Đề tài Cơ sở pháp lý kiểm soát tập trung kinh tế trong pháp luật cạnh tranh - Kinh nghiệm thế giới và thực tiễn áp dụng cho Việt Nam

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU

CHƯƠNG I. VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TẬP TRUNG KINH TẾ.

1. Nguồn gốc hình thành tập trung kinh tế.

1.1. Trên thế giới.

1.2. Ở việt nam.

2. Khái niệm tập trung kinh tế.

3. Một số hình thức tập trung kinh tế.

4. Tác động của tập trung kinh tế.

5. Tính cấp thiết của tập trung kinh tế.

CHƯƠNG II. HÀNH LANG PHÁP LÝ VỀ KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ TẠI VIỆT NAM.

1. Quy định pháp lí về kiểm soát tập trung kinh tế

1.1. Khái niệm về tập trung kinh tế theo luật cạnh tranh và các và các văn bản pháp luật

có liên quan.

1.2. Các ngưỡng gây hạn chế cạnh tranh của tập trung kinh tế.

1.3. Thủ tục thông báo tập trung kinh tế

1.4. Chế tài

2. Cơ quan quản lí.

3. Đánh giá về môi trường pháp lí của hoạt động tập trung kinh tế tại Việt Nam

CHƯƠNG III. THỰC TRẠNG VỀ KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ TẠI VIỆT NAM.

1. Những vấn đề bất cập khi áp dụng các quy phạm pháp luật về

hiện tượng tập trung kinh tế.

1.1.Nhưng vấn đề pháp luật còn để trống.

1.2. Những trở ngại khi tiến hành tập trung kinh tế tại việt nam.

2. Nhóm biện pháp thực hiện.

3. Một vài vụ kiểm soát tập trung kinh tế điển hình.

CHƯƠNG IV: ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ

1. Môi trường pháp lý.

2. Đối với cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động tập trung kinh tế.

3. Đối với cộng đồng doanh nghiệp.

 

PHỤ LỤC 1. TỔNG QUAN HOẠT ĐỘNG MUA BÁN SÁP NHẬP DOANH

NGHIỆP TRÊN THẾ GIỚI TRONG NHỮNG NĂM QUA.

PHỤ LỤC 2. MẪU HỒ SƠ.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO.

 

 

 

 

docx64 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2574 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cơ sở pháp lý kiểm soát tập trung kinh tế trong pháp luật cạnh tranh - Kinh nghiệm thế giới và thực tiễn áp dụng cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uản lý cạnh tranh trả lời bằng văn bản khẳng định việc tập trung kinh tế không thuộc trường hợp bị cấm. - Quy định về thời hạn trả lời thông báo tập trung kinh tế: 45 ngày kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ, có thể gia hạn trong những trường hợp có nhiều tình tiết phức tạp theo quyết định của thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh. Việc gia hạn không quá 02 lần, mỗi lần không quá 30 ngày. - Trách nhiệm đảm bảo tính trung thực của hồ sơ: Các doanh nghiệp nộp hồ sơ chịu trách nhiệm này. - Mẫu hồ sơ, giấy tờ ban hành kèm Quyết định 17/QĐ-QLCT của Cục QLCT về việc ban hành một số mẫu giấy tờ theo quy định của Luật Cạnh tranh ban hành ngày 04/07/2006 (xem Phụ lục 1). Quy trình và thủ tục xem xét miễn trừ đối với các vụ việc tập trung kinh tế được minh họa như trong sơ đồ sau: 25  KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ Hình 2.2: Thủ tục xem xét miễn trừ Doanh nghiệp  Chưa Hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ đầy đủ  Các bên liên quan hợp lệ Cơ quan cạnh tranh Yêu cầu cung cấp thông Trả lời bằng văn bản Doanh nghiệp Đầy đủ hợp Hồ sơ hợp lệ đầy đủ lệ Cơ quan cạnh tranh Xin ý Bộ trưởng Bộ thương Quyết định miễn trừ Doanh nghiệp Bộ trưởng Bộ thương Thủ tướng Chính phủ Quyết định miễn trừ Doanh nghiệp kiến các cơ quan liên quan Thực hiện tập trung kinh tế(trường hợp không bị cấm) Nguồn: cục quản lý cạnh tranh. 26  KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ 1.4. Chế tài. Việc xử lý vi phạm pháp luật về tập trung kinh tế (tiến hành tập trung kinh tế trong những trường hợp bị cấm hoặc tập trung kinh tế mà không thông báo khi thuộc những trường hợp phải thông báo) được thực hiện theo quy trình tố tụng cạnh tranh, trong đó cơ quan quản lý cạnh tranh có chức năng điều tra vụ việc và Hội đồng cạnh tranh có thẩm quyền xử lý hành vi vi phạm bằng các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính theo các quy định của Luật Cạnh tranh và Nghị định 120/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30 tháng 09 năm 2005 về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh. Các biện pháp xử phạt bao gồm: phạt tiền tùy theo hành vi vi phạm và mức độ nghiêm trọng của hành vi. Theo đó, phạt tiền đến 5% tổng doanh thu trong năm tài chính trước khi tiến hành tập trung kinh tế đối với sáp nhập, hợp nhất, mua lại liên doanh bị cấm; phạt tiền từ 5% đến 10% tổng doanh thu trong năm tài chính trước khi tiến hành tập trung kinh tế đối với sáp nhập, mua lại bị cấm trong trường hợp có dấu hiệu chèn ép, buộc doanh nghiệp khác phải sáp nhập hoặc bán toàn bộ hoặc một phần tài sản; phạt tiền từ 5% đến 10% tổng doanh thu trong năm tài chính trước khi tiến hành tập trung kinh tế đối với hợp nhất, liên doanh bị cấm trong trường hợp làm tăng giá hàng hóa, dịch vụ trên thị trường liên quan một cách đáng kể; phạt tiền từ 1% đến 3% tổng doanh thu trong năm tài chính trước khi tiến hành tập trung kinh tế trong trường hợp không thực hiện nghĩa vụ thông báo theo quy định của Luật Cạnh tranh. Ngoài ra, doanh nghiệp có thể bị buộc thực hiện chia tách các doanh nghiệp đã sáp nhập, hợp nhất; bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; bị buộc phải bán tài sản đã mua… (Điều 25 đến điều 29 Nghị định 120/2005/NĐ-CP ngày 30 tháng 09 năm 2005 về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh). 