Đề tài Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam thực trạng và giải pháp

Các nghị quyết, quyết định của Chính phủ cần phải xác định là các văn bản pháp qui dưới luật mà các bộ, các ngành địa phương, các thể nhân và pháp nhân đều phải thực hiện một cách nghiêm túc và phải xem là biện pháp bắt buộc trong việc sắp xếp lại các doanh nghiệp chứ không thể xem là tùy hướng, thi hành cũng được mà không thi hành cũng chẳng sao như hiện nay. Nghị định 28/CP ngày 7/5/1999, nghị định25/CP ngày 26/3/1997 và gần đây là nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998 chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần,là những văn bản pháp lý, các ngành, địa phương phải có trách nhiệm thực hiện cụ thể đối với mỗi ngành.

Chính phủ cần có những chỉ thị hướng dẫn về số lượng DNNN phải được CPH trong từng bộ ngành, địa phương trong từng thời gian nhất định. Hiện nay các DNNN đang làm ăn có lãi hầu như vẫn do dự trong việc quyết định chuyển sang công ty cổ phần, do đó phải có chỉ thị cho doanh nghiệp nào phải thực hiện cổ phần hoá, sự tự nguyện đăng ký thực hiện CPH của từng doanh nghiệp chỉ xem là yếu tố cần thiết của những quyết định đúng đắn mà thôi.

 

doc14 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1007 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
át ra khỏi sự yếu kém và nghèo nàn, một nền kinh tế chiếm đa số là nông nghiệp lạc hậu, hệ thống kinh tế Nhà nước chưa năng động, không tận dụng hết các nguồn lực tiềm năng vốn có. Thời gian chuyển đổi cơ cấu kinh tế chưa lâu còn mang nặng tính tập trung bao cấp. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, sự tiếp thu chậm chạp và bảo thủ đã hạn chế rất đáng kể khả năng phát triển của các doanh nghiệp đặc biệt là các danh nghiệp nhà nước. Tuy vẫn được Nhà nước bảo hộ, nhưng trong thực tế các doanh nghiệp này hoạt động không có hiệu quả thậm chí nhiều khi Nhà nước phải bù lỗ Trước tình hình này chủ trương của Đảng và Nhà nước là phải đổi mới hệ thống quản lý kinh doanh, phương thức kinh doanh, tận dụng hết nguồn lực trí thức, tiếp cận và áp dụng triệt để kiến thức kinh tế của các nước phát triển vào Việt nam, đòi hỏi doanh nghiệp phải đi lên bằng chính khả năng của mình, gắn trách nhiệm sản xuất kinh doanh vào tất cả mọi thành viên trong doanh nghiệp, và giải pháp cho vấn đề này chính là sự ra đời của Công ty cổ phần. Triển khai thí điểm đã cho thấy cổ phần hoá doanh nghiệp là hướng đi đúng cho nền kinh tế Việt Nam trong thời điểm hiện nay, nó không những giúp cho các doanh nghiệp tự chủ về vốn mà còn giúp các doanh nghiệp có thể tiếp thu được những thành tựu về khoa học của thế giới. Hiện nay, CPH không còn là vấn đề quá mới mẻ, nhưng thành công của nó mới bắt đầu được chuẩn bị. Chính vì những lý do trên em đã chọn đề tài “Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam thực trạng và giải pháp” I- Những vấn đề về cổ phần hoá. 1. Tính chất tất yếu của cổ phần hoá. Để hiểu tại sao cổ phần hoá lại mang tính tất yếu trước hết ta đi xét xem thực chất của công ty cổ phần hoá phần là gì và vai trò của nó đối với nền kinh tế. Công ty cổ phần ra đời từ cuối thế kỷ XVI ở các nước phát triển đến nay đã có lịch sử phát triển mấy trăm năm. Công ty cổ phần là sự hình thành một kiểu tổ chức doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Nó ra đời không nằm trong ý muốn chủ quan của bất cứ lực lượng nào mà là một quá trình kinh tế khách quan có thể nói công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó các cổ đông góp vốn kinh doanh và chịu trách nhiệm trong phạm vi phần góp vốn của mình trên cơ sở tự nguyện để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi nhuận. Công ty cổ phần ra đời là một tất yếu bởi vì quá trình hoá tư bản tăng cường tích tụ và tập trung tư bản ngày càng cao. Nó diễn ra một cách mạnh mẽ cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp cơ khí và sự tự do cạnh tranh dưới chủ nghĩa tư bản. Từ đó công ty cổ phần trở thành mô hình tổ chức sản xuất phổ biến ở hầu hết các nước trên thế giới và có vai trò to lớn trong quá trình phát triển kinh tế, góp phần hoàn thiện cơ chế thị trường. Công ty cổ phần là sản phẩm của xã hội hoá sở hữu phản ánh quá trình tích tụ và tập trung tư bản, công ty cổ phần ra đời đã góp phần đẩy nhanh quá trình này về tốc độ và qui mô và làm xuất hiện những xí nghiệp mà với tư bản riêng lẻ không thể nào thiết lập được. Công ty cổ phần còn là kết quả của sự vận động tách biệt hai mặt của sở hữu thể hiện ở mối quan hệ sở hữu và quyền kinh doanh ,nó cho phép mở rộng qui mô sản xuất nhanh chóng mà không bị giới hạn bởi tích luỹ của từng tư bản riêng biệt tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình xã hội hoá sản xuất và để đáp ứng các nhu cầu phát triển của nó, hệ thống ngân hàng, thị trường chứng khoán và Nhà nước trở thành bộ máy kinh tế hoạt động và thực hiện các chức năng quản lý mà lâu nay vẫn nằm trong tay các nhà tư bản cá biệt. 2. Mục tiêu của cổ phần hoá. Cổ phần hoá nếu thực hiện thành công sẽ làm tăng nguồn tài chính, đồng thời còn trở thành phương tiện để thay đổi bộ mặt kinh tế vĩ mô và xã hội. Để đạt được điều đó trước hết phải đặt mục tiêu cho quá trình này. Xuất phát từ thực chất CPH ở nước ta (khác hẳn với CPH mà các nước trên thế giới đã tiến hành) là nhằm cơ cấu lại doanh nghiệp Nhà nước cho hợp lý và hiệu quả mà ta cần phải nghiên cứu kỹ đặc điểm chung của nền kinh tế quốc doanh và đặc điểm riêng của từng loại doanh nghiệp Nhà nước để định ra mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể để CPH. Và trong từng điều kiện cụ thể có thể điều chỉnh thứ tự ưu tiên của các mục tiêu cho phù hợp với yêu cầu và khả năng thực hiện. ở nước ta xuất phát từ đường lối kinh tế và đặc điểm kinh tế xã hội của nước ta trong giai đoạn hiện nay: Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vn hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN, Chính phủ đã ban hành Nghị định 44/98-NĐ-CP ngày 28/06/1998 thay thế cho Nghị định 28/CP về việc chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần với hai mục tiêu. Huy động vốn trong toàn xã hội của cá nhân, các tổ chức kinh tế xã hội trong nước và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước. Huy động vốn và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn là một trong những điều kiện quan trọng hàng đầu để đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, đó cũng là điều kiện tối quan trọng để nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. hiện nay các doanh nghiệp Nhà nước đang thiếu vốn nghiêm trọng để đầu tư phát triển. Nhưng lấy ở đâu? Nhà nước (ngân sách + ngân hàng) không thể và không nên tiếp tục cấp vốn cho một khu vực làm ăn kém hiệu quả. Dân chúng sẽ không bao giờ cho doanh nghiệp Nhà nước vay nếu doanh nghiệp Nhà nước không đạt được cải tổ và có phương án làm ăn tốt, có sức thuyết phục. Còn nước ngoài thì không bao giờ cho doanh nghiệp Nhà nước vay nếu giữ nguyên trạng. Họ chỉ có thể làm ăn với doanh nghiệp Nhà nước thông qua các hình thức mua, thuê, liên doanh, mua cổ phần. Vậy muốn có vốn để đầu tư cho phát triển doanh nghiệp Nhà nước chỉ có thể huy động được thông qua hình thức bán cổ phần. Việc bán cổ phần cho bên nước ngoài là rất cần thiết và có thể làm được bởi vì: Chúng ta đang thiếu vốn mà họ lại đang thừa vốn, đang cần thị trường để đầu tư. Ta đang thiếu kỹ thuật và thiết bị hiện đại, còn họ thì có “thừa”, tuy nhiên ta phải lựa chọn cho phù hợp với điều kiện cụ thể của từng loại doanh nghiệp tránh việc nhập đồ “bãi rác”. Ta đang thiếu kiến thức và kinh nghiệm quản lý đối với nền kinh tế thị trường, òn họ thì không thiếu và sẵn sàng truyền lại cho ta. Nhưng cũng cần phải nhấn mạnh rằng kiến thức và kinh nghiệm của người khác bao giờ cũng cần, cũng quý nhưng không thể bê “nguyên xi” vào áp dụng ở Việt Nam, càng không thể thay thế sự sáng tạo của chúng ta. Song việc bán cổ phần cho người nước ngoài không hoàn toàn là biện pháp tốt nhất bởi sự ràng buộc luật ở Việt Nam, cả hai luật luật công ty và luật đầu tư của nước ngoài chưa đủ để điều chỉnh các hoạt động của người nước ngoài trong công ty cổ phần, nhất là về mặt tài chính. Kinh nghiệm thực tế những năm qua cho chúng ta thấy tiềm năng vốn trong dân là khá phong phú. Do đó bên cạnh việc bán cổ phần cho nước ngoài chúng ta còn đầy mạnh việc bán cổ phần trong nước. Việc thu hút vốn đầu tư trong dân là rất quan trọng vừa bổ sung nguồn vốn hoạt động cho các đơn vị kinh tế, đưa vốn nhà rỗi có tính bất động của nhân dân vào vòng quay của cả nền kinh tế để “tiền đẻ ra tiền” tăng lượng tiền lưu thông, khắc phục tình trạng khan hiếm tiền mặt giả tạo, đồng thời tạo sức mạnh về vốn cho các đơn vị kinh tế, các tập đoàn kinh tế trong việc hợp tác và cạnh tranh với các tập đoàn kinh tế thế giới. Tạo điều kiện cho những người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những người đã góp vốn được làm chủ thực sự; thay đổi phương thức quản lý tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản Nhà nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước. Chúng ta đã trải qua một thời kỳ tìm kiếm lâu dài và cứ loay hoay mãi mà chưa đưa lại cho người lao động một sự làm chủ thực sự: Trong khi đó người lao động đã giác ngộ ra rằng nếu không làm chủ được về kinh tế thì mọi sự làm chủ khác đều vô nghĩa, chỉ là hình thức. Và chỉ khi có vốn để mua cổ phiếu, tham gia chọn các thành viên trong hội đồng quan trị (là cơ quan thay mặt mình để quản lý doanh nghiệp) thì lúc đó người lao động mới có quyền thực sự không bị một sự o ép nào. Nhưng khi đó lại nảy sinh vấn đề khác, đó là quyền làm chủ của mỗi người không giống nhau, người giàu (mua nhiều cổ phiếu) có quyền hơn người nghèo (mua ít cổ phiếu). Nếu như theo quan niệm cũ thì đây là điều không thể chấp nhận được, là sự không công bằng, là phi XHCN ... Nhưng thực ra chưa có một chế độ nào, thậm chí cả CNXH, có công bằng tuyệt đối. Nhà nước ta chỉ có thể và cần phải làm cho một bộ phận dân chúng giàu lên trước, đồng thời có biện pháp để hạn chế người nghèo, thu hẹp khoảng cách giữa ngơừi giàu và người nghèo. Chỉ có cách đó dân ta mới giàu có lên được, nước ta mới có phồn vinh được. Ngoài hai mục tiêu trên, CPH còn có thể nhằm vào mục tiêu thứba là tạo mối dây liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp có quyền lợi chung thông qua sự tham gia đồng sở hữu cổ phần trong một doanh nghiệp. II.Thực trạng và giải pháp của quá trình cổ phần hoá 1. Quá trình triển khai thực hiện chủ trương CPH DNNN từ năm 1992 đến nay. Hiện thực cho ta thấy được tính khả thi và hiệu quả của CPH, điều đó cho phép khẳng định được đường lối chủ trương đúng đắn của Đảng. Số lượng các DNNN trong 2 năm trở lại đây không ngừng tăng lên, đến ngày 1/9/1998 cả nước đã có 38 doanh nghiệp chuyển thành công ty cổ phần trong đó có 12 công ty đã đi vào hoạt động hơn 1 năm, có thể thấy vốn điều lệ của các doanh nghiệp này tăng bình quân 19,06% doanh thu tăng bình quân 46%/năm. Lợi nhuận tăng bình quân 44%/năm, các khoản nộp ngân sách tăng bình quân 82%/năm. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn sở hữu năm 1997 là 44%, số lao động làm việc tại công ty cổ phần tăng 30%/năm, thu nhập của người lao động tăng bình quân 14,3%/năm. Như vậy ta thấy rằng CPH đã đem lại hiệu quả bước đầu khá khả quan nhờ hiệu quả được nâng cao nên tăng thêm được việc làm, tăng thu nhập cho cổ đông, vừa được hưởng cổ tức ở mức cao, vừa tăng giá trị góp vốn tại công ty. Nhà nước ngoài việc tăng trưởng vốn góp, được chia cổ tức ,các khoản nộp ngân sách Nhà nước cũng tăng nhanh. Chủ trương cổ phần hoá các DNNN đã được chứng minh là một chủ trương đúng đắn, được nhân dân ủng hộ, dạn đường cho Chính phủ ban hành các quyết định về CPH nhằm đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống với mục tiêu thay đổi về chất của các DNNN tạo nên những động lực mới cho nền kinh tế. Từ điều 22 của quyết định 217 ngày 14/11/1987, quyết định 145/HĐBT ngày 10/5/1990 đến QĐ 202/CT ngày 8/6/1992, NĐ 28/CP ngày 7/5/1996 đều đề ra các chính sách, thay đổi, bổ sung về tiến trình CPH. Nghị quyết Đại hội 8 tiếp tục chỉ rõ “Triển khai tích cực và vững chắc việc CPH doanh nghiệp Nhà nước để huy động vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả làm cho tài sản Nhà nước ngày càng tăng lên chứ không phải tư nhân hoá”. Để thực hiện chủ trương này ngày 29/6/1998, Nghị định 44/1998/NĐ-CP của Chính phủ ra đời, qui định về chuyển DNNN thành công ty cổ phần thay thế cho nghị định 28/CP. Nghị định này xác định rõ và giảm thiểu danh mục ngành nghề Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn, Nhà nước nắm giữ cổ phần đặc biệt cổ phần chi phối, không hạn chế qui mô doanh nghiệp, mở rộng diện bán cổ phần cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài định cư ở lâu Việt Nam, cải tiến về thủ tục định giá và qui trình CPH, về thẩm quyền, bộ trưởng các bộ quản lý ngành,chủ tịch uỷ ban nhân dân các tỉnh thành phố, chủ tịch hội đồng quản trị các tổng công ty 91 là người có thẩm quyền và chịu trách nhiệm chính, lựa chọn các tổ chức CPH ở các đơn vị quốc doanh. Do đó chỉ trong 6 tháng đến 31/12/1998 đã CPH được 86 doanh nghiệp. Theo báo cáo của ban đổi mới quản lý doanh nghiệp Trung ương đến ngày 19/3/1999 trong cả nước đã có 150 DNNN đã CPH xong. Tính từ ngày 01/01/1999 đến 19/03/1999, tức là chưa đầy 1 quí, trong cả nước có 30 DNNN được cổ phần hoá, tốc độ nhanh nhất từ trước tới nay. Mặc dù CPH đã đem lại hiệu quả kinh