MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
I. CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ KINH NGHIỆM CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC. 2
1. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là sự lựa chọn tất yếu. 2
2. Kinh nghiệm cổ phần hoá DNNN ở một số nước, bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam. 9
2.1. Kinh nghiệm chung của các nước trên thế giới về cổ phần hoá. 9
2.2. Kinh nghiệm cổ phần hoá ở những nước tư bản phát triển. 9
2.3. Kinh nghiệm cổ phần hoá ở Trung Quốc. 9
2.4. Bài học kinh nghiệm từ việc cổ phần hoá ở các nước trên thế giới đối với Việt Nam. 11
II. DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC VÀ THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HOÁ DNNN. 13
1. Thực trạng DNNN ở Việt Nam trong bước chuyển sang kinh tế thị trường. 13
2. Tiến trình cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam. 15
3. Các yếu tố tác động tới quá trình cổ phần hoá DNNN ở nước ta hiện nay. 17
III. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐẺ THÚC ĐẨY NHANH QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HOÁ DNNN TRONG THỜI GIAN TỚI. 18
1. Những quan điểm cơ bản cần quán triệt trong cổ phần hoá. 18
IV. KẾT LUẬN. 22
26 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1746 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cổ phần hoá - Một trọng những chủ trương quan trọng của quá trình cải tổ các doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đồng (1994) và 2,5 triệu đồng/tháng (1996).
Tình hình sản xuất kinh doanh, vấn đề lao động việc làm và thu nhập của người lao động ở các công ty cổ phần còn lại những đều tăng cao hơn so với khi các doanh nghiệp này chưa chuyển thành công ty cổ phần.
Qua những con số nêu trên cho thấy các DNNN thực hiện cổ phần hoá không những bảo đảm được các mục tiêu kinh tế là huy động vốn, phát triển sản xuất kinh doanh ... mà còn bảo đảm được các mục tiêu xã hội như phát huy vai trò làm chủ của công nhân lao động, tạo việc làm mới, tăng thu nhập làm cho người lao động an tâm tham gia vào quá trình cổ phần hoá, thúc đẩy quá trình này tiến lên nhanh, vững chắc đạt được những mục tiêu của chính phủ đã đề ra.
1.3. Cổ phần hoá động lực mới trong quản lý doanh nghiệp.
Cổ phần hoá hình thức sở hữu tại doanh nghiệp đã chuyển từ sở hữu nhà nước sang sở hữu hỗn hợp từ đây đã dẫn tới những thay đổi quan trọng về hình thức tổ chức, quản lý cũng như phương hướng hoạt động của công ty.
Ở công ty cổ phần quyền lợi của những người chủ mới gắn chặt với thành bại của hoạt động sản xuất kinh doanh vì thế họ rất đoàn kết, gắn bó và thống nhất trong việc tìm kiếm và đưa ra phương hướng hoạt động phù hợp nhất của doanh nghiệp nhằm củng cố, tăng cường sức cạnh tranh của sản phẩm do họ sản xuất ra, quan tâm đến công việc của côn ty và lao động tích cực với tinh thần trách nhiệm cao, khắc phục việc buông lỏng quản lý tài sản của doanh nghiệp, xoá bỏ tình trạng "vô chủ" của doanh nghiệp. Mặc dù chủ trương trao quyền tự quản cho các DNNN là giải pháp đã đạt kết quả nhất định, nhưng mới chỉ đẩy lùi được chế độ bao cấp của nhà nước đối với DNNN, còn về phân thức thì tài sản của DNNN "vẫn là tài sản chung" cho nên tình trạng vô trách nhiệm, lãng phí của công vẫn chưa được khắc phục. Khi doanh nghiệp nhà nước trở thành công ty cổ phần thì điều này, mặc nhiên sẽ không còn tồn tại.
1.4. Cổ phần hoá chính là quá trình "Chuyển DNNN thành công ty cổ phần". Vậy một câu hỏi đặt ra là:"Công ty cổ phần có phải là mô hình doanh nghiệp thích hợp với những đòi hỏi khách quan của nền kinh tế thị trường hay không?". Trả lời câu hỏi này chính là xác định cơ sở khoa học cho định hướng chuyển đổi các DNNN thành công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay.
