MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
I, MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ MỨC ĐỘ ĐÁP ỨNG PHÚC LỢI CHO CON NGƯỜI. 3
II. BẤT BÌNH ĐẲNG 4
1, Các thước đo bất bình đẳng 4
2, Các mô hình về sự bất bình đẳng và tăng trưởng kinh tế 6
3. Bất bình đẳng về thu nhập giữa các nước và trong từng nước 10
4. Bất bình đẳng giới. 13
5. Bất bình đẳng về sức khỏe 14
6. Bất bình đẳng về giáo dục 16
III. NGHÈO ĐÓI 17
1. Bản chất của nghèo 17
2. Nghèo khổ về thu nhập 18
3. Nghèo tổng hợp 20
4. Đói và nghèo 21
5. Cái vòng luẩn quẩn của đói nghèo 24
IV. CÁC CHÍNH SÁCH LÀM GIẢM BẤT BÌNH ĐẲNG Ở VIỆT NAM 26
28 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3021 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cơ sở lý thuyết về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng, đói nghèo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đẳng ngay từ giai đoạn đầu của tăng trưởng được không?
Oshima đã xuất phát từ đặc điểm sản xuất nông nghiệp ở Châu Á, đó là sản xuất lúa nước có tính thời vụ cao và cho rằng quá trình tăng trưởng cần được bắt đầu từ khu vực nông nghiệp. Chính trong quá trình này sẽ dẫn đến hạn chế sự bất bình đẳng trong qua trình tăng trưởng. Theo Oshima, trước hết khoảng cách thu nhập giữa nông thôn và thành thị sẽ được cải thiên ngay từ giai đoạn đầu. Việc tập trung phát triển khu vực nông thôn dựa trên chính sách cải cách ruộng đất, dựa trên sự trợ giúp của nhà nước về giống, kỹ thuật, đồng thời việc mở rộng và phát triển các ngành nghề đã làm cho thu nhập ở khu vực nông thôn được tăng dần. Tiếp đó là quá trình cải thiện dần khoảng cách thu nhập giữa thu nhập có quy mô lớn và xí nghiệp có quy mô nhỏ ở thành thị, cũng như giữa nông trại lớn và nông trại nhỏ ở nông thôn
- Vậy điều này đã tác đông như thế nào đến tăng trưởng?
Theo Oshima, tiết kiệm sẽ được tăng lên ở các nhóm dân cư, kể các nhóm có thu nhập thấp nhất, vì thu nhập ở họ dần dần thỏa mãn các khoản chi và khi đó họ bắt đầu tiết kiệm để trả nợ các khoản vay đầu tư trước đó và tiếp tục đầu tư phát triển sản xuất và đầu tư giáo dục đào tạo cho con em họ.
* Mô hình phân phối lại cùng tăng trưởng kinh tế (của ngân hàng thế giới WB).
Quan điểm này về cơ bản cũng cho rằng: Tăng trưởng kinh tế đi đôi với bình đẳng hay tăng trưởng kinh tế đi đôi với giải quyết các vấn đề phúc lợi
Phân phối lại cùng với tăng trưởng kinh tế là cách thức phân phối lại các thành quả của tăng trưởng kinh tế sao cho cùng với thời gian, phân phối thu nhập cần được cải thiện hoặc ít nhất là không xấu đi trong quá trình tăng trưởng vẫn tiếp tục
Giải pháp phân phối lại thu nhập được xem là quan trọng, nó bao gồm chính sách phân phối lại tài sản và chính sách phân phối lại từ tăng trưởng
Cần phải có những chính sách phân phối lại tài sản vì: Nguyên nhân cơ bản của tình trạng bất công trong phân phối thu nhập của các cá nhân hầu hết các nước đang phát triển là do sự bất công trong sở hữu tài sản, gần 20% dân số nhận được hơn 50% thu nhập vì 20% này có thể đã sở hữu và kiểm soát trên 70% các nguồn lực sản xuất, đặc biệt là vốn vật chất,đất đai, thậm chí cả vốn nhân lực. Chính sách đã được áp dụng phổ biến ở các nước đang phát triển để phân phối lại tài sản là chính sách cải cách ruộng đất, chính sách nhằm tăng cường cơ hội giáo dục cho nhiều người. Tuy nhiên trong thực tế, các chính sách nói trên như chính sách cải cách ruộng đất chỉ thực sự là công cụ có tác động đối với phân phối lại thu nhập khi có sự kết hợp với các chính sách tín dụng nông nghiệp nông thôn, chính sách tiêu thụ nông sản, chính sách công nghệ.
