Đề tài Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay

MỤC LỤC

Trang

Lời mở đầu 2

Nội dung 3

I. Tổng quan về công nghịêp hoá, hiện đại hoá. 3

1.1. Quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 3

1.2. Đặc điểm công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. 3

1.3. Nội dung của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. 4

1.4. Mục tiêu, tác dụng của quá trình công nghịêp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. 6

1.5. Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 7

1.6. Quan điểm của Đảng về công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay. 8

II. Cơ sở lý luận của đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. 8

III. Cơ sở thực tiễn của đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. 11

3.1. Bối cảnh quốc tế. 11

3.2. Bối cảnh trong nước. 12

3.3. Thực trạng quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta 12

3.3.1 Những kết quả đạt được của quá trình CNH, HĐH ở nước ta trong những năm đổi mới. 13

3.3.2. Những yếu kém và tồn tại của quá trình CNH, HĐH ở nước ta trong những năm đổi mới. 15

3.3.3. Nguyên nhân các yếu kém, tồn tại của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta trong những năm đổi mới. 17

IV. Quan điểm, phương hướng, giải pháp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. 18

4.1. Quan điểm đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. 18

4.2. Những giải pháp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. 19

Kết luận 23

Tài liệu tham khảo 24

 

doc24 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1967 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cấu hạ tầng của nền kinh tế nước ta hết sức thấp kém, không đáp ứng được yêu cầu của sản xuất, kinh doanh và của đời sống dân cư. Do vậy, trong những năm trước mắt, việc xây dựng kết cấu hạ tầng của nền kinh tế được coi là một nội dung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. d) Phát triển nhanh du lịch, các ngành dịch vụ Trong những năm trước mắt, cần tạo bước phát triển vượt bậc của các ngành dịch vụ, nhất là những ngành có chất lượng cao, tiềm năng lớn, và có sức cạnh tranh như hàng không, hàng hải, bưu chính-viễn thông, tài chính, ngân hàng, kiểm toán, bảo hiểm… đưa tốc độ tăng trưởng của các ngành dịch vụ cao hơn tốc độ tăng GDP. Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng một số ngành: vận tải, thương mại, dịch vụ… e) Phát triển hợp lý các vùng lãnh thổ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng, lãnh thổ trên cơ sở khai thác triệt để các lợi thế, tiềm năng của từng vùng, liên kết hỗ trợ nhau, làm cho tất cả các vùng cùng nhau phát triển. Trong những năm trước mắt phải có cơ chế, chính sách phù hợp để các vùng trong cả nước cùng phát triển, đồng thời tạo sự liên kết giữa các vùng và nội vùng. f) Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại Trong nền kinh tế toàn cầu hoá, mở cửa nền kinh tế là cần thiết với tất cả các nước. Do đó, công nghiệp hoá, hiện đại hoá không thể thành công nếu không mở cửa nền kinh tế. Sau thời khá dài đóng cửa, hiện nay, mở cửa nền kinh tế là nhu cầu cấp bách đối với nền kinh tế nước ta, là một nội dung của công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở nước ta trong những năm trước mắt. Tuy nhiên, mở cửa hội nhập như thế nào cũng cần đước cân nhắc kỹ càng nhằm tranh thủ những tác động tích cực, hạn chế những tác động tiêu cực của quá trình này với tăng trưởng, phát triển của ngành kinh tế. Trong việc mở cửa, hội nhập, phải đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm. Chuyển hướng chiến lược, xây dựng nền kinh tế mở đòi hỏi phải điều chỉnh cơ cấu kinh tế để vừa hội nhập khu vực, vừa hội nhập toàn cầu. 1.4. Mục tiêu, tác dụng của quá trình công nghịêp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Mục tiêu lâu dài của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta là xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội dựa trên một nền khoa học và công nghệ tiên tiến tạo ra lực lượng sản xuất mới với quan hệ sản xuất ngày càng tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, cải tiến đời sống vật chất, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Thực