1.4.1. Lịch sử hình thành công ty cổ phần, đặc điểm vận động và phát triển của sở hữu tư nhân trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường:
Sở hữu xét về bản chất là quan hệ sở hữu của con người đối với tự nhiên thông qua lao động sản xuất. Không có lao động, hoạt động có bản chất của con người thì không có sự chiếm hữu nào cả và do đó cũng không thể có sở hữu. Trong nền kinh tế thị trường (KTTT), lao động của con người mang tính chất hai mặt: Lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Do đó, sở hữu tư nhân được thực hiện trong quá trình lao động. Sản xuất cũng mang tính hai mặt: sở hữu mang tính chất xã hội - phản ánh sự tìm kiếm và tăng thêm giá trị như là động lực mục đích của sở hữu, mặt khác sở hữu lại mang tính chất tư nhân - phản ánh sự chiếm hữu một giá trị sử dụng nhất định dưới dạng hàng hoá hay dịch vụ nhất định. Điều này cho thấy, chỉ từ khi của cải mang hình thái là một giá trị thì do tính chất hai mặt của nó, sở hữu đã trở thành một quan hệ giá trị vận động. Các hình thức chiếm hữu tư nhân cụ thể chỉ là phương tiện để bảo tồn và tăng thêm giá trị như là mục đích của sở hữu. Sự vận động mang tính chất hai mặt này của sở hữu cho phép có sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền kinh doanh, trong đó quyền sở hữu chỉ là việc nắm quyền chi phối giá trị nhằm mục đích tìm kiếm một giá trị lớn hơn, còn quyền kinh doanh là thực hiện một hoạt động cụ thể nhất định để tạo ra giá trị - nó là phương tiện để tăng giá trị. Chính nhờ sự tách biệt này đã cho phép một chủ sở hữu có thể tham gia vào nhiều hoạt động kinh doanh và ngược lại, một hoạt động kinh doanh có nhiều chủ sở hữu tham gia.Nhờ đó nó đã góp phần tạo ra những tầng lớp thực lợi trong xã hội. Không trực tiếp kinh doanh nhưng vẫn thu lợi bằng quyền sở hữu của mình.
Có thể nói, nhờ có sự phát triển sản xuất và trao đổi hàng hoá, tính chất 2 mặt của sở hữu tư nhân mới được bộc lộ và ngày càng phát triển cùng với quá trình xã hội hoá nền sản xuất xã hội. Trong lịch sử, quá trình này được thực hiện bởi hai nhân tố:
+ Thông qua trao đổi: Quá trình vận động xã hội hoá sở hữu chuyển hoá theo xu hướng :tư liệu sản xuất ngày càng tách khỏi bản thân người lao động như là những người tư hữu nhỏ, và các tư liệu sản xuất ngày càng tập trung lại trong quá trình xã hội hoá với sự thống trị của tư bản (lúc ban đầu là tư bản thương nghiệp về sau là tư bản nông nghiệp, và ngày nay là tư bản tài chính).
+ Thông qua sự phát triển của chế độ tín dụng: (bao gồm tín dụng thương nghiệp và tín dụng ngân hàng). Quá trình vận động xã hội hoá sở hữu được thực hiện theo xu hướng: 1 mặt nó làm cho hình thức chiếm hữu tư nhân phụ thuộc lẫn nhau bởi các quan hệ kinh tế móc xích chằng chịt với nhau và dần dần hoà nhập vào nhau trong quá trình tái sản xuất xã hội, mặt khác nó làm cho các hình thái chiếm hữu được tập trung lại trên phạm vi xã hội. Nhờ quá trình này việc mở rộng quy mô kinh doanh không còn phụ thuộc vào sự tích tụ của từng chủ sở hữu, riêng lẻ, mà thông qua các hình thức tín dụng cơ chế tập trung tư bản xã hội, và mở rộng quy mô kinh doanh lên gấp nhiều lần.
Như vậy, sự phát triển của hệ thống trao đổi và tín dụng đã giúp cho quá trình xã hội hoá sở hữu tư nhân đạt đến trình độ cho phép hình thành hệ thống ngân hàng, thị trường tài chính và công ty cổ phần. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường các bộ phận trên ngày càng gắn kết với nhau tạo thành bộ máy xã hội khổng lồ thúc đẩy qúa trình xã hội hoá nền sản xuất. Cũng về sau sự phát triển đó càng đòi hỏi sự tham gia của nhà nước như một chức năng kinh tế xã hội để đảm bảo tính định hướng và sự phát triển nền kinh tế thị trường.