3. Bất bình đẳng về thu nhập giữa các nước và trong từng nước
Khía cạnh tăng trưởng và phân phối thu nhập luôn là một chủ đề gây tranh cãi, bắt đầu từ giả thuyết hình chữ U ngược của Kurznets( 1955) về bất bình đẳng trong phân phối thu nhập gắn với quá trình tăng trưởng. Theo Kurznets, bất bình đẳng có thể là một hệ quả của quá trình tăng trưởng. Thế nhưng, một khi xã hội đã phát triển tới một mức cao nhất định, mứuc độ bất bình đẳng sẽ giảm đi, lúc đó, thu nhập và phúc lợi có xu hướng được phân phối công bằng hơn.
Tuy vậy, nhiều kiểm định thực tế đã không nghiêng về giả thuyết này: bất bình đẳng về phân phối thu nhập không những khoong giảm đi mà còn tăng lên hoặc giữ ở mức cao ngay cả ở nhiều nền kinh tế phát triển như Anh, Mỹ. Để giải quyết bất lợi này, các nước phát triển đã áp dụng nhiều biện pháp khác nhau. Các nước có nền kinh tế thi trường tự do như Mỹ, Anh có phần thiên về áp dụng các biện pháp trực tiếp, trong khi các nước công nghiệp Châu Âu, cả hai loại biện pháp: trực tiếp( như thông qua thuế thu nhập cá nhân, trợ cấp ) và gián tiếp( như cung cấp các dịch vụ giáo dục, y tế nhằm tạo cơ hội cho người có thu nhập thấp tham gia vào quá trình tăng trưởng) đều được thực hiện.
Từ cuối thập kỉ 70 của thế kỉ 20 đến nay, tác đông của khía cạnh phân phối tới tăng trưởng trở thành một chủ đề mang tính thời sự khi bàn về tăng trưởng của các nước đang phát triển. Sử dụng mô hình tăng trưởng nội sinh, nhiều nghiên cứu gần đây về một số nước( Galor& Zria, Stighliz, Aghilon, Caroli và Garci- Denalosa, Barro) đã tìm ra mối quan hệ ngược chiều giữa bất bình đẳng trong phân phối thu nhập với tăng trưởng kinh tế. Các chính sách nhằm tạo thu nhập bình đẳng hơn bằng cách phân phối cơ hội một cách công bằng hơn sẽ thúc đẩy tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo.
Phân phối thu nhập công bằng hơn ở các nước đang phát triển đựoc coi là có lợi cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn được giải thích qua bốn giả thuyết sau đây:
- Thứ nhất, nhiều nghiên cứu gần đây cho rằng, nguời giàu ở các nước phát triển chưa thực sự muốn tiết kiệm để đầu tư vào nền kinh tế trong nước. Xu thế dễ nhận thấy là người giàu muốn tiêu dùng hàng hóa xa xỉ. Loại tiết kiệm và đầu tư này không đóng góp nhiều vào tăng tiềm lực sản xuất của quốc gia, thậm chí là một sự lãng phí nguồn lựcvốn đã ít ỏi ở các nước này. Với hành vi tiêu dùng này, nếu chiến lựợc phát triển mà dẫn đến gia tăng nhanh bất bình đẳng về phân phối thu nhập sẽ tạo ra cơ hội để duy trì vị thế của nhóm người giàu, đồng thời gây ra tổn thất cho nền kinh tế do lãng phí nguồn lực. Trong dài hạn, một chiến lược như vậy thường có tác dụng “ phản tăng trưởng và phát triển”.
- Thứ hai, về phía người nghèo, do thu nhập và mức sống thấp nên tình trạng sức khỏe, dinh dưỡng và giáo dục kém. Điều này làm giảm cơ hội tham gia hoạt động kinh tế và năng suất lao động của họ, và vì thế trực tiếp hay gián tiếp ảnh hưởng xấu tới quá trình tăng trưởng.
- Thứ ba, thu nhập của người nghèo tăng sẽ kích thích tăng nhu cầu về hành hóa và dịch vụ sản xuât trong nươc, trong khi người giàu có xu hướng dành phần thu nhập tăng thêm của họ để mua hàng nhập khẩu xa xỉ nhiều hơn. Qua đó góp phần kích thích đầu tư, sản xuất và tạo việc làm trong nước, đồng thời tạo điều kiện cho người nghèo có cơ hội tham gia và hưởng lợi nhiều hơn từ thị trường kinh tế.