tế tương đối cao song cho đến nay tốc độ CPH vẫn chậm so với kế hoạch dự kiến của Bộ tài chính. Năm 1998 là 150 DNNN thành công ty cổ phần và năm 1999 là 400 DNNN chuyển thành công ty cổ phần. Nguyên nhân làm cho CPH các DNNN chậm là do: Cơ chế chính sách CPH chậm được ban hành đồng bộ thiếu cụ thể, qui trình xác định giá trị của doanh nghiệp quá phức tạ, còn nhiều mặt chưa phù hợp. Trong thời gian dài chậm qui định phạm vi doanh nghiệp Nhà nước được phép cổ phần hoá chưa đề ra mục tiêu CPH hàng năm để phấn đấu thực hiện. Trước yêu cầu mới, hầu hết các doanh nghiệp đều bở ngỡ, lúng túng, định giá tài sản thế nào? Xác định vốn đó của Nhà nước hay tập thể xí nghiệp? Việc phân chia và bán cổ phiếu như thế nào? Tổ chức hoạt động của công ty cổ phần như thế nào.... Trong khi đó phần lớn cán bộ trong ban chỉ đạo công tác này đều kiêm nhiệm nên ít có điều kiện để thường xuyên đôn đốc hướng dẫn, tháo gỡ kịp thời những vướng mắc cho doanh nghiệp. Một số Bộ và địa phương, Tổng công ty Nhà nước chưa nhận thức đẩy đủ ý nghĩa chủ trương CPH một bộ phận DNNN là nhằm huy động vốn, tạo thêm việc làm, phát triển sản xuất nâng cao sức cạnh tranh, đổi mới cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước đồng thời tạo điều kiện để cho người lao động trong DN có cổ phần và những người góp vốn được làm chủ thực sự, thay đổi phương thức quản lý, tạo động lực thúc đẩy kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản của Nhà nước, nâng cao thu nhập của người lao động và góp phần tăng trưởng toàn nền kinh tế quốc dân. Do đó thiếu chủ động và chưa kiên quyết tổ chức triển khai thực tế đã cho thấy cùng trong những điều kiện tương tự, nơi nào được cấp ủy chính quyền quan tâm chỉ đạo thì nơi đó triển khai tốt, ngược lại những Bộ, địa phương, Tổng công ty tuy có điều kiện khá thuận lợi nhưng nến được chủ chương cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp có biện pháp tích cực vận động thuyết phục thì họ sẽ có chuyển biến. có nơi khi đề xuất chủ chương ban đầu chỉ có 25% công nhân viên đăng ký mua cổ phần nhưng nhờ Giám đốc doanh nghiệp nhiều lần giải thích nên đã bán được cho 100% người lao động trong doanh nghiệp. Công tác tuyên truyền giáo dục từ trong Đảng, trong bộ máy Nhà nước từ Trung ương đến địa phương chưa được đẩy manh. Việc thực hiện các qui định công khai tài chính của doanh nghiệp Nhà nước chưa thành nên nếp thường xuyên. Các thông tin về kết quả của doanh nghiệp đã cổ phần hoá chưa được phổ biến sâu rộng trong nhâ dân và người lao động trong các DNNN. Mặt khác các tư tưởng ỷ lại, bao cấp chưa được phên phán triệt để nên còn có hiện tượng chần chừ, do dự hoặc né tránh không muốn triển khai CPH. Mặt khác một số cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp chưa thấy được sự cần thiết của việc CPH, đa só lo ngại mất quyền lợi, địa vị. Người lao động thì lo lắng về đời sống sợ mất việc, sợ làm giảm thu nhập do vậy không hăng hái CPH. Môi trường kinh tế chưa thực sự bình đẳng chưa tạo được mặt bằng thống nhất về cơ chế chính sách cho các thành phần kinh tế cùng cạnh tranh phát triển. Trong những năm gần đây Chính phủ đã có nhiều chính sách và biện pháp cải cách doanh nghiệp Nhà nước theo hướng nâng cao quyền chủ động kinh doanh tự chủ và tự chịu trách nhiệm về tài chính. Tuy nhiên vẫn còn một số ưu đãi; mức vay và mức lãi suất cho vay, khoản nợ và xoá nợ tại các ngân hàng thương mại quốc doanh, chưa phải nộp tiền thuê đất, được miễn thế chấp khi vay ngân hàng... còn có một số cán bộ coi doanh nghiệp CPH như loại hình doanh nghiệp phi XHCN làm cho một ssố doanh nghiệp Nhà nước e ngại khi chuyển thành công ty cổ phần sẽ bị thiệt thòi, giảm khả năng cạnh tranh so với doanh nghiệp Nhà nước. Thị trường vốn chưa phát triển, chưa có thị trường chứng khoán nên chưa có phương thức thích hợp để giao dịch cổ phiếu và từ đó chưa tạo thuận lợi cho việc thúc đẩy CPH. 2.Giải pháp để đẩy nhanh tiến trình CPH các DNNN. Trải qua hơn 10 năm thực hiện đổi mới kinh tế của Nhà nước, hoạt đọng DPH các DNNN đã bước đầu cho thấy dấu hiệu khả quan đáng mừng. Tuy nhiên hiện nay việc thực hiện CPH vẫn còn diễn ra rất chậm chạp và gặp nhiều khó khăn. Chính vì vậy chúng ta phải có những chính sách, những biện pháp chính xác thiết thực để có thể thực hiện được thành công chủ trương CPH các DNNN, một chủ trương hết sức đúng đắn của Đảng và Nhà nước các biện pháp đó là: Các cấp uỷ Đảng và chính quyền phải quán triệt và tuyên truyền giải thích trong nhân dân chủ trương, chính sách của Đảng về CPH các DNNN. Đây là một hướng cải cách doanh nghiệp có hiệu quả, chứ không đơn thuần là việc Nhà nước bán bớt cổ phần thu tiền về để đầu tư sanh lĩnh vực khác. CPH phải xuất phát từ yêu cầu phát triển của DNNN nhằm huy động thêm vốn của cả bên trong lẫn bên ngoài để đầu tư, mở rộng ngành nghề, hiện đại hoá công nghệ, tạo thêm việc làm, phân công lại lao động, phát triển sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh tăng tích luỹ cho doanh nghiệp, đóng góp cho ngân sách và thu nhập của người lao động, làm cho tiềm lực của Nhà nước tăng lên đảm bảo vai trò làm chủ và tính năng động sáng tạo của người lao động trong quản lý doanh nghiệp. Đồng thời tuyên truyền phổ biến cho tất cả mọi người hiểu rõ về CPH để từ đó giám đốc của DNNN cần CPH không do dự khi CPH sẽ xảy ra rủi ro lớn, dẫn đến mất quyền lợi, địa vị.... còn người dân thì tự tin hơn khi mua cổ phần của DNNN. Tạo ra môi trường pháp lý cần thiết để tiến hành công việc này. ở Việt Nam để tiến hành CPH các DNNN và đổi mới cơ cấu kinh tế nói chung không thể không có vấn đề về môi trường pháp lý và ổn định kinh tế vĩ mô. Nhà nước cũng đã ban hành nhiều bộ luật nhằm xác lập và hoàn thiện môi trường pháp lý cho doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường theo định hướng của Nhà nước. Tuy nhiên điều kiện về kinh tế chính trị xã hội vẫn có sự thay đổi, mục đích mỗi giai đoạn có khác nhau do đó hiện nay cần có sự bổ sung sửa đổi và ban hành các Bộ luật quan trọng như: Luật đầu tư nước ngoài, luật phá sản, luật thương mại... để từng bước tạo điều kiện cho quá trình CPH các DNNN ở Việt Nam thực hiện có kết quả. Các nghị quyết, quyết định của Chính phủ cần phải xác định là các văn bản pháp qui dưới luật mà các bộ, các ngành địa phương, các thể nhân và pháp nhân đều phải thực hiện một cách nghiêm túc và phải xem là biện pháp bắt buộc trong việc sắp xếp lại các doanh nghiệp chứ không thể xem là tùy hướng, thi hành cũng được mà không thi hành cũng chẳng sao như hiện nay. Nghị định 28/CP ngày 7/5/1999, nghị định25/CP ngày 26/3/1997 và gần đây là nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998 chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần,là những văn bản pháp