1.4.2. Công ty cổ phần là sản phẩm của nền kinh tế thị trường.
Về mặt lý thuyết, chúng ta đều thấy rằng hình thái doanh nghiệp dưới dạng công ty cổ phần là sản phẩm của một quá trình tiến hoá lâu dài gắn liền với những nấc thang phát triển của xã hội hoá sở hữu tư nhân trong nền kinh tế thị trường. Về mặt lịch sử chúng ta có thể nhận thấy quá trình tiến hoá của các hình thái doanh nghiệp được đặc trưng bởi 3 loại hình chủ yếu tương ứng với 3 mức độ phát triển cảu xã hội hoá sở hữu tư nhân, mặc dù biểu hiện trung gian giữa chúng hết sức đa dạng và linh hoạt.
+ Hình thái kinh doanh một chủ.
+ Hình thái kinh doanh chung vốn
+ Hình thái công ty cổ phần.
Hình thái công ty cổ phần, ra đời đánh dấu sự tiến hoá của chế độ tín dụng từ kinh doanh chủ yếu dựa vào vay mượn qua ngân hàng hoặc chung vốn sang huy động vốn trên thị trường tài chính, trong đó chủ yếu là thị trường chứng khoán. Trong hình thái kinh doanh này có hai loại hình chủ yếu: Công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có phát hành cổ phiếu. Có thể thấy rằng công ty cổ phần ra đời mang những đặc điểm mới cho phép nó thích ứng với những đòi hỏi của sự phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại mà những hình thái khác không đáp ứng được đó là:
* Công ty cổ phần là một tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân và các cổ đông chỉ có trách nhiệm pháp lý hữu hạn trong phần vốn góp của mình.
* Cơ cấu tổ chức trong công ty cổ phần đã thực hiện được việc tách biệt quyền sở hữu và quyền kinh doanh, tạo nên một hình thái xã hội hoá sở hữu của một bên là đông đảo công chúng mua cổ phần còn là đội ngũ các nhà quản trị kinh doanh chuyên nghiệp sử dụng tư bản xã hội cho những công cuộc kinh doanh quy mô lớn.
* Các cổ phiếu và trái phiếu của công ty cổ phần được chuyển nhượng dễ dàng trên thị trường chứng khoán vì thế bất kể cổ phiếu được chuyển chủ bao nhiêu lần, cuộc sống của doanh nghiệp vẫn tiếp tục một cách bình thường mà không bị ảnh hưởng. Đồng thời nhờ cơ chế này nó đã tạo sự di chuyển linh hoạt các luồng vốn xã hội theo các nhu cầu và cơ hội đầu tư đa dạng của công ty và công chúng.
Tóm lại, sự trình bày khái quát các nấc thang tiến hoá của hình thái doanh nghiệp dựa trên đặc điểm tách biệt của sở hữu tư nhân trong quá trình xã hội hoá, sản xuất có thể khẳng định xu hướng phát triển tất yếu của công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Qua đó cho ta thấy việc tiến hành quá trình chuyển đổi mô hình doanh nghiệp sở hữu toàn phần của nhà nước thành các công ty cổ phần bằng con đường cổ phần hoá là một đòi hỏi khách quan trong quá trình cải tổ khu vực kinh tế nhà nước phù hợp với việc xây dựng một nền kinh tế thị trường hiện đại.
2. Kinh nghiệm cổ phần hoá DNNN ở một số nước, bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam.
2.1. Kinh nghiệm chung của các nước trên thế giới về cổ phần hoá.
Trong việc xác định các mục tiêu để tiến hành cổ phần hoá DNNN các nước cho rằng: 1) Nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN 2) giảm thâm hụt ngân sách nhà nước là những mục tiêu đầu tiên và trực tiếp. Ngoài ra tuỳ theo điều kiện mỗi nước mà các mục tiêu cổ phần hoá được bổ sung thêm ít nhiều.