2. Cơ quan quản lý. Theo pháp luật cạnh tranh và pháp luật doanh nghiệp, việc kiểm soát các hành vi nhập, hợp nhất, mua lại và liên doanh giữa các doanh nghiệp có sự tham gia của các cơ quan là: (i) Cơ quan quản lý cạnh tranh9 có chức năng: Kiểm soát quá trình tập trung kinh tế; 9  Cơ quan quản lý nhà nước về cạnh tranh là Cục Quản lý Canh tranh được thành lập theo Nghị Định 06/2006/NĐ- CP ngày 09/01/2006. 27  KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ Thẩm định hồ sơ thông báo, hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ tập trung kinh tế; Thụ lý, tổ chức điều tra vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh (gồm cả tập trung kinh tế) ; (ii) Hội đồng cạnh tranh10 xử lý các hành vi vi phạm pháp luật như thực hiện tập trung kinh tế trong trường hợp bị cấm, tập trung kinh tế mà không thực hiện việc thông báo; (iii) Cơ quan đăng ký kinh doanh (Bộ Kế hoạch Đầu tư và các Sở Kế hoạch - Đầu tư) thực hiện các thủ tục liên quan đến đăng ký kinh doanh trong các trường hợp sáp nhập, hợp nhất, mua lại, liên doanh. (iv) Các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành (Ngân hàng Nhà nước, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước,…) thực hiện chức năng thẩm định, cấp phép đối với các trường hợp tập trung kinh tế trong lĩnh vực chuyên ngành theo pháp luật. 3. Đánh giá về môi trương pháp lý của hoạt động tập trung kinh tế tại Việt Nam. Qua việc phân tích pháp luật cạnh tranh về tập trung kinh tế và các quy định có liên quan trong một số lĩnh vực pháp luật khác trên đây, có thể đưa ra một số đánh giá khái quát trên tinh thần pháp luật về tập trung kinh tế tại Việt Nam hiện nay về cơ bản đã hình thành với đầy đủ những nội dung cần thiết về quy định pháp lý, thể chế giám sát, kiểm soát tập trung kinh tế. Các quy định về các vấn đề này về cơ bản được xây dựng theo đúng truyền thống của pháp luật cạnh tranh hiện đại. Tuy nhiên, vì ra đời trong bối cảnh một nền kinh tế chuyển đổi, nên môi trường pháp lý về tập trung kinh tế vẫn còn một số điểm khiếm khuyết cần được bổ sung, hoàn thiện như sau: 10  Hội đồng Cạnh tranh được thành lập theo Nghị Định 05/2006?NĐ-CP ngày 09/01/2006. Ngày 12/06/2006 theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Thương mại, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 843/2006/QĐ-TTg bổ nhiệm các thành viên của Hội đồng Cạnh tranh. Chủ Tịch Hội đồng Cạnh tranh là ông Phan Thế Ruệ nguyên Thứ trưởng Bộ Thương mại; 2 phó Chủ Tịch là các ông Đình Trung Tụng Thứ trưởng Bộ Tư pháp và Trương Chí Trung Thứ Trưởng Bộ Tài chính cùng 8 vị Ủy viên Hội đồng. ngày 8/8/2008 Thủ tướng Chính phủ kí Quyết định số 1076/QĐ- TTg cử ông Lê Danh Vĩnh Thứ trưởng Bộ Công thương kiêm nhiệm chức Chủ Tịch Hội đồng Cạnh tranh thay cho ông Phan Thế Ruệ. 28  KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ Thứ nhất, Luật Cạnh tranh chưa đề cập đến việc kiểm soát đối với tập trung kinh tế theo chiều dọc, tập trung kinh tế hỗn hợp; trong các hình thức tập trung kinh tế vẫn chưa đề cập đến hình thức liên kết bằng cách có chung đội ngũ lãnh đạo, quản lý . Những dạng tập trung kinh tế này, có khả năng xảy ra trong tương lai cùng với sự đa dạng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trên thị trường, và vẫn có thể gây hạn chế cạnh tranh ở mức độ nhất định trong những điều kiện nhất định. Thứ hai, Ngoài các quy định có nội dung khái quát và mang tính nguyên tắc trong mục 3 chương II Luật Cạnh tranh, và tại Mục 5, Chương II - Nghị định số 116/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15 tháng 09 năm 2005 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh, hiện nay vẫn chưa có các hướng dẫn cụ thể. Luật Cạnh tranh vẫn chưa có quy định để trao quyền cho cơ quan quản lý cạnh tranh trong việc xây dựng nội dung thẩm tra trong thủ tục thông báo, thủ tục miễn trừ các trường hợp tập trung kinh tế và quy chế kiểm soát tập trung kinh