thuê của doanh nghiệp nhà nước khác chưa cổ phần hoá hoặc tổ chức khác. * Giải quyết công nợ trước khi cổ phần hoá là cả một vấn đề nan giải chưa thực hiện được một cách triệt để: có đến 80% số doanh nghiệp trong diện cổ phần hoá đều có tình trạng nợ phải thu khó đòi mà con nợ vẫn tồn tại cần phải xử lý trước khi xác định giá trị doanh nghiệp để cổ phần hoá: con nợ vẫn tồn tại và còn địa chỉ pháp nhân đang chuẩn bị giải thể hoặc phá sản, hàng năm vẫn có xác nhận nợ và hứa trả, nhưng không trả hoặc trả rất ít; con nợ đang bị truy nã, bị tù không còn tài sản, hay đang trong quá trình điều tra để đưa ra xét xử; con nợ là những nông dân, ngư dân, mua vật tư để sản xuất do thiên tai, do làm ăn thua lỗ chậm trả kéo dài ... * Chưa xử lý tốt về tình hình tài sản, tình hình tài chính phức tạp. Chẳng hạn: công nợ tồn đọng nhưng không lập hồ sơ, nợ phải thu khó đòi chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn vốn. Doanh nghiệp có liên doanh với nước ngoài nhưng liên doanh thua lỗ chưa có cơ chế xử lý. Vẫn còn một số giám đốc doanh nghiệp trong diện cổ phần hoá chưa muốn làm, lần lựa nêu lý do để xin rút tên để có thời gian “củng cố lại” trước khi cổ phần hoá ... * Triển khai chủ trương cổ phần hoá còn chậm: Uỷ ban nhân dân thành phố đã giao kế hoạch cổ phần hoá cho các quận huyện, sở ban ngành, tổng công ty 90 theo chỉ tiêu số lượng doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá của chính phủ giao, nhưng các cơ quan chủ quản chậm triển khai nhất là doanh nghiệp nhà nước trực thuộc là thành viên của các tổng công ty 90, vì tổng công ty sợ bị mất vốn. chương 3 Một số giải pháp đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tại Hà Nội 3.1. quan điểm, Mục tiêu cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước của Hà Nội đến cuối năm 2005. 3.1.1. Quan điểm tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước phải góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp; tạo ra loại doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu trong đó có đông đảo người lao động; tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động cho doanh nghiệp để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của nhà nước và của doanh nghiệp. Phải huy động được nguồn vốn của toàn xã hội, bao gồm: cá nhân, các tổ chức kinh tế, các tổ chức xã hội trong và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp. Phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của các cổ đông, tăng cường sự giám sát của nhà đầu tư đối với doanh nghiệp, đảm bảo hài hoà lợi ích của nhà nước, doanh nghiệp nhà đầu tư và người lao động. Tạo lập những tiền đề cơ bản toàn diện để doanh nghiệp nhà nước phát huy quyền tự chủ trong kinh doanh, huy động nguồn vốn và nguồn nội lực phát triển sản xuất kinh doanh bảo toàn vốn. Cổ phần hoá giúp tổ chức sắp xếp lại một bước cơ bản của doanh nghiệp nhà nước hình thành cơ cấu hợp lý trong khu vực kinh tế nhà nước nhằm tích tụ tập trung sản xuất hình thành một số tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp lớn, có sức cạnh tranh và phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước của khu vực thủ đô. Tách chức năng quản lý nhà nước về kinh tế ra khỏi chức năng quản lý sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp nhà nước. Thúc đẩy cải cách hành chính đổi mới sắp xếp lại bộ máy chính quyền ở các cấp thuộc thành phố Hà Nội nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đẩy nhanh tiến độ, nâng cao hiệu quả cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. 