2.2. Kinh nghiệm cổ phần hoá ở những nước tư bản phát triển.
1) Thu hút các nhà đầu tư tư nhân vào những ngành, những lĩnh vực lâu nay nhà nước độc quyền những xét thấy không còn cần thiết nữa. 2) Nhà nước có điều kiện tập trung vào những ngành và những lĩnh vực then chốt khác nhằm ổn định kinh tế vĩ mô và tạo cơ sở cho sự tăng trưởng mới 3) Thực hiện phân phối có lợi cho các tầng lớp dân cư có thu nhập thấp tạo sự ổn định về mặt xã hội.
2.3. Kinh nghiệm cổ phần hoá ở Trung Quốc.
- Giảm gánh nợ nước ngoài.
- Thu hút đầu tư nước ngoài.
Cụ thể là: Cổ phần hoá DNNN ở Trung Quốc.
- Trung Quốc bắt đầu thí điểm cổ phần hoá DNNN của họ vào đầu những năm 1980, họ đã gặt hái được một số kinh nghiệm đáng chú ý. Từ ngày 22 đến ngày 25/8/1987 tại Hàng Châu (Sơn Tây) Chính phủ Trung Quốc đã tổ chức hội nghị thảo luận về 3 năm thực hiện cổ phần hoá. Chỉ tính riêng trong 5 tỉnh thành phố (Thẩm Dương, Thượng Hải, Bắc Kinh, Quảng Châu, Thiểm Tây) đã có tên 1000 xí nghiệp quốc doanh cổ phần hoá với tổng số vốn lên tới hàng chục tỷ nhân dân tệ. Ngày 25/7/1984 thành lập công ty cổ phần đầu tiên của cả nước với số vốn cổ phần của bên ngoài công ty lên đến 5.318.000 nhân dân tệ, chiếm 73,6% tổng giá trị doanh nghiệp.
1.1. Hình thức cổ phần của Trung Quốc.
a. Cơ cấu cổ phần.
Cơ cấu cổ phần của doanh nghiệp gồm cổ phần nhà nước, cổ phần CBCNV trong doanh nghiệp và cá nhân ngoài doanh nghiệp.
b. Chế độ cổ phần hữu hạn.
Vốn cổ phần của các xí nghiệp này do những xí nghiệp nhà nước tập thể, và tư nhân đóng góp. Những xí nghiệp tham gia liên hiệp xí nghiệp cổ phần có thể dùng tài sản dưới những hình thái khác nhau như: tiền vốn, tài sản cố định... để đóng góp cổ phần.
c. Chế độ cổ phần hỗn hợp.
Cổ phần của các xí nghiệp là sự hỗn hợp cổ phần trong nội bộ và cổ phần ngoài xã hội. Chúng bao gồm: cổ phần nhà nước, cổ phần xí nghiệp, cổ phần các tổ chức kinh doanh và cổ phần cá nhân.
1.2. Xác định cổ phần.
Việc xác định cổ phần nhằm làm rõ vai trò sở hữu của người sở hữu cổ phần. Căn cứ vào vốn đầu tư để chia quyền sở hữu cổ phần. Tổng số cổ phần được phân làm 4 loại: cổ phần nhà nước, cổ phần xí nghiệp, cổ phần xã hội, cổ phần cá nhân. Cổ phần nhà nước chủ yếu là chỉ tài sản được hình thành do đầu tư của nhà nước vào những xí nghiệp thuộc sở hữu toàn dân bao gồm: tài sản cố định, vốn lưu động do nhà nước cấp. Cổ phần xí nghiệp nói chung là chỉ tài sản được hình thành từ lợi nhuận để lại cho xí nghiệp. Cổ phần xã hội là cổ phần mà các tầng lớp xã hội ở ngoài xí nghiệp đã mua. Cổ phần cá nhân là cổ phần mà công nhân trong xí nghiệp và nhân dân mua bằng những thu nhập cá nhân từ nguồn vốn nhàn rỗi của họ.
1.3. Phân phối lợi nhuận.
Nhìn chung có 3 cách phân phối lợi nhuận:
a. Lợi nhuận hình thành trước hết phải trả các khoản vay của ngân hàng, sau đó căn cứ vào các luật thuế để nộp các loại thuế cho nhà nước. Phần lợi nhuận còn lại phân phối cho các quỹ căn cứ vào số lượng các quỹ và tỉ lệ cụ thể của mỗi quý do HĐQT quyết định căn cứ vào những quy định có liên quan của nhà nước.
b. Hạ thấp mức thuế doanh thu, phần lợi nhuận còn lại sau khi nộp thuế trả nợ sẽ đem phân bố các quỹ.
c. Lợi nhuận thực hiện còn lại của xí nghiệp được phân bổ cho các quỹ sau khi nộp thuế, tiền phạt nếu chiếm dụng vốn của nhà nước hoặc của các xí nghiệp khác, trả nợ và trả lãi ngân hàng.