tế. Nếu khung pháp lý này được hoàn thiện, doanh nghiệp có thể hình dung được phạm vi của quyền tự do kinh doanh liên quan đến hoạt động sáp nhập, hợp nhất, mua lại, góp vốn thành lập doanh nghiệp… mà họ muốn thực hiện. Thứ ba, về tổng thể pháp luật liên quan đến tập trung kinh tế bao gồm các quy định thuộc nhiều chế định pháp luật khác nhau, trong đó cơ bản là pháp luật về tổ chức lại doanh nghiệp, pháp luật về thực hiện quyền góp vốn, mua cổ phần, chuyển nhượng vốn góp…; pháp luật đầu tư, pháp luật chứng khoán… Trong các lĩnh vực này, bước đầu đã có sự quan tâm ở mức độ nhất định đến việc kiểm soát kinh tế bằng quy định dẫn chiếu đến các quy định của Luật Cạnh tranh. Tuy nhiên, vẫn chưa có quy định về cơ chế phối hợp giữa các thủ tục kiểm soát tập trung kinh tế với thủ tục quản lý nhà nước trong việc đăng ký kinh doanh, thủ tục đầu tư…., chưa có quy chế liên kết làm việc giữa cơ quan chịu trách nhiệm chính trong việc kiểm soát tập trung kinh tế là Cục QLCT với các cơ quan quản lý nhà nước trong các lĩnh vực nói trên. Mặc dù đã có sự liên kết về mặt pháp lý nhưng thiếu quy định về cơ chế phối hợp trong quá trình thực thi thì việc kiểm soát tập trung kinh tế trên thực tế là khó thực hiện. 29  KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ CHƯƠNG III. THỰC TRẠNG VỀ KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ TẠI VIỆT NAM. 1. Những vấn đề bất cập khi áp dụng các quy phạm pháp luật về hiện tượng tập trung kinh tế. Như đã phân tích ở chương II thì tại Việt Nam hiện nay, qui định của Nhà nước liên quan đến hoạt động tập trung kinh tế được đề cập đến trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau như Bộ Luật Dân sự; Luật Cạnh tranh 2004; Luật Doanh nghiệp 2005; Luật Chứng khoán 2006; Luật Đầu tư 2005,… Do chịu sự điều tiết của nhiều văn bản pháp luật khác nhau nên hoạt động tập trung kinh tế vẫn tồn tại những cách hiểu khác nhau như: - Luật Cạnh tranh 2004, hoạt động tập trung kinh tế được xem là hành vi tập trung kinh tế thuộc nhóm các hành vi hạn chế cạnh tranh; - Luật Doanh nghiệp 2005, hoạt động tập trung kinh tế được xem là hành vi “tổ chức lại doanh nghiệp”; Tuy nhiên các quy định trong các văn bản hiện hành không đối chọi nhau mà tạo ra cơ chế phối hợp để kiểm soát tập trung kinh tế, ví dụ sự phối hợp giữa pháp luật canh tranh và pháp Luật doanh nghiệp – theo đó pháp luật về doanh nghiệp sẽ thừa nhận quyền được tập trung kinh tế của nhà kinh doanh, quy định về thủ tục pháp lý để họ thực hiện các hoạt động sáp nhập, hợp nhất, mua lại và góp vốn để bảo đảm trật tự pháp lý trong kinh doanh,còn Pháp luật cạnh tranh kiểm soát các hiện tượng tập trung kinh tế có khả năng đe dọa đến trật tự cạnh tranh của thị trường bằng hai cơ chế, đó là: (1) Cấm đoán các trường hợp tập trung kinh tế làm tổn hại đến tình trạng cạnh tranh; (2) Kiểm soát các trường hợp có khả năng tổn hại đến cạnh tra. Nhưng chúng ta cũng không thể phủ nhận được những 30  KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ lỗ hổng còn đang tồn tại trên thực tiễn cũng như nhưng trở ngại do chúng tạo ra cho những người hoạt động trong lĩnh vực này. 1.1. Những vấn đề pháp luật còn để trống: Theo một số chuyên gia, hoạt động tập trung kinh tế tại Việt Nam trong thời gian gần đây bùng nổ rầm rộ và phát triển mạnh mẽ trên thị trường, nhưng hiệu quả mang lại không như mong muốn, bởi hệ thống pháp luật của chúng ta còn thiếu. Điều 94 và điều 95 BLDS 2005 quy định việc sáp nhập hợp nhất chỉ được tiến hành giữa các pháp nhân cùng loại, nhưng lại không đưa ra khái niệm pháp nhân cùng loại dẫn đến nhiều kho khăn cho người áp dụng. Như vậy muốn thực hiện tập trung kinh tế giữa các pháp nhân không cùng loại chỉ có hai cách là mua lại hoặc liên doanh, tuy nhiên hiện tại lại chưa có văn bản