tiễn đã chứng minh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ có những tác dụng to lớn về nhiều mặt trong sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước: - Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta trước hết là quá trình thực hiện mục tiêu xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. - Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo ra cơ sở vật chất để làm biến đổi về chất của lực lượng sản xuất. - Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là cơ sở kinh tế để củng cố và phát triển khối liên minh. - Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo điều kiện vật chất để xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, vững mạnh. - Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thúc đẩy sự phân công lao động xã hội phát triển. - Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo ra tiền đề kinh tế cho sự phát triển đồng bộ về kinh tế chính trị, văn hoá- xã hội, quốc phòng và an ninh. 1.5. Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất- kỹ thuật thấp kém, trình độ của lực lượng sản xuất chưa phát triển, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mới được thiết lập, chưa được hoàn thiện. Vì vậy, quá trình công nghiệp hoá chính là quá trình xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân. Mỗi bước tiến của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một bước tăng cường cơ sở vật chất- kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. 1.6. Quan điểm của Đảng về công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay. Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế quốc tế. - Công nghiệp hoá là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế - Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững - Khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hoá; kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại. - Lấy hiệu quả kinh tế – xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát, lựa chon dự án đầu tư và công nghệ. II. Cơ sở lý luận của đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Có thể nói chưa bao giờ cả nhân loại lại suy tư, trăn trở bàn luận nhiều về phát triển như trong thập kỷ gần đây. Hàng loạt chương trình, dự án phát triển ở cả cấp quốc gia và quốc tế cũng như không ít lý thuyết phát triển làm luận cứ cho các chương trình, dự án ấy đã được đề ra phát triển khoa học và công nghệ, phát triển nông nghiệp nông thôn, phát triển bền vững… Và cơ sở lý luận của đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta là sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là năng lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên của con người nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống của mình Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội. Trình độ phát triển lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử thể hiện trình độ trinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử đó. Trình độ lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình độ kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người; trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất. Gắn liền với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của lực lượng sản xuất. “Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó”. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là “ hình thức phát triển” của lực lượng sản xuất. Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều tạo địa bàn đầy đủ cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất và do đó lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hết khẳ năng của nó. Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích” của lực lượng sản xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Các Mác đã viết “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có… Trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ sản xuất ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội”. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất nhưng “ Quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động quay trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất”. Quan hệ sản xuất quy định mục đích sản xuất, tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ… Do đó tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc tiên tiến hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, thì theo quy luật chung, quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất không phải giản đơn. Nó phải thông qua nhận thức và hoạt động cải tạo xã hội của con người. Trong xã hội có giai cấp phải thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế, phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên thuỷ, qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa, và chế độ cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội. Trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến nhất. III. Cơ sở thực tiễn của đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. 3.1. Bối cảnh quốc tế. Quan điểm toàn diện coi bối cảnh quốc tế là một mặt, một mối liên hệ quan trọng không thể thiếu, có tác động lớn đến sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước nói chung cũng như sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ỏ nước ta nói riêng vẫn tiếp tục phát triển trong tình trạng kinh tế thế giới diễn biến nhanh chóng và chứa đựng những yếu tố khó lường. Thứ nhất, chế độchủ nghĩa xã hội ở liên xô và các nước đông âu xụp đổ khiến cho chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào tình trạng thoái trào nhưng điều đó không làm thay đổi tính chất thời đại: loài người vẫn đang trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới vẫn còn tồn tại và phát triển có mặt sâu sắc hơn, nội dung và hình thức có nhiều nét mới. Đấu tranh dân tộc và giai cấp vẫn diễn ra dưới nhiều hình thức. Thứ hai, nguy cơ chiến tranh thế giới huỷ diệt bị đẩy lùi, nhưng xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ, xung đột dân tộc và tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ, khủng bố vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi. Thứ ba, cách mạng khoa học và công nghệ vẫn tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao hơn, tăng nhanh lực lượng sản xuất, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hoá kinh tế và đời sống xã hội. Thứ tư, cộng đồng thế giới đứng trước nhiều vấn đề có tính toàn cầu( bảo vệ môi trường, bùng nổ dân số, bệnh tật hiểm nghèo, phân hoá giầu nghèo) không thể một quốc gia riêng lẻ nào có thể giải quyết, mà cần có sự hợp tác đa phương giữa các quốc gia. Thứ năm, khu vực châu á thái bình dương đang có những bước phát triển đầy năng động. Đồng thời khu vực này cũng tiềm ẩn một số nhân tố có thể gây bất ổn định. Bên cạnh đó hiện nay trong quan hệ quốc tế nổi bật xu thế hoà bình, ổn định hợp tác phát triển, đấu tranh vì hoà bình 3.2. Bối cảnh trong nước. Trước những thay đổi lớn của thế đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến nước ta( cả tích cực và tiêu cực). Đảng ta xác định thời cơ và những thách thức to lớn đang đặt ra cho đất nước ta. Thuận lợi đó là những thành tựu của công cuộc đổi mới tạo ra thế và lực để chuyển sang giai đoạn phát triển cao hơn. Mặt khác, trong môi trường hoà bình và ổn định của khu vực, sự phát triển năng động của vùng Châu á- Thái bình dương, đặc biệt xu thế quốc tế hoá nền kinh tế thế giới trong hoà bình ổn định và hợp tác đang trở thành một xu thế chung, chủ yếu của thời đạithì quan hệ của nước tađối với nước ngoàivà khả năng hội nhậpcộng đồng thế giới được mở rộng hơn bao giờ hết. Bên cạnh những thuận lợi đó, chúng ta cũng đang đứng trước thách thức với bốn nguy cơ chính : nguy cơ về chệch hướng XHCN, nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ nạn quan liêu, nguy cơ về diễn biến hoà bình của thế lực thù định. Các nguy cơ trên có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau và đều nguy hiểm không thể xem nhẹ nguy cơ nào. 3.3. Thực trạng quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta Từ Đại hội đảng toàn quốc lần thứ III Đảng ta đã xác định công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ là sự tăng thêm một cách giản đơn tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế, mà là cả một quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn liền với đổi mới công nghệ, tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững và có hiệu quả trong toàn bộ nền kinh tế. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải đảm bảo xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, kết hợp nội lực với ngoại lực tạo thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước. 3.3.1 Những kết quả đạt được của quá trình CNH, HĐH ở nước ta trong những năm đổi mới. - Công nghiệp hoá, hiện đại hoá không những trở thành nhận thức, mà nó còn là hành động mạnh mẽ thôi thúc mỗi người dân, mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp, mỗi địa phương tham gia vào sự nghiệp chung đó. Trước đây người dân có vốn, có khả năng kinh doanh, có tay nghề nhưng không được khuyến khích làm giàu, không được khuyến khích sáng tạo. Ngày nay với chính sách khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế, mọi người được sáng tạo được làm giàu chính đáng, mọi thứ lao động có ích cho xã hội đều được tôn vinh. Nhờ xã hội hoá mà đề cao ý thức và trách nhiệm của dân. Nâng cao quyền tự chủ cho doanh nghiệp. Như vậy, ngàu nay công nghiệp hoá hiện đại hoá đã thực sự trở thành sự nghiệp của quần chúng. - Công nghiệp hoá hiện đại hoá đã hướng mạnh vào từng bước xây dựng nền kinh tế tự chủ đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Xây dựng nền kinh tế tự chủ đi dôi với hội nhập kinh tế quốc tế là hai vấn đề quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội nói chung và chiến lược CNH, HĐH nói riêng. Trong những năm vừa qua CNH, HĐH hướng xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế đã đạt được một số thành tựu và kết quả bước đầu. Trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, Việt Nam đã tham gia vào nhiều tổ chức kinh tế và thương mại quốc tế. Có quan hệ buôn bán với hơn 170 quốc gia, trong đó đã kí hiệp định song phương với 60 nước và thoả thuận Trong quá trình CNH, HĐH, Việt Nam đã thu hút được một lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), năm 2002 vốn đầu tư nước ngoài 44tỷ USD với trên 3000 dự án đã thực hiện, trong đó trên 25 tỷ USD đã thực hiện. Nhờ đó đã giải quyết việc làm cho khoảng 40 vạn lao động trực tiếp và hàng chục vạn lao động gián tiếp. Điều đáng mừng là cùng với việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, mấy năm gần đây đã xuất hiện vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (Nga, Lào, Campuchia). Từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và cả nền kinh tế vào môi trường cạnh tranh. CNH, HĐH ở nước ta đã bảo đảm sự tăng trưởng khá cao và bước đầu có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực. Trong thời kỳ đổi mới, nền kinh tế quốc dân đã có sự tăng trưởng khá cao và liên tục. Được thể hiện qua bảng sau: Bảng: tỷ trọng các ngành trong GDP (%) Các ngành/năm 1986 1990 1995 2000 2004 Nông lâm Ngư nghiệp 38,06 38,74 27,18 24,3 21,76 Công nghiệp Xây dựng 28,88 22,67 28,76 36,61 40,09 dịch vụ 33,06 38,59 44,06 39,09 38,15 Nguồn: tổng cục thống kê. Quá trình CNH, HĐH trong những năm đổi mới vừa qua đã tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế tích cực và đúng hướng, đó là: tăng tỷ trọng và tốc độ công nghiệp, phát triển nhanh các mặt hàng xuất khẩu, thay những cây con có hiệu quả thấp bằng những cây con có hiệu quả cao. - Trong tổ chức thực hiện CNH, HĐH đã xác định đúng trọng tâm, áp dụng nhiều biện pháp đồng bộ, phong phú để huy động mọi lực lượng thực hiện dân chủ hoá và nâng cao hiệu quả. Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong những năm đổi mới đã có nhiều tiến bộ và kết quả đáng kể, trong đó phải kể đến những vấn đề như: + Đảng ta đã xác định đúng trong những năm trước mắt khi gần 70% lao động xã hội là lao động nông nghiệp, khi nông nghiệp còn giữ vị trí quan trọng và chiếm tỷ trọng không nhỏ trong GDP thì công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là nội dung chủ yếu của CNH,HĐH. + Phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế là biện pháp, là động lực đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. + Phát triển mạnh các khu công nghiệp tập trung và phát triển khu công nghiệp vừa và nhỏ. Sự phát triển các khu công nghiệp đã tạo điều kiện mở rộng sản xuất cho doanh nghiệp và ngành công nghiệp, thúc đẩy sản xuất hàng hoá xuất