1.4. Phân phối lợi tức cổ phần.
Cơ bản đều căn cứ vào tỷ lệ cổ phần để chia lợi tức được hưởng khi hoạt động kinh doanh có lãi và chịu thiệt hại, tổn thất khi thua lỗ, lợi tức được phân chia dưới dạng 1 khoản thu nhập cố định hoặc dưới dạng biến động phụ thuộc vào khối lượng lợi nhuận thu được trong quá trình sản xuất kinh doanh.
2.4. Bài học kinh nghiệm từ việc cổ phần hoá ở các nước trên thế giới đối với Việt Nam.
2.4.1. Tính phổ biến của quá trình cổ phần hoá.
Sự triển khai có tính chất toàn cầu của quá trình này tạo ra một tương quan hợp lý giữa sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân giữa sự điều tiết của nhà nước và của thị trường. Vì vậy tiến hành cổ phần hoá các DNNN ở Việt Nam là một vấn đề không thể bỏ qua, một đòi hỏi khách quan để chuyển nền kinh tế thị trường có sự điều tiết định hướng của Nhà nước và khai thác các động lực của thị trường. Đặc biệt Việt Nam ta nên học tập hình thức cổ phần hoá DNNN của Trung Quốc một quốc gia rộng lớn song có nhiều nét tương đồng với chúng ta.
2.4.2. Tính đặc thù của quá trình cổ phần hoá DNNN.
Đó là sự phản ánh các sắc thái khác nhau về mục tiêu, cách thức tổ chức, bước đi và các biện pháp cụ thể do những đặc điểm về điều kiện chính trị, kinh tế - xã hội cao mỗi nước chính phủ quy định, ở nước ta cũng không thể không chú ý đến tính đặc thù về các điều kiện quy định quá trình này để có sự sàng lọc kinh nghiệm các nước và chuẩn bị kỹ càng các điều kiện vận dụng vào hoàn cảnh Việt Nam.
2.4.5. Tính chiến lược của quá trình cổ phần hoá.
Hầu hết các nước đều coi cổ phần hoá là một bộ phận của quá trình cải cách toàn bộ nền kinh tế, do đó nó đòi hỏi phải được suy xét và hành động mang tính chiến lược cao khi xác định các mục tiêu về cơ cấu và tương quan giữa các lĩnh vực và khu vực kinh tế để dịch chuyển phân bổ các nguồn lực và quyền lực cho các nhóm người sở hữu và quản lý khác nhau. Vì vậy, ở hầu hết các nước đều lập ra một cơ quan chính phủ chịu trách nhiệm thực hiện quá trình này theo những quan điểm chiến lược đề ra. ở nước ta, với quy mô và tính chất quan trọng của chương trình cổ phần hoá, nhà nước không thể suy xét nó ở tầm chiến lược trong quá trình đổi mới toàn diện để phát triển nền kinh tế, đồng thời cũng cần phải thành lập một cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm quản lý, chỉ đạo và giải quyết toàn bộ những vấn đề liên quan đến chương trình này.
2.4.4. Tính quá trình của việc thực hiện cổ phần hoá.
Thực tiễn và nhiều công trình nghiên cứu ở các nước đều chỉ ra rằng việc thực hiện cổ phần hoá gồm nhiều giai đoạn: chuẩn bị điều kiện về tổ chức, lựa chọn các mục tiêu, phương thức thực hiện, kiểm soát và điều chỉnh. Tuy các giai đoạn không có sự phân định rõ rệt nhưng nó có ý nghĩa chỉ đạo về mặt thực tiễn: khuyến khích tính thận trọng với những giải pháp phù hợp dựa trên những điều kiện thực tế. Tính quá trình tỏ ra thích hợp với cả chính phủ, đang cần thời gian nắm bắt và kiểm soát, cũng như công chúng đang cần thời gian để tìm vào sự ổn định, lâu dài về chính sách của chính phủ. ở Việt Nam chúng ta, trong hoàn cảnh thiếu nhiều điều kiện quan trọng để thực hiện cổ phần hoá thì việc quán triệt quan điểm quá trình trong cổ phần hoá các DNNN là cần thiết để chống những tư tưởng và biểu hiện nóng vội, chủ quan duy ý chí, muốn hoàn thành công việc này một lần trong thời gian ngắn.