- Thứ tư, chênh lệch thu nhập lớn và nghèo đói tuyệt đối phổ biến có thể dẫn đến bất ổn về mặt xã hội và chính trị, và rốt cuộc là có hại cho tăng trưởng kinh tế.
Các chính sách tăng trưởng mà không tính khía cạnh phân phối thu nhập và phân phối cơ hội cũng như không gắn với xóa đói nghèo bền vững sẽ khó duy trì được tăng trưởng trong dài hạn. Một khi chú trọng tới chất lượng tăng trưởng thì khía cạnh phân phối và xóa đói nghèo không thể giải quyết chỉ bằng chính sách tái phân phối thu nhập trực tiếp.
Các biện pháp gián tiêp nhằm tạo cơ hội cho người nghèo có thể tham gia nhiều hơn vào quá trình tăng trưởng mới là cần thiết. Việc thực hiện các chính sách này đã và đang gặp khó khăn tại nhiều nước dẫn đến tình trạng người giàu được tiếp cận các nguồn lực dễ dàng hơn và hưởng lợi nhiều hơn so với người nghèo. Trong nhiều trường hợp, vấn đề chưa hẳn là tăng chi ngân sách mà là sự phân phối lại nguồn lực và cải thiện chất lượng hàng hóa và dịch vụ công sao cho có lợi cho nhóm người có thu nhập thấp.
Thực tế về mối quan hệ giữa đói nghèo ở khía cạnh phân phối và tăng trưởng đã làm cho vai trò của xã hội đối với quá trình tăng trưởng ngày càng trở nên quan trọng hơn
Hơn mười năm qua, Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, nhờ đó thu nhập của dân cư liên tục tăng song vẫn có sự khác biệt lớn về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư của hai khu vực thành thị và nông thôn là 6.95%trong giai đoạn 1996-2000 và 7.5% trong giai đoạn 2001-2005. Nhìn vào bảng số liệu dưới đây có thể thấy thu nhập của các hộ gia đình thành thị vẫn cao hơn nhiều ở nông thôn.
Đơn vị: 1000VND
Các vùng
1996
1999
2002
Cả nước
Thành thị.
Nông thôn.
Chênh lệch giữa thành thị và nông thôn( lần)
1. Thu nhập thấp nhất
2. Thu nhập cao nhất
Chênh lệch giữa hai nhóm thu nhập(lần)
226.7
509.4
187.9
2.71
519.58
74.33
6.99
295
516.7
225
2.30
741.6
97
7.65
365.2
622.0
275.1
2.26
877
104.7
8.14
Nguồn: Tổng cục Thống kê; Niên giám Thống kê năm 2003.
Theo điều tra của Tổng cục Thống kê, nếu chia các hộ điều tra thành mười nhóm thu nhập, mỗi nhóm 10% số hộ theo độ dốc đi lên của thu nhập bình quân trên người, thì thu nhập nhỏ nhất và thu nhập lớn nhất có khoảng cách lớn và tăng theo các năm. Năm 2000, thu nhập bình quân của nhóm người hộ nhất(nhóm 10) gấp 12 lần nhóm hộ nghèo nhất(nhóm 1). Năm 2002, tỷ lệ này tăng lên 13.75 lần.
Sự chênh lệch về thu nhập kéo theo một loạt những chênh lệch trong đời sống của người dân và chính điều đó đã làm gia tăng sự bất bình đẳng. Ở khu vực thành thị, chi tiêu cho giáo dục/năm/người là 1.255 triệu đồng, gấp 3 lần so với khu vực nông thôn chi cho giáo dục/năm/người của nhóm hộ nghèo nhất chỉ có 236000 đồng, trong khi nhóm hộ giàu nhất là 1.418 triệu đồng, cao gấp 6 lần. Năm 2002, về cơ cấu chi tiêu, chi tiêu cho ăn uống ở khu vực thành thị là 52%, khu vực nông thôn là 60%, của nhóm hộ giàu nhất là 50%, nhóm hộ nghèo nhất là 70%. Nhóm hộ giàu nhất có mức chi không phải ăn uống gấp 7.5 lần so với nhóm hộ nghèo nhất. Trong đó, chi về nhà ở, điện nước, vệ sinh gấp 19.4 lần, chi thiết bị và đồ dùng gia đình gấp 7.6 lần, chi y tế sức khỏe gấp 4 lần, chi đi lại và bưu điện gấp 15.8 lần, chi văn hóa, thể thao, giải trí gấp 95.4 lần.