khẩu, góp phần giải quyết tốt hơn các vấn đề kết cấu hạ tầng và bảo vệ môi trường. + Đổi mới và sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước. Doanh nghiệp Nhà nước là lực lượng quan trọng của kinh tế Nhà nước, là lực lượng chủ lực trong xây dựng và phát triển kinh tế. 3.3.2. Những yếu kém và tồn tại của quá trình CNH, HĐH ở nước ta trong những năm đổi mới. - Mục tiêu của công nghiệp hoá và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế với thế giới chỉ đạt được kết quả bước đầu cần phải cố gắng nhiều. Trên thực tế thực hiện mục tiêu còn hạn chế, thể hiện: Chưa có giải pháp hữư hiệu để tháo gỡ khó khăn trong phát triển một số ngành như: Cơ khí, hoá chất, luyện kim,… chưa có chiến lược, chính sách cụ thể trong việc lựa chọn mục tiêu, nội dung, bước đi trong phát triển các ngành có ý nghĩa quyết định đến trang bị kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân như : Cơ khí, điện tử, luyện kim, hoá chất… Nền kinh tế vẫn ở trạng thái nhập siêu. Cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu chưa thể hiện đầy đủ mục tiêu xây dựng nền kinh tế tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế. - Tuy nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao và liên tục trong những năm đổi mới, nhưng sự phát triển không bền vững, hiệu quả chưa cao. Thành tích nổi bật của nền kinh tế nước ta là có sự tăng trưởng khá cao và liên tục từ năm 1986 đến nay, nhưng chất lượng của sự phát triển còn thấp, thể hiện : + Về cơ cấu nhiều ngành có sự tăng trưởng cao là : Những ngành có giá trị tăng thấp, chi phí lạo động lớn, chủ yếu làm gia công cho nước ngoài. Nhiều ngành phát triển trên cơ sở hao phí lao động, nguyên liệu và chi phí sản xuất cao. Trong phát triển thiếu sự cân đối giữa nguyên liệu với chế biến, giữa sản xuất với tiêu thụ. Các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là nông, lâm, thuỷ sản, và sản phẩm thô. Trình độ phát triển công nghiệp chế biến còn thấp. - Khả năng cạnh tranh của sản phẩm do Việt Nam sản xuất còn kém. Theo xếp hạng của diễn đàn kinh tế thế giới thì Việt Nam luôn đứng ở vị trí gần cuối. - Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam trong những năm qua đã tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ nhưng còn chậm và hiệu quả chưa cao. Cơ cấu kinh tế nước ta năm 2002 chỉ tương đương với cơ cấu kinh tế các nước trong khu vực vào những năm 1980. Khu vực dịch vụ tỷ trọng trong GDP liên tục bị giảm xuống. Tỷ trọng lâm nghiệp còn rất thấp và liên tục giảm sút. Chăn nuôi, mục tiêu là đưa lên trở thành ngành sản xuất chính nhưng trong nhiều năm tỷ trọng vẫn thấp. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra chậm và chưa có hiệu quả như trên. - CNH, HĐH ở Việt Nam trong những năm qua chưa thúc đẩy sự liên kết kinh tế giữa trong nước và ngoài nước, giữa các ngành kinh tế, các địa phương, các doanh nghiệp Hoạt động của các doanh nghiệp, các địa phương vẫn mang tính khép kín trong sản xuất, kinh doanh. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và 100% vốn nước ngoài không chú ý phát triển quan hệ hợp tác, liên kết giúp đỡ các doanh nghiệp trong nước cùng phát triển. Vì vậy tiềm năng chưa được phát huy, hiện tượng trùng lặp, cạnh trang không lành mạnh vẫn xẩy ra. 3.3.3. Nguyên nhân các yếu kém, tồn tại của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta trong những năm đổi mới. - chưa nhận thức đầy đủ, đúng đắn về công nghiệp hoá, hiện đại hoá và triển khai không đồng bộ các nội dung công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đảng ta đã quan niệm thực chất công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một quá trình cải biến toàn diện cơ bản nền kinh tế nước ta. - Vai trò và chất lượng của các quy hoạch còn kém Trong những năm gần đây các ngành, các địa phương, các doanh nghiệp thấy rõ vai trò của quy hoạch nên đã chú ý làm quy hoạch nhưng chất lượng quy hoạch còn thấp. - Đầu tư và quản lý còn nhiều bất cập. Khối lượng vốn đầu tư xã hội tăng lên liên tục trong những năm gần đây góp phần tạo nên sự tăng trưởng của nền kinh tế. Tuy nhiên trong quản lý đầu tư còn một số tồn tại đã làm hạn chế những kết quả đạt được trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Một