lý, các ngành, địa phương phải có trách nhiệm thực hiện cụ thể đối với mỗi ngành. Chính phủ cần có những chỉ thị hướng dẫn về số lượng DNNN phải được CPH trong từng bộ ngành, địa phương trong từng thời gian nhất định. Hiện nay các DNNN đang làm ăn có lãi hầu như vẫn do dự trong việc quyết định chuyển sang công ty cổ phần, do đó phải có chỉ thị cho doanh nghiệp nào phải thực hiện cổ phần hoá, sự tự nguyện đăng ký thực hiện CPH của từng doanh nghiệp chỉ xem là yếu tố cần thiết của những quyết định đúng đắn mà thôi. Cần phải nghiên cứu, bổ sung chế độ ưu đãi đối với người lao động trong doanh nghiệp theo hướng chỉ duy trì việc cấp cổ phần hoá cho người lao động theo hướng cấp hẳn là ưu đãi duy nhất và tiến tới mở rộng đối tượng ưu đãi có thể là các công nhân viên về hưu nhưng đã công hiến cả cuộc đời cho doanh nghiệp hoặc có thể bán chịu có thời hạn cụ thể cho cán bộ nhân viên không có điều kiện mua cổ phiếu. Mức tỷ lệ này cần được tính kỹ trong từng doanh nghiệp để đảm bảo khả năng huy động vốn từ bên ngoài và quyền lợi của cán bộ nhân viên cũ khi trở thành cổ đông của công ty cổ phần. Ngoài ra cần mạnh dạn triển khai việc bán cổ phần cho người nước ngoài và đưa ra các tiêu chuẩn đối tượng người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài định cư lâu dài ở Việt Nam được mua cổ phần gắn với các điều kiện về giải quyết việc làm và đổi mới công nghệ. Nhanh chóng cho ra đời trung tâm giao dịch cổ phiếu ở 2 thành phố lớn. Bên cạnh đó khuyến khích việc thành lập các tổ chức tài chính trung gian làm nhiệm vụ tư vấn, kinh doanh cổ phiếu, giảm bớt rủi ro cho nhà đầu tư, cần tiến hành sớm lập thị trường chứng khoán để tác động tích cực cho việc góp vốn đầu tư của tư nhân vào các doanh nghiệp CPH. Vì qua thị trường chứng khoán người dân có điều kiện được thông tin đầy đủ hơn, kể cả việc phân tích sàng lọc thông tin, để xây dựng công ty cổ phần làm ăn lành mạnh có hiệu quả. Thị trường chứng khoán vừa giúp sàng lọc công ty làm ăn không lành mạnh, kém hiệu quả để đảm bảo yên tâm cho người mua cổ phiếu góp vốn vừa tạo được luân chuyển lưu động nhanh vòng quay vốn của các cổ đông vì thông qua thị trường chứng khoán các cổ đông có quyền nhượng bán cổ phiếu để thu hồi vốn cổ phần cho các yên cầu bức bách hơn hoặc cho yêu cầu đầu tư nơi khác có lợi nhuận tối ưu hơn. Đồng thời Chính phủ cần ban hành những qui định bảo vệ quyền lợi cho người sở hữu cổ phiếu như các chế định bảo vệ quyền sở hữu cổ phiếu, chế định bắt buộc, chế định công khai hoá thông tin, chế định chống đầu cơ lũng đoạn. Các ngành, địa phương cần tiến hành phân loại sắp xếp DNNN để từ đó xác định ngành nào, doanh nghiệp nào cần duy trì một chủ đầu tư là Nhà nước, cần tiếp tục giữ 100% vốn Nhà nước, những ngành, những doanh nghiệp nào có thể chuyển thành công ty cổ phần mà không chờ đợi sự “tự nguyện” cổ phần hoá từ phía doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp nào Nhà nước nắm cổ phần chi phối, doanh nghiệp nào Nhà nước có thể phát hành cổ phiếu rộng ra ngoài dân chúng, kể cả người nước ngoài. Trước mắt loại doanh nghiệp Nhà nước cần giữ 100% vốn của Nhà nước, không tiến hành cổ phần hoá là những doanh nghiệp có tính chiến lược đối với từng ngành, từng địa phương cũng như cả nước, hoạt động trong lĩnh vực hoặc địa bàn quan trọng, cung ứng dịch vụ thiết yếu theo chính sách của Nhà