4. Bất bình đẳng giới.
Giới là một thuật ngữ để chỉ vai trò xã hội, hành vi ứng xử xã hội và những kì vọng liên quan đến nam và nữ. Nó được coi là phạm trù xã hội có vai trò quyết định cơ hội cuộc sống của con người, xác đinh vai trò của họ trong xã hội và trong nền kinh tế.
Bất bình đẳng giới được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau và được đo bằng các chỉ tiêu khác nhau. Báo cáo phát triển con người của chương trình Liên Hiệp Quốc(DNDP) đã đưa ra hai chỉ số:
- Chỉ số phát triển giới(GDI): chỉ số này phản ánh những thành tựu trong các khía cạnh tương tự như HDI nhưng lại điều chỉnh các kết quả đó theo sự bất bình đẳng về giới.
+ Trong mỗi nước, nếu giá trị và thứ hạng của GDI càng gần với HDI thì sự khác biệt theo giới tính càng ít. Ví dụ ở Nauy và Singapore.
+ Nếu thứ hạng thứ hạng GDI thấp hơn thứ hạng HDI, cho thấy sự phân phối không bình đẳng về phát triển con người giữa nam và nữ. Ví dụ ở Lucxambua và Ảrập Xêut.
+ Ngược lại, nếu thứ hạng GDI cap hơn,, cho thấy một sự phân phối bình đẳng hơn về con người giữa nam và nữ.
- Thước đo vị thế giới( GEM): thước đo này tập trung xem xét cơ hội của người phụ nữ chứ không phải là khả năng của họ. Nó chỉ ra sự bất bình đẳng giới trên ba khía cạnh:
+ Thứ nhất, tham gia hoạt động chính trị và có quyền quyết định: được đo bằng tỷ lệ có ghế trong quốc hội của phụ nữ và nam giới.
+ Thứ hai, tham gia các hoạt động kinh tế và có quyền quyết định: được đo bằng tỷ lệ các vị trí lãnh đạo, quản lý và tỷ lệ các vị trí trong ngành kĩ thuật, chuyên gia do phụ nữ và nam giới đảm nhiệm.
+ Quyền đối với các nguồn lực kinh tế: được đo bằng thu nhập ước tính của phụ nữ và nam giới(ppp- USD).
Vì vậy, bất bình đẳng giới được coi là trung tâm, mục tiêu của phát triển, đồng thời cũng là một yếu tố để nâng cao khả năng tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo của một quốc gia.
5. Bất bình đẳng về sức khỏe
Tự bản thân sức khỏe đã là một khía cạnh quan trọng của phúc lợi, sức khỏe kém có thể ảnh hưởng trực tiếp đến cơ hội của cá nhân- khả năng kiếm thu nhập của họ, kết quả học tập, khả năng chăm sóc con cái, tham gia vào các hoạt động của cộng đồng… Chức năng quá trình của sức khỏe với tư cách là một phương tiện có nghĩa là bất bình đẳng về sức khỏe sẽ chuyển thành bất bình đẳng về các phương diện phúc lợi khác. Và sự bất bình đẳng này lại kéo dài qua thời gian. Ở đây, chúng tôi nhấn mạnh đến trẻ em, trong khi vẫn thừa nhận rằng sự khác biệt về địa vị xã hội, của cải và sức khỏe cũng có ý nghĩa quan trọng đối với người lớn. Chúng tôi cũng chủ yếu xem xét ở khía cạnh sự khác nhau về sức khỏe của trẻ em giữa các nhóm dân cư được phân biệt theo học vấn của mẹ, nơi cư tú là thành thị hay nông thôn, và địa vị kinh tế của cha mẹ, được phản ánh gián tiếp qua một số chỉ số về sở hữu các tài sản lâu bền của hộ gia đình.
Tình trạng tử vong ở trẻ sơ sinh. Ở Việt Nam, tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh là 34 ca trên 1.000 ca sinh, trong đó tỷ lệ này đối với những trẻ em có mẹ thất học là 14 trẻ trên 1.000 ca sinh, cao gấp hơn hai lần so với tỷ lệ của những trẻ em có mẹ có trình độ học vấn từ trung học trở lên là 6 trẻ trên 1.000 ca sinh.