pháp luật nào hướng dẫn hoạt động tập trung kinh tế giữa các pháp nhân không cùng loại. Ngay cả trong Luật Cạnh tranh cũng không định nghĩa rõ ràng về hoạt động mua lại. Chính điều này sẽ gây ra nhiều tranh cãi khi xác định giữa việc mua cổ phần và việc mua lại tài sản của một doanh nghiệp. Bên cạnh đó việc pháp luật cạnh tranh chỉ kiểm soát và cấm đoán các hành vi tập trung theo chiều ngang cho thấy giới hạn điều chỉnh của pháp luật. Trong khi đó, các hiện tượng tập trung kinh tế theo chiều dọc hoặc tập trung hỗn hợp cũng đã được các nhà kinh tế học khuyến cáo về khả năng gây hại cho thị trường cạnh tranh.11 Luật Cạnh tranh hiện nay cấm những hoạt động sáp nhập và mua lại có thể dẫn tới việc một doanh nghiệp có mức “tập trung kinh tế” lớn hơn 50% “thị trường liên quan”. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là Luật Cạnh tranh và các văn bản dưới luật không có quy định rõ ràng về khái niệm “thị trường liên quan”. Và trong trường hợp một doanh nghiệp kinh 11  Trích kiểm soát tập trung kinh tế theo pháp luật cạnh tranh và vấn đề của Việt Nam - “Nguyễn Ngọc Sơn” - Nghiên cứu Lập pháp tháng 07/2006 . 31  KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ doanh nhiều mặt hàng (có nhiều thị trường khác nhau) thì tuỳ theo các cách tính khác nhau có thể dẫn tới kết quả là doanh nghiệp đó có thể bị coi là có “tập trung kinh tế” trên 50% hoặc có thể dưới.Ví dụ dưới đây là trong lĩnh vực ngân hàng có thể minh hoạ. Ngân hàng A sáp nhập với Ngân hàng B. Các ngân hàng đều có 3 loại dịch vụ chính: cho vay, mở thư tín dụng và bảo lãnh, và buôn bán ngoại hối. Ngân hàng A có thế mạnh về việc cho vay, trong khi đó ngân hàng B là ngân hàng yếu về mọi dịch vụ. Để xác định xem việc sáp nhập ngân hàng A với B có vi phạm quy định về cạnh tranh hay không thì có thể có hai cách tính. Cách tính 1: Tính thị phần của ngân hàng A+B bằng cách tính gộp tất cả các dịch vụ của 2 ngân hàng này lại và so sánh với tổng thị trường của các dịch vụ đó. Trong trường hợp như trên, mức tập trung kinh tế là 44% - không vi phạm quy định về cạnh tranh. Cách tính 2: Tính thị phần của ngân hàng A+B bằng cách tính riêng rẽ từng dịch vụ một thì ta sẽ thấy là đối với dịch vụ cho vay ngân hàng A+B sẽ có mức tập trung kinh tế là 56% thị phần của dịch vụ này – vi phạm quy định về cạnh tranh. 32  vay (VND tỷ) L/C và thư bảo lãnh (VND tỷ) Buôn bán ngoại hối (VND tỷ ) Thị trường tính gộp (VND tỷ) Tổng Ngân hàng A 20 1 2 23 Ngân hàng B 5 5 3 13 Ngân hàng khác 20 10 15 45 Thị phần của Ngân hàng A+B 56% 38% 25% 44% KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ Nếu như chúng ta không quy định rõ cách tính thị thị trường liên quan thì trong tương lai sẽ có những trường hợp áp dụng luật pháp không thống nhất xảy ra như trường hợp hai cách tính như trên. Các doanh nghiệp luôn lúng túng với những vấn đề như các hình thức giao dịch, thẩm định và điều tra, đàm phán và soạn thảo hợp đồng… 1.2. Những trở ngại khi tiến hành tập trung kinh tế tại việt nam. Với những phân tích trên chúng tôi đưa ra những trở ngại trên thực tế thường gặp khi tiến hành hoạt động tập trung kinh tế ·  Thiếu tính rõ rang trong luật sở hữu, bao gồm việc đưa ra các mức độ về quyền sở hữu cho nhà đầu tư nước nước ngoài theo cam kết với WTO. Pháp luật về quyền sở hữu quy định tại Hiến pháp và Bộ luật Dân sự đang có nhiều điểm bất cập và bất hợp lý. Hiến pháp năm 1992 quy định có 3 hình thức sở hữu: toàn dân, tập thể và tư nhân. Bộ luật Dân sự quy định các hình thức sở hữu: Nhà nước, tập thể, tư nhân, sở hữu chung, sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp. Những quy định này mang tính liệt kê, chung chung hiện không giải quyết được nhiều vấn đề cụ thể do thực tiễn đặt ra, và sẽ gây nhiều bất lợi cho chính Việt Nam khi thực thi Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ trong lĩnh vực này, cũng như khiến cho các nhà đầu tư khác e ngại. · · ·  Công ty nước ngoài không thể thành lập các công ty mẹ đầu tư tại Việt Nam. Các vấn đề xung quanh việc hoàn tất việc mua bán tài sản. Có những văn kiện mới chính thức về nguồn vốn, cơ cấu doanh nghiệp được pháp luật cho phép nhừng các cơ quan có thẩm quyền chưa quen với việc áp dụng. ·  Thiếu các thông tin có sẵn trên các phượng tiện thong tin đại chúng. 