là, hạn chế về quyết định đầu tư, lựa chọn dự án, đầu tư chạy theo phong trào. Hai là, công tác thi công xây dựng chất lượng thấp, thời gian kéo dài, giá thành cao. Ba là, lãng phí thất thoát trong xây dựng là phổ biến nhưng chưa khắc phục được. - Đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu Trong những năm đổi mới chúng ta cố gắng nhiều trong đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực góp phần đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên, về lĩnh vực này còn nhiều hạn chế làm ảnh hưởng đến tốc độ và hiệu quả công nghiệp hoá, hiện đại hoá thể hiện ở các mặt: + Cơ cấu đào tạo bất hợp lý và trình độ đào tạo thấp. Hiện nay ở nước ta đào tạo Đại học và Sau đại học nhiều nhưng chưa chú ý đến đào tạo công nhân kỹ thuật. + Thiếu cơ chế và chính sách phù hợp để huy động và sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động xã hội và tạo động lực cho người lao động làm việc tốt và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhanh, có hiệu quả của đất nước. IV. Quan điểm, phương hướng, giải pháp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. 4.1. Quan điểm đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. - Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả, bền vững, đưa đất nước ta trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. - Trong điều kiện này phải thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhanh và rút ngắn. Để đẩy nhanh và rút ngắn quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải lựa chọn mô hình kiểu mới hiện đại hiện đại hoá thích hợp. Đó là mô hình áp dụng kinh tế tri thức. Phát triển kinh tế xã hội và tăng cường an ninh, quốc phòng là thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ tổ quốc. - Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải thực hiện trên cơ sở nâng cao chất lượng của sự phát triển nền kinh tế quốc dân và phải nâng cao khẳ năng cạnh tranh. Công nghiệp hoá, hiện đại hóa, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế thì cạnh tranh là sự sống còn, và nâng cao sức cạnh tranh là tất yếu, phải phấn đấu liên tục, không ngừng. Do đó, phải nâng cao khẳ năng cạnh tranh của quốc gia, của từng doanh nghiệp và từng sản phẩm. 4.2. Những giải pháp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. - Coi trọng quy hoạch và nâng cao chất lượng quy hoạch Quy hoạch là công cụ quan trọng, nó định hướng dài hạn và đảm bảo sự đồng bộ trong sự nghiệp phát triển dài hạn. Có quy hoạch và thực hiện tốt quy hoạch sẽ khắc phục tình trạng tự phát, tuỳ tiện, lộn xộn, lãng phí trong phát triển vì phải đi làm lại. Quy hoạch là cơ sở của kể hoạch + Với tư cách là cơ quan quản lý Nhà nước, Bộ kế hoạch và đầu tư, các ngành các địa phương đều phải làm quy hoạch kịp thời, có chất lượng cho phát triển các vùng, nhất là vùng trọng điểm. + Phải có sự phối hợp và thống nhất giữa quy hoạch tổng thể với quy hoạch các ngành, các vùng. + Trên cơ sở quy hoach tổng thể, quy hoạch ngành và quy hoạch địa phương các doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển cho doanh nghiệp mình. + Để nâng cao chất lượng quy hoạch cần đổi mới phương pháp và tổ chức làm quy hoạch. - Nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam Sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam là chỉ tiêu tổng hợp đánh giá trình độ phát triển kinh tế và hiệu quả sản xuất- kinh doanh của một quốc gia, của các doanh nghiệp và các sản phẩm. Cạnh tranh vừa là sức ép vừa là động lực thúc đẩy phát triển và đổi mới. Sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam còn kém là do trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp. Để tồn tại và phát triển hội nhập kinh tế với thế giới, để tham gia AFTA và WTO tất yếu khách quan đòi hỏi phải nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên góc độ quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm. Trước hết, cần phân loại mặt hàng thành ba loại căn cứ vào khẳ năng cạnh tranh Hai là, áp dụng các biện pháp toàn diện và đồng bộ để nâng cao khẳ năng cạnh tranh. - Đổi mới đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực phục vụ c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35847.doc
Tài liệu liên quan