Còi xương. Một khía cạnh khác của sức khỏe là tình trạng còi xương nặng( có chiều cao theo độ tuổi thấp hơn ba độ lệch chuẩn so với nhóm dân cư tham chiếu). Theo số liệu của bệnh viện Nhi Trung Ương, cứ 100 trẻ em Việt Nam dưới ba tuổi thì có khoảng 10 cháu bị còi xương. Các cuộc điều tra gần đây của nước ta cũng cho thấy: tỷ lệ trẻ em dưới năm tuổi bị còi xương vào khoảng 5-9% ở khu vực đồng bằng và 14% ở khu vực miền núi phía Bắc( theo số liệu thống kê tháng 8 năm 2007).Trẻ em rõ ràng không có sự lựa chọn khi quyết định xem chúng nên được sinh ra ở nông thôn hay thành phố, nhưng cơ hội để có sức khỏe tốt của chúng lại thấp hơn rõ rệt nếu chúng sinh trưởng ở nông thôn chứ không phải ở thành thị. Và cũng như tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh, tình trangk còi xương của trẻ em cũng khác biệt đáng kể tuỳ theo trình độ học vấn của mẹ chúng và địa vị kinh tế- xã hội của gia đình.
Tiếp cận dịch vụ tiêm chủng. Trẻ em sinh ra trong những gia đình mà tình trạng sở hữu tài sản đã đặt họ vào ngũ phân vị hàng đầu trong phân phối địa vị kinh tế( tức nhóm những người có mức thu nhập cao nhất trong xã hội) có xác suất tiếp cận dịch vụ y tế cao, ở đây được phản ánh qua biến thay thế là ít nhất được nhận một trong ba loại tiêm chủng sau đây dành cho trẻ em: phòng trực khuẩn Calmette- Gueriné; bạch hầu, ho gà và uốn ván; hoặc sởi. Ở những nước có tỷ lệ trẻ em nói chung không nhận được bất cứ loại tiêm chủng nào nói chung cao đến 40% thì xác suất này khá đồng đều. Trái lại ở những gia đình nằm ở ngũ phân vị thấp nhất thì trẻ em ít có cơ hội được tiếp cận những dịch vụ y tế cơ bản đó hơn nhiều. Ở Việt Nam có khoảng 3,636% trẻ em không được nhận dù chỉ một trong ba loại tiêm chủng trên thì tỷ lệ này ở trẻ em thuộc ngũ phân vị nghèo nhất là 4,545%, thuộc ngũ phân vị giàu nhất là 2,72% cao gấp 1,67lần.
Khuyết tật. Số liệu của nhiều nước cho thấy số người khuyết tật có nhiều khả năng là người nghèo. Ở Uganda, xác suất đói nghèo của cư dân thành thị sống trong các gia đình mà chủ hộ là người khuyết tật cao hơn 38% so với các hộ gia đình mà chủ hộ lành lặn. Chiến lược Xóa đói giảm nghèo của Xecbi cho biết 70% số người khuyết tật thất nghiệp. Theo Tổ chức Y tế thế giới, có 750 triệu trên thế giới bị tàn tật. 80% người tàn tật sống ở các nước đang phát triển. 10% dân số ở các nước nghèo là người tàn tật. Chỉ 2-3% số trẻ em tàn tật ở các nước nghèo được tới trường. Tàn tật dẫn đến đói nghèo: khi người tàn tật không được đến trường hoặc không có việc làm họ dường như là những người nghèo nhất của xã hội. Và những người khuyết tật không chỉ phải chịu sự “bất lợi về thu nhập”, điều đó có liên quan đến cơ hội có việc làm thấp và nhận được nhận thù lao thấp cho công sức của mình, mà còn có cả sự “bất lợi khi muón đổi đời” nữa. Nói như vậy có nghĩa là những người khuyết tật về thể chất cần có nhiều thu nhập hơn người lành lặn để có thể có mức sống tương đương. Theo kết quả khảo sát của Bộ Lao động thương binh xã hội năm 2005 thì phần lớn các hộ có người khuyết tật đều có mức sống thấp. Theo khảo sát thì 32,5% số hộ có người khuyết tật thuộc loại nghèo( chung cho cả nước là 22%), 58% số hộ có mức sống trung bình, 9% số hộ là khá và 0,5% là số hộ có mức sống trung bình. Hộ có càng nhiều khuyết tật thì mức sống càng giảm. Trong nhóm hộ có một người khuyết tật thì có đến 31% là thuộc diện hộ nghèo; trong nhóm hộ có ba người khuyết tật thì tỷ lệ hộ nghèo là hơn 63%.