33  KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ Hiện nay, quy định về hoạt động tập trunh kinh tế của Việt Nam nằm rải rác trong BLDS, Luật doanh nghiệp và Luật Cạnh tranh,... Việc thiếu thông tin trong các quyết định tập trung kinh tế sẽ mang lại nhiều rủi ro cho chính doanh nghiệp. Ví dụ trong trường hợp của Việt Nam - thông tin tài chính thiếu minh bạch cũng như chất lượng thông tin thấp; khung khổ pháp lý chưa đầy đủ và chặt chẽ - tỷ lệ rủi ro được đánh giá là khá cao. Bên cạnh đó việc thiếu thông cũng làm Các doanh nghiệp luôn lúng túng với những vấn đề như các hình thức giao dịch, thẩm định và điều tra, đàm phán và soạn thảo hợp đồng… ·  Các vấn đề xung quanh việc sửa đổi giấy phép, các yêu cầu hành chính khác làm chậm tiến trình hoàn tất các giao dịch. Ngoài ra về thủ tục còn nhiều khâu của Việt Nam đã làm nhiều nhà đầu tư “ngán” mỗi khi có ý định tập trung kinh tế tại Việt Nam. Chẳng hạn, khi mua 10% hoặc 20% cổ phần của một doanh nghiệp, ở nước ngoài chỉ cần mất khoảng 1 đến 2 ngày thì thời gian đó tại Việt Nam ít nhất cũng phải mất vài tháng mới xong khâu thẩm tra, phê duyệt… Mặt khác pháp luật quy định kết quả của tập trung kinh tế tạo thị phần từ 30% trở lên phải thông báo với cơ quan quản lý. Tuy nhiên việc xác định được bao nhiêu phần trăm là điều rất khó mà doanh nghiệp và cả cơ quan quản lý cũng khó xác định được. 2. Nhóm biện pháp thực hiện Theo nhận định của một chuyên gia trong lĩnh vực tập trung kinh tế thì hoạt động tập trung kinh tế có yếu tố nước ngoài ngày càng tăng và tính chất ngày càng phức tạp. Do đó, khó tránh khỏi xu hướng tập trung kinh tế chỉ tập trung vào vài lĩnh vực nhằm thống lĩnh thị trường và hạn chế cạnh tranh của các doanh nghiệp khác => để kiểm soát cần có biện pháp phát hiện và ngăn ngừa kịp thời. Cục Quản lý cạnh tranh cũng thừa nhận, số vụ tập trung kinh tế được báo cáo đến Cục là rất ít so với thực tế. Điều này khiến cơ quan quản lý bị động trước những dấu hiệu vi phạm pháp luật trong quá trình tập trung kinh tế. Thực tế, ai cũng biết tập trung kinh tế là giải pháp tăng cường quy mô vốn, công nghệ và quản lý trong điều kiện bình thường của nền kinh tế. Tuy nhiên, trong bối cảnh khủng 34  KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay thì tập trung kinh tế theo nhận định của các chuyên gia nó sẽ gia tăng mạnh bởi nó là giải pháp phù hợp. Đồng thời, các văn bản pháp luật hiện cũng chưa có cơ chế phối hợp giữa cơ quan quản lý cạnh tranh với cơ quan hữu quan trong việc xử lý vụ việc tập trung kinh tế, vì vậy sẽ rất khó phối hợp kiểm soát khi tiến hành vụ việc cụ thể. Những lo ngại cho số phận của các doanh nghiệp nội địa trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế dường như lại sôi động khi các diễn biến của lộ trình Việt Nam gia nhập WTO phát triển theo chiều hướng thuận lợi. Những lo ngại xuất phát từ tình trạng hơn 90% doanh nghiệp nội địa có quy mô vừa và nhỏ. Điều đó phản ánh tình trạng manh mún trong đầu tư và năng lực cạnh tranh hạn chế của doanh nhgiệp trong nước. Cũng cần khẳng định rằng, trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nội địa, nhà nước chỉ đóng vai trò hỗ trợ, còn các doanh nghiệp phải chủ động, tích cực tìm cách nâng cao khả năng kinh doanh và cạnh tranh cho chính mình. Lịch sử phát