3.1.2. Mục tiêu. Mục tiêu cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước của Hà Nội là đến năm 2005 sẽ chuyển đổi sắp xếp 45% số doanh nghiệp hiện nay (là một số doanh nghiệp hiện đang làm ăn có lãi nhưng nhà nước không cần sở hữu hoàn toàn nữa hoặc những doanh nghiệp hiện đang tạm thời lỗ), tiến hành giải thể 5% số doanh nghiệp nhà nước làm ăn thường xuyên thua lỗ và chỉ duy trì 50% số doanh nghiệp nhà nước hiện có, đây là những doanh nghiệp nhà nước làm ăn có lãi trong thời gian dài và những doanh nghiệp giữ vai trò định hướng, trọng yếu không thể tiến hành cổ phần hoá, những doanh nghiệp sản xuất những mặt hàng ít lãi nhưng thiết yếu. Trong giai đoạn 2003 - 2005 sẽ tiến hành cổ phần hoá 63 doanh nghiệp nhà nước có đủ điều kiện để tiến hành cổ phần hoá. Trong đó, Nhà nước nắm giữ hơn 50% số cổ phần đối với các doanh nghiệp kinh doanh sau: * Doanh nghiệp kinh doanh có vốn từ 10 tỷ đồng trở lên, nộp ngân sách nhà nước bình quân 3 năm trước liền kề là hơn 1 tỷ đồng như: khai thác lọc nước sạch thành phố (Công ty kinh doanh nước sạch số 2), công nghiệp và xây dựng (Công ty cơ điện Trần Phú, Công ty bê tông và xây dựng Thịnh Liệt, Công ty vật liệu Cầu Đuống, Công ty kinh doanh và phát triển nhà Thanh Trì, Công ty kinh doanh và phát triển nhà Đống Đa, Công ty tu tạo và phát triển nhà, Công ty xây dựng số 1, Công ty xây dựng công nghiệp, Công ty xây dựng giao thông số 3, Công ty đầu tư xây lắp thương mại) * Doanh nghiệp hoạt động khai thác: In các loại (Công ty in tổng hợp Hà Nội), Dịch vụ hợp tác lao động (Công ty lao động hợp tác quốc tế), * Các doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích: như sản xuất giống cây trồng vật nuôi (Công ty giống cây trồng Hà Nội, Công ty giống gia súc), quản lý khai thác công trình thuỷ nông đầu nguồn, công trình thuỷ nông quy mô lớn (Công ty khai thác công trình thuỷ nông Đông Anh, Công ty khai thác công trình thuỷ nông Từ Liêm, Công ty khai thác công trình thuỷ nông Sóc Sơn, Công ty khai thác công trình thuỷ nông Thanh Trì). Phương án sắp xếp doanh nghiệp nhà nước từ 2003 - 2005 sau khi sắp xếp thì Hà Nội chỉ còn khoảng 100 doanh nghiệp nhà nước. Trong đó tổng nguồn vốn thuộc sở hữu của nhà nước là 2.491.177 triệu đồng. Như vậy trung bình mỗi doanh nghiệp nhà nước sẽ có số vốn trung bình là khoảng 24.198 triệu đồng. Tỷ trọng doanh nghiệp nhà nước giữ lại là 45,5 % Tỷ trọng của vốn nhà nước của 100 doanh nghiệp nhà nước cần duy trì 100 % sở hữu nhà nước so với trước khi sắp xếp là 74,4 % Tỷ trọng số doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá là 24,3% Tỷ trọng vốn nhà nước của doanh nghiệp sẽ thực hiện cổ phần hoá là 10,5% Tỷ trọng số doanh nghiệp được giao bán là 1% Tỷ trọng vốn trong các doanh nghiệp được giao bán là 0,21 % Tỷ trọng doanh nghiệp sát nhập, hợp nhất là 14,4% Tỷ trọng vốn của doanh nghiệp nhà nước hợp nhất là 6,7% Tỷ trọng doanh nghiệp giải thể, phá sản là 3,6% Tỷ trọng vốn của doanh nghiệp nhà nước phá sản là 0,14% Lao động trong các doanh nghiệp là 68.139 người (trong đó lao động chờ sắp xếp là 316 người). Trong số hơn 100 doanh nghiệp giữ lại phát triển ưu tiên các ngành nghề sản xuất công nghiệp, xây dựng thương mại dịch vụ. áp dụng thí điểm 5 doanh nghiệp theo mô hình công ty mẹ công ty con và 10 doanh nghiệp chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên, trong năm 2003 đã giải thể doanh nghiệp hoạt động theo mô hình liên hiệp để chuyển sang hình thức hoạt động khác. 3.2. Một số giải pháp đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở hà nội. 3.2.1. Nâng cao nhận thức của cán bộ, công nhân viên về cổ phần hoá doa

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0424.DOC
Tài liệu liên quan