Như vậy, qua thực tiễn tiến hành công tác cổ phần hoá ở nước ta, và qua kinh nghiệm cơ bản của một số nước xung quanh, chúng ta thấy việc cổ phần hoá đáp ứng được yêu cầu bức thiết của công cuộc cải cách các DNNN phù hợp theo sự phát triển của nền kinh tế thị trường hiện đại.
II. DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC VÀ THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HOÁ DNNN.
1. Thực trạng DNNN ở Việt Nam trong bước chuyển sang kinh tế thị trường.
DNNN là một bộ phận quan trọng, cấu thành của khu vực kinh tế nhà nước, vì thế vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế này phụ thuộc nhiều vào hiệu quả kinh tế xã hội mà DNNN mang lại. Nước ta cũng giống như các nước XHCN trước đây, thực hiện mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung, lấy việc mở rộng và phát triển các DNNN làm mục tiêu cho công cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội nên đã chiếm tỷ trọng tuyệt đối trong nền kinh tế và dựa trên cơ sở nguồn vốn cấp phát của ngân sách nhà nước, tất cả các hoạt động đều chịu sự kiểm soát và chi phối trực tiếp của nhà nước song cũng giống như nhiều nước trên thế giới, các DNNN hoạt động hết sức kém hiệu quả, ngày càng bộc lộ những điểm yếu, đặc biệt là ở cấp địa phương quản lý.
+ Tỷ trọng tiêu hao vật chất: Tỷ trọng tiêu hao vật chất trong tổng sản phẩm xã hội của khu vực kinh tê nhà nước cao gấp 1,5 lần và chi phí để sáng tạo ra một đồng thu nhập quốc dân cao gấp 2 lần so với kinh tế tư nhân.
Mức tiêu hao vật chất của các DNNN trong sản xuất cho một giá trị đơn vị tổng sản phẩm xã hội ở nước ta thường cao gấp 1,3 lần so với mức trung bình trên thế giới. VD: chi phí vật chất của sản phẩm hoá chất bằng 1,88 lần, sản phẩm cơ khí bằng 1,3 - 1,8 lần, phân đạm bằng 2,35lần. Mức tiêu hao năng lượng của các DNNN ở nước ta cũng cao hơn so với mức trung bình của thế giới. VD: trong sản xuất giầy gấp 1,26 lần, hoá chất cơ bản bằng 1,44 lần, than bằng 1,75 lần, phân đạm bằng 1,83 lần...
+ Chất lượng sản phẩm của nhiều DNNN rất thấp và không ổn định:
Trung bình trong khu vực kinh tế nhà nước chỉ có khoảng 15% đạt tiêu chuẩn xuất khẩu; 65% số sản phẩm đạt mức độ dưới trung bình để tiêu dùng nội địa; 20% số sản phẩm kém chất lượng. Do đó, hiện tượng hàng hoá ứ đọng với khối lượng lớn và chiếm hơn 10% số vốn lưu động của toàn xã hội.
+ Hệ số sinh lời của khu vực kinh tế nhà nước rất thấp.
VD: Hệ số sinh lời của vốn lưu động mang tính chung chỉ đạt 7%/năm, trong đó ngành giao thông vận tải đạt 2%/năm ngành công nghiệp khoảng 3%/năm, ngành thương nghiệp đạt 22%/năm... hệ số sinh lời của vốn lưu động đạt 11%/năm, trong đó các ngành tương ứng ở trên đạt 9,4%; 10,6% và 9,5%.
+ Hiệu quả khai thác vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước hết sức thấp.
Cụ thể là trong mấy năm gần đây, hàng năm nhà nước dành hơn 70% vốn đầu tư ngân sách của toàn xã hội cho các DNNN, tuy nhiên chúng chỉ tạo ra được từ 34% - 35% tổng sản phẩm xã hội. Hơn nữa khu vực kinh tế nhà nước lại sử dụng hầu hết lao động có trình độ đại học, công nhân kỹ thuật, phần lớn số vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại quốc doanh.