nước, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh sản phẩm cung ứng dịch vụ có liên quan đến những cân đối vĩ mô nền kinh tế quốc dân, tạo ra nguồn tích luỹ lớn cho ngân sách Nhà nước, có qui mô lớn thì Nhà nước nên nắm giữ cổ phần chi phối hoặc cổ phần đặc biệt .. Các doanh nghiệp có vốn Nhà nước với hợp đồng lăm ăn thua lỗ triền miên thì cho thuê, sát nhập, bàn giao cho công nhân sử dụng hoặc phá sản. Các doanh nghiệp còn lại không phụ thuộc vào qui mô ngành nghề đều được CPH với bước đi thích hợp. Bên cạnh đó nếu các bộ, ngành, tỉnh, thành phố chưa thành lập ban chỉ đạo CPH khẩn trương thành lập ngay như các văn bản hướng dẫn của Trung ương. Cần có sự hướng dẫn sử dụng thích hợp số tiền thu được từ việc bán CPH của các doanh nghiệp Nhà nước CPH cho việc mở rộng tái đầu tư sản xuất như: Đầu tư lại trực tiếp cho chính bộ, ngành, đại phương có doanh nghiệp CPH để góp phần thay đổi cơ cấu doanh nghiệp trong từng ngành, từng địa phương hoặc cho phép doanh nghiệp được vay ưu đãi đổi mới công nghệ sản xuất kinh doanh, thậm chí có thể sử dụng vốn góp liên doanh với các thành phần kinh tế khác hay dùng mua cổ phần của công ty đang làm ăn phát triển. Trên đây là một số giải pháp mà theo tôi nó rất quan trọng và cần thiết, thực hiện những giải pháp này không những đẩy mạnh được công tác CPH các DNNN mà còn tạo được cho doanh nghiệp làm ăn có lãi và có chỗ đứng vững vàng trên thị trường, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, từ đó thúc đầy kinh tế phát triển, giải quyết được vấn đề về chính trị xã hội. Và cùng với các giải pháp trên thì việc CPH các DNNN phải đặt trong toàn bộ quá trình đổi mới cơ chế kinh tế, quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta, và phải được thực hiện một cách tích cực chứ không thể làm chủ quan nóng vội và phải có thời gian đủ cần thiết để thực hiện thành công. Kết luận Cho đến thời điểm này chúng ta có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng cổ phần hoá là một hướng đi đúng đắn của Đẳng và nhà nước nhằm đưa nền kinh tế Việt Nam có thể sánh ngang hàng với các nước trong khu vực và thế giới. Xét một cách toàn diện các DNNN từ sau CPH đều làm ăn có hiệu quả. Doanh thu, lợi nhuận nộp ngân sách, tích luỹ vốn đều tăng. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện đã nảy sinh nhiều vấn đề ảnh hưởng đến tốc độ cổ phần, những hạn chế và tồn tại vẫn chưa được khắc phục, đặc biệt là vấn đề về việc làm và thu nhập cho người lao động sau khi CPH. Chính vì vậy trong thời gian tới Nhà nước cần ban hành nhiều văn bản pháp quy về việc CPH, giải quyết tốt vấn đề lao động, việc làm cho người lao động. Được làm việc trong môi trường và cơ chế mới, người lao động đã thực sự là chủ nhân của doanh nghiệp. Cơ chế bình quân bao cấp bị xoá bỏ, ý thức tự giác, tổ chức kỷ luật, tính chủ động sáng tạovà tiết kiệm được nâng cao, góp phần đem lại hiệu quả sản xuất, lợi ích thiết thức cho bản thân người lao động, cho công ty, Nhà nước và xã hội. Rõ ràng, CPH đã tạo ra sức bật cho doanh nghiệp phát triển, giúp doanh nghiệp đứng vững trên thị trường nội địa, vươn lên và đủ sức cạnh tranh với các sản phẩm nhập ngoại. Tài liệu tham khảo - “Cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam”: PGS.PTS. Hoàng Công Thi Phùng Thị Đoan. - Công ty cổ p

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0822.doc
Tài liệu liên quan