Dịch vụ y tế có tác động lớn. Người nghèo có ít khả năng hơn nhiều so với người không nghèo trong việc tiếp cận các dịch vụ y tế có tác động lớn, chẳng hạn như việc được cán bộ y tế có chuyên môn đỡ đẻ, chăm sóc tiền sinh sản và nuôi trẻ hỗ trợ. Dựa vào số liệu điều tra hộ gia đình của 15 Châu Phi cho thấy: Trong khi hầu hết tất cả các hộ gia đình thành thị đều sống cách các trung tâm y tế không quá một giờ đi đường thì tỷ lệ này chỉ còn khoảng 50%.
6. Bất bình đẳng về giáo dục
Giáo dục có tầm quan trọng thiết yếu khi đánh giá sự bất bình đẳng về cơ hội. Nó cũng là yếu tố quan trọng quyết định mức thu nhập, sức khỏe của cá nhân( và con cái họ), và năng lực tương tác và giao tiếp với người khác. Vì thế sự bất bình đẳng trong giáo dục góp phần gây ra sự bất bình đẳng trong các phương diện khác của phúc lợi. Đặc biệt, kết quả kiểm tra ở trẻ nhỏ phản ánh rõ nét sự bất bình đẳng về cơ hội trong giáo dục, nhưng những số liệu như vậy lại không có sẵn ở nhiều nước đang phát triển.
Và việc đo lường sự bất bình đẳng về giáo dục không phải là dễ. Số liệu tổng điều tra và điều tra chọn mẫu nói chung có thể cho ta số liệu thông kê về số năm đi học chẳng hạn. Nhưng thông tin đó không phản ánh hết chất lượng của giáo dục và sự khác biệt của nó giữa các cá nhân.Việc so sánh số năm đi học từ nước này sang nước khác cũng rất khó vì số năm này có thể có ý nghĩa rất khác nhau giữa các nước. Vì vậy, chúng tôi chỉ xin đưa ra một vài chỉ số cơ bản về tỷ lệ phần trăm số chủ hộ thất học phân theo giới và nơi cư trú ở khu vực thành thị và khu vực nông thôn làm ví dụ. Theo số liệu Báo cáo phát triển thế giới năm 2006, ở Việt nam có 7% số chủ hộ thất học, trong đó ở khu vực thành thị gần như không có, mà tỷ lệ này tập trung hầu hết ở nông thôn. Trong số đó, số chủ hộ gia đình có chủ hộ là nữ chiếm 75%, số còn lại là chủ hộ gia đình là nam.
Năm 2006, ở khu vực thành thị chi tiêu cho giáo dục bình quân một người đi học một năm là 1,255 triệu đồng, gấp ba lần so với khu vực nông thôn. Chi tiêu cho giáo dục bình quân một người đi học trong năm của nhóm hộ nghèo nhất chỉ có 236 nghìn đồng, trong khi nhóm hộ giàu nhất là 1,418 triệu đồng, gấp 6 lần.
III. NGHÈO ĐÓI
1. Bản chất của nghèo
*Khái niệm :- Định nghĩa đơn giản thì Nghèo là sự bần cùng hóa về phúc lợi.
- Theo ESCAP : Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của địa phương.
- Theo quan niệm truyền thống : Nghèo được hiểu trước hết là sự thiếu thốn về vật chất, sống với mức thu nhập và tiêu dùng thấp, điển hình là tình trạng dinh dưỡng kém và điếu kiện sống thiếu thốn.
Tuy nhiên dễ nhận thấy rằng, trong hầu hết các tổng hợp, nghèo về con người hay sức khỏe kém và trình độ giáo dục thấp, cả hai đều là nguyên nhân hay kết quả của mức thu nhập thấp. Nghèo về con người và nghèo về thu nhập cũng thường kèm theo tình trạng nghèo về xã hội thể hiện ở tính dễ bị tổn thương trước những sự kiện bất lợi ( bệnh tật, khủng hoảng kinh tế…) , hoặc không có tiếng nói trong hầu hết các thể chế trong xã hội và sự bất lực trong việc cải thiện điều kiện sống của cá nhân.