+ Số các doanh nghiệp thua lỗ chiếm một tỷ trọng lớn:
Theo số liệu của tổng cục thống kê năm 1990, trong số 12.084 cơ sở quốc doanh thì có tới 4.504 đơn vị sản xuất kinh doanh thua lỗ, chiếm hơn 4.584 đơn vị sản xuất kinh doanh thua lỗ, chiếm hơn 30% tổng số các doanh nghiệp nhà nước. Trong đó, quốc doanh trung ương có 501 cơ sở thua lỗ, bằng 29,6% số cơ sở do TW quản lý, quốc doanh địa phương có 4.083 cơ sở thua lỗ chiếm 39,9% số đơn vị do địa phương quản lý. Các đơn vị thua lỗ trên đây có giá trị tài sản cố định bằng 38% tổng giá trị tài sản của toàn bộ khu vực kinh tế nhà nước và với 787.300 lao động trong tổng số 2.590.000 lao động, bằng 32,9% số lao động của toàn bộ khu vực kinh tế nhà nước. Các số liệu đó cho thấy việc làm ăn thua lỗ của các DNNN đã gây tổn thất rất lớn cho ngân sách nhà nước và là một trong những nguyên nhân đưa đến việc bội chi ngân sách nhà nước triền miên trong những năm qua. Thêm vào đó nhà nước lại có hàng loạt chính sách bù giá, bù lương bù chênh lệch ngoại thương và hàng loạt các khoản bao cấp khác cho các khoản vay nợ của nhà nước ngày càng nặng nề và trầm trọng. Chỉ tính trong giai đoạn 1985 - 1990, tỷ lệ thâm hụt ngân sách thường xuyên ở trên mức 30%.
+ Từ năm 1989 đến nay, nền kinh tế đã thực sự bước sang hoạt động theo cơ chế thị trường.
Các chính sách về kinh tế, tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước đã được thay đổi theo hướng tự do hoá giá cả. Chi phí ngân sách nhà nước đã bù lỗ, bù giá, bổ sung vốn lưu động cho khu vực này đã giảm đáng kể. Tuy nhiên, tư tưởng bao cấp trong đầu tư vẫn còn rất nặng nề. Tất cả các doanh nghiệp được thành lập đều được cấp toàn bộ vốn từ ngân sách nhà nước. Hàng năm trên 85% vốn tín dụng với lãi suất ưu đãi được dành cho các DNNN vay. Tài sản tiền vốn của nhà nước giao cho doanh nghiệp chủ yếu là không được bảo tồn và phát triển. Theo báo cáo của tổng cục thống kê, hầu hết các DNNN mới chỉ bảo tồn được vốn lưu động, còn vốn cố định thì mới chỉ bảo tồn ở mức 50% so với chỉ số lạm phát. Hai ngành chiếm giữ vốn lớn nhất là công nghiệp và thương nghiệp (72,52%) lại là hai ngành có tỉ lệ thất thoát vốn lớn nhất (16,41% và 14,95%). Vấn đề nợ nần, vòng vo, mất khả năng thanh toán còn diễn ra khá nghiêm trọng do tình trạng quản lý của nhà nước về tài chính đối với doanh nghiệp chậm được đổi mới, đồng thời từ đó nạn tham nhũng lãng phí diễn ra ở mức báo động.
* Một số nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng hoạt động kém hiệu quả của các DNNN.
1.1. Các DNNN được sinh ra và trưởng thành trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp kéo dài hàng chục năm, vốn do nhà nước cấp phát. Các DNNN chỉ đơn thuần là một đơn vị "gia công" cho nhà nước, thiếu quyền tự chủ, không có tính năng động, táo bạo trong sản xuất kinh doanh.
1.2. Các DNNN đã từ lâu không được đặt trong môi trường cạnh tranh, không gắn với thị trường do đó chậm đổi mới công nghệ và nâng cao chất lượng sản phẩm.
1.3. Tổ chức bộ máy trong các DNNN cồng kềnh, không có sự phân biệt đầy đủ quyền sở hữu và quyền quản lý kinh doanh. Tình trạng làm chủ tập thể chung chung kéo dài mà thực chất là vô chủ phổ biến ở hầu hết các DNNN.
1.4. Việc phân phối thực chất không dựa trên nguyên tắc phân phối theo lao động mà chủ yếu nhằm phục vụ chính sách xã hội, mang nặng tính bình quân chủ nghĩa.
2. Tiến trình cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam.
2.1. Quá trình cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam còn chậm.
Tiến trình.
Quá trình thực hiện điểm chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần theo quyết định số 202/CP ngày 22/8/1996 cả nước đã chuyển được 5 DNNN thành công ty cổ phần trong đó Bộ giao thông vận tải có một đơn vị là công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển là đơn vị được tiến hành và hoàn thành đầu tiên của cả nước (7/1993). Rút kinh nghiệm từ việc chỉ đạo thí điểm, và phản ánh của các bộ, ngành thủ tướng chỉnh phủ đã ban hành Nghị định 28/CP ngày 7/5/1996 về việc chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần và nghị định số 25CP ngày 26/3 sửa đổi, bổ sung nghị định 28/CP thì đến nay đã có 29DNNN được cổ phần hoá. Bộ GTVT có 5 DNNN thực hiện cổ phần hoá. Ngoài công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển có công ty cổ phần đá Đồng Giao hoạt động theo luật công ty tháng 2/1997. Khách sạn Hải Vân Nam thuộc công ty dịch vụ du lịch đường sắt Sài Gòn đã có quyết định xác định giá trị DN tháng 6/1997 đang trong giai đoạn đăng ký bán cổ phiếu. Công ty vận tải SAFI đã có quyết định chuyển sang công ty cổ phần 5/1998, đã thẩm định xong giá trị... Tháng 4/1998 Bộ giao thông vận tải đã báo cáo và đăng ký danh sách thực hiện cổ phần hoá đợt 1 năm 1998 là 10 đơn vị, và đợt 2 đầu năm 1999 là 10 đơn vị và cả năm 1999 là 50 đơn vị. Như vậy bộ GTVT là bộ đi đầu và cũng là bộ có số lượng thực hiện cổ phần hoá nhiều nhất. Tại thời điểm này, Bộ thương mại và 5 tỉnh thành phố đăng ký danh sách 21 DNNN - cổ phần hoá. Cục quản lý vốn và tài sản ở các địa phương báo cáo có 70 DNNN - cổ phần hoá...
Tuy nhiên so với yêu cầu đặt ra thì tiến trình cổ phần hoá ở nước ta vẫn còn chưa đạt. Tiến độ thực hiện chậm nhưng tập trung có mấy nguyên nhân sau đây.
2.2. Nguyên nhân cổ phần hoá chậm ở Việt Nam trong những năm gần đây.
- Các doanh nghiệp và CBCNV các doanh nghiệp chưa thật sự thông suốt tư tưởng cổ phần hoá: Sự mất quyền lãnh đạo mất quyền lợi, mất việc làm...
- Về chế độ chính sách chưa thoả đáng, chưa khuyến khích người lao động và DNNN chuyển sang cổ phần hoá.
- Trình tự, thủ tục rườm rà, phức tạp nhất là khâu thẩm định giá trị doanh nghiệp, có quá nhiều công đoạn...
3. Các yếu tố tác động tới quá trình cổ phần hoá DNNN ở nước ta hiện nay.
3.1. Thuận lợi.
+ Điều kiện và môi trường pháp lý hiện nay ở nước ta, về cơ bản đã được xác lập, đặt tất cả các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường. Việc thực hiện "Thương mại hoá" các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế là tiền đề cơ bản và cần thiết để từng bước thực hiện cổ phần hoá các DNNN.
+ Chính phủ Việt Nam đã nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề cổ phần hoá của DNNN và quyết tâm thực hiện. Điều này thể hiện ở việc ban hành các văn bản nhằm thực hiện chương trình cổ phần hoá DNNN như luật công ty, quyết định 315, và 330 về sắp xếp lại khu vực kinh tế nhà nước. Nghị định 388 - HĐBT về thành lập và giải thể DNNN.
+ Tình hình kinh tế đất nước đã có nhiều biến đổi theo chiều hướng tích cực. Giá cả thị trường đã được duy trì tương tới ổn định, mức lạm phát được kiềm chế, đồng tiền Việt Nam được giữ giá.
+ Như những chính sách đổi mới trong phát triển kinh tế,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BC2127.doc