Ngày nay, nghèo được chia ra làm hai loại cơ bản là nghèo lương thực thực phẩm và nghèo chung (nghèo tổng hợp )
*Các chỉ số đánh giá nghèo
Để đánh giá nghèo nói chung, người ta sử dụng các chỉ số :
Từ công thức chung:
Trong đó: M : số hộ dưới ngưỡng nghèo
N : tổng số hộ dân
Z : ngưỡng nghèo
Yi: thu nhập ( chi ) / người
: độ quan tâm bất bình đẳng
= 0 . Đây chính là chỉ số đếm đầu
Chỉ số mày phản ánh quy mô đói nghèo ( diện nghèo) của một quốc gia.
: Khoảng nghèo
Chỉ số này phản ánh tổng mức thiếu hụt của tất cả người nghèo trong nền kinh tế (chi phí tối thiểu để đưa tất cả những người nghèo lên mức sống ngang bằng ngưỡng nghèo).
: Bình phương khoảng nghèo
Chỉ số này phản ánh mức độ nghiêm trọng ( hay cường độ) của đói nghèo
Bảng số liệu về các chỉ số ở Việt Nam
Chỉ số (%)
1993
1998
2002
1.Chỉ số đếm đầu ( TCTK)
58
37
28,9
2.Khoảng nghèo
19
10
6,9
3.Bình phương khoảng nghèo
8
4
-
2. Nghèo khổ về thu nhập
Nước ta là một nước đang phát triển, việc phát triển và đánh giá nghèo khổ chủ yếu dựa trên tiêu chí thu nhập (hoặc chi tiêu). Phương pháp này cho phép so sánh tình trạng nghèo khổ giữa các nước, các vùng khác nhau theo thời gian. Nhưng ngày nay, phạm vi của sự nghèo khổ ngày càng mở rộng, việc đánh giá nghèo khổ không chỉ đơn thuần là đưa ra những con số mà còn phải phản ánh được cả ý nghĩa của nó. Chính vì vậy các nhà kinh tế đã chia nghèo khổ về thu nhập thành nghèo tương đối và nghèo tuyệt đối.
a. Nghèo khổ tuyệt đối
- Khái niệm: Nghèo khổ tuyệt đối biểu hiện một mức thu nhập tối thiểu cần thiết để đảm bảo những nhu cầu vật chất cơ bản” như lương thực, quần áo, nhà ở…”, để cho mỗi người có thể tiếp tục tồn tại.
- Tuy nhiên khi xem xét mức nghèo khổ theo khái niệm đó nảy sinh một số vấn đề sau:
+ Việc định mức này là một vấn đề chủ quan gây khó khăn cho việc so sánh giữa các nước.
+ Mức thu nhập tối thiểu cần thiết sẽ thay đổi theo tiêu chuẩn của mức sống xét theo thời gian và quốc gia.Vì vậy phương pháp được sử dụng là “giới hạn nghèo khổ”.
+ Phương pháp của WB: dựa vào ngưỡng nghèo(chuẩn nghèo). Năm 1985 WB đã thiết lập một chuẩn nghèo quốc tế là 2100 calo tương đương với mức thu nhập 1$/1người/1ngày theo sức mua tương đương ở những nước có thu nhập thấp và 14$/1 người/ 1 ngày với những nước có thu nhập cao. Theo tiêu chuẩn này, tỷ lệ người nghèo cùng cực trong tổng dân số thế giới (mức sống < 1$/1 ngày/1người) đã giảm từ 29% xuống còn 23% trong 3 năm 1990 đến 1993.
Đối với các nước có thu nhập trung bình, chuẩn nghèo quốc tế là 2$/1 người/1 ngày( theo PPP) gần hơn với mức tối thiểu thực tế. Trong 6 tỷ người đang sống trên trái đất vào cuối thế kỷ 20; gần 1/2 số dân, tức 2,8 tỷ người sống ở mức dưới 2$/ ngày và khoảng 1/5 số dân, tức 1,2 tỷ người sống dưới mức 1$.
+ Phương pháp của Việt Nam: có hai phương pháp của hia cơ quan khác nhau:
*Phương pháp của tổng cục thống kê: dựa cả vào thu nhập và chi tiêu bình quân đầu người, phương pháp này xác định 2 ngưỡng nghèo:
- Ngưỡng 1: số tiền cần thiết để mua được một số lương thực hàng ngày để đảm bảo mức độ dinh dưỡng.
- Ngưỡng 2: ngưỡng nghèo chung, bao gồm khoản chi cho cả hàng hoá phi lương thực.
*Phương pháp của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội: dựa trên thu nhập/ hộ gia đình: áp dụng dựa trên thu nhập 3 vùng:
Đơn vị: VNĐ
Vùng
Bình quân thu nhập/ người/ tháng
Vùng Hải đảo và vùng núi nông thôn
80.000
Vùng đồng bằng nông thôn
100.000
Vùng thành thị
150.000
Bắt đầu từ ngày 1/1/2006, Việt Nam sẽ áp dụng chuẩn nghèo, cao gấp 2 lần so với chuẩn cũ với các mức tương ứng là: 180.000 VNĐ, 220.000 VNĐ, 250.000 VNĐ; tỷ lệ hộ nghèo tăng từ 7% lên 22%. Cả nước sẽ có 4 triệu hộ nghèo. Dự kiến hết năm 2010, Việt Nam sẽ ra khỏi nước kém phát triển và hơn 22% số người nghèo theo tiêu chí mới sẽ giải quyết được vấn đề cơ bản.
b. Nghèo tương đối:
- Khái niệm: Nghèo tương đối được xét trong tương quan xã hội, phụ thuộc vào địa điểm dân cư sinh sống và phương thức tiêu thụ nơi đó, được biểu hiện những người sống dưới mức tiêu chuẩn có thể chấp nhận được trong những địa điểm và thời gian xác định, đây là những người cảm thấy bị tước đoạt những cái mà đại bộ phận dân chúng được hưởng.
- Chỉ tiêu này được xác định theo phương pháp thu nhập và tiêu dùng chung trong cả nước để phản ánh tình trạng một bộ phận dân cư sống dưới mức trung bình của cộng đồng, do vậy tiêu chí để xác định nghèo tương đối khác nhau ở các nước, trong các vùng của cùng một nước.
3. Nghèo tổng hợp
- Khái niệm: Nghèo tổng hợp nghèo khổ tổng hợp của con người biểu thị sự nghèo khổ đa chiều của con người, là thiệt thòi theo 3 khía cạnh cơ bản nhất của cuộc sống con người.
Đối với các nước đang phát triển, đó là sự thiệt thòi trên các khía cạnh:
- Thiệt thòi trên khía cạnh cuộc sống lâu dài và khoẻ mạnh được xác định bằng tỷ lệ người dự kiến không thọ quá 40 tuổi.
- Thiệt thòi về tri thức, tỷ lệ người lớn mù chữ.
- Thiệt thòi về đảm bảo kinh tế, xác định bởi tỷ lệ người không tiếp cận được các dịch vụ y tế, nước sạch, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng.
Nghèo tổng hợp được đánh giá bằng chỉ số nghèo khổ của con người (HPI).
Ở Việt Nam năm 1999, HPI là: 29.1% và xếp hạng theo HPI, nước ta đứng thứ 45/90 quốc gia được Liên hợp quốc nghiên cứu.
Bảng số liệu năm 2004 được thống kê 102 nước.
chỉ số nghèo tổng hợp
khả năng
không sống quá 40tuổi
tỷ lệ mù chữ ở người lớn
Người không có khả năng tiếp cận nguồn nước sạch
Trẻ em
thiếu cân so với tiêu chuẩn quy định
xếp hạng
33
99
52
54
109
tỷ lệ(%)
17.7
9.4
9.7
18
28
4. Đói và nghèo
Phân biệt đói và nghèo?
Đói là biểu hiện cùng cực nhất của nghèo khó.
Nguyên nhân chính dẫn đến nghèo đói chủ yếu là do thiếu đất canh tác, nước uống để nuôi sống dân số đang tăng lên và có vốn tài nguyên nhưng chịu ảnh hưởng mạnh của việc giá cả giảm mạnh trên thị trường thế giới.
Như vậy, đói triền miên không phải do thế giới không sản xuất đủ lương thực mà do sự phân phối quá bất bình đẳng giữa các nước cũng như trong nội bộ từng nước.
Ở các quốc gia trên thế giới thì nghèo thực chất vừa là nguyên nhân, vừa là hậu quả của nạn đói. Điều đó đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12145.doc