triển của thị trường đã cho thấy, khi cạnh tranh diễn ra khốc liệt thì tất yếu nảy sinh nhu cầu liên kết hoặc tập trung các nguồn lực kinh tế từ các doanh nghiệp nhỏ và vừa hòng tìm kiếm cơ hội tồn tại, phát triển. Mặt khác, có một vài tập đoàn kinh tế đa quốc gia khi đầu tư vào Việt Nam đã thực hiện chiến lược phân khúc thị trường để chiếm lĩnh bằng các liên doanh theo vùng, miền. Sau khi khẳng định được vị trí, những tập đoàn này đã thực hiện hành vi sáp nhập hoặc hợp nhất để thành lập nên tập đoàn duy nhất trên thị trường. Những điều trên cho thấy nhu cầu và triển vọng sáng sủa của lĩnh vực pháp luật kiểm soát độc quyền trong thời gian tời trên thị trường Việt Nam.12 Mặt khác là loại pháp luật điều tiết thị trường, pháp luật cạnh tranh có mối liên hệ chặt chẽ với kinh tế và phải phù hợp với các chuẩn mực kinh tế. Do đó, khi thực thi pháp luật cạnh tranh, phân tích kinh tế là những thao tác rất quan trọng không thể thiếu. Vì vậy, các điều tra viên trong tố tụng cạnh tranh không chỉ phải biết kiến thức pháp luật và/hoặc quản trị doanh nghiệp thuần túy. Họ phải có khả năng nhìn thấu cả cấu trúc thị trường và phân tích được hệ quả tích cực và tiêu cực, so sánh chúng với nhau để tìm giải pháp có lợi 12  Trích Kiểm soát tập trung kinh tế theo pháp luật cạnh tranh và vấn đề của Việt Nam (Nguyễn Ngọc Sơn - Nghiên cứu Lập pháp tháng 07/2006). 35  KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ chung cho nền kinh tế, cho môi trường cạnh tranh mà không làm tổn hại đến lợi ích chính đáng của doanh nghiệp. Và pháp luật cạnh tranh là pháp luật lưỡng tính, bao gồm cả mảng luật công và luật tư. Vì vậy, các chế tài được áp dụng là cũng đa dạng ( dân sự, hành chính, kinh tế…). Theo đó, việc áp dụng các chế tài phạt của Cục quản lý cạnh tranh không chỉ đơn thuần là phạt hành chính theo nghĩa thông trường. Những thiết chế thực thi Luật Cạnh tranh đều cần có các yếu tố sau: (i) Phải được trao đầy đủ quyền hạn; (ii) Hoạt động phải đảm bảo tính tin cậy cao; (iii) Phải đảm bảo việc hoạt động và ra quyết định một cách độc lập; (iv) Phải đảm bảo tính minh bạch trong thực thi nhiệm vụ.13 3. Một số giao dịch M&A điển hình14 Bảng dưới đây tóm lược một số giao dịch M&A được công bố đáng chú ý trong những năm gần đây. Phần lớn các giao dịch lớn thường là do các công ty nước ngoài mua lại một phần hoặc toàn bộ một doanh nghiệp Việt Nam hoặc giữa các doanh nghiệp trong nước, tuy nhiên cũng có những trường hợp ngược lại khi công ty Việt Nam mua lại công ty nước ngoài. Các thương vụ thành công đáng kể nhất có thể kể đến là trường hợp Kinh Đô - một doanh nghiệp tư nhân lớn trong ngành sản xuất, chế biến thực phẩm, bánh kẹo đã mua lại bộ phận kinh doanh Kem Wall's của tập đoàn đa quốc gia Unilever và tận dụng tốt hệ thống phân phối sẵn có để phát triển. Ngoài ra, công ty này còn mua lại một phần hàng loạt các doanh nghiệp khác hoạt động trong những ngành liên quan như Công ty nước giải khát Sài Gòn và có kế hoạch tiến hành sáp nhập hai công ty Kinh Đô và Kinh Đô Miền Bắc. Một trường hợp tương tự là thương vụ ICA Pharmaceuticals Việt Nam mua lại thương hiệu Tobicom của hãng dược phẩm Hàn Quốc Ahn Gook Pharm. Hoạt động tập trung kinh tế tại Việt Nam cũng đã xuất hiện hình thức mua lại giữa các công ty 100% vốn nước ngoài (chẳng hạn, vụ Savills Vietnam mua lại toàn bộ Chesterton Petty trong lĩnh vực dịch vụ bất động sản). 13  Trích Khía cạnh pháp lý và cấu trúc thương vụ M&A ( Nguyễn Như Phát - TẠP CHÍ KHPL SỐ 4(41)/2007). 14  Chưa bao gồm các giao dịch thâu tóm cổ phiếu diễn ra trên thị trường chứng khoán 36  KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ Bảng 2.6: Một số giao dịch M&A điển hình 37  KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾSTT Thời điểm Bên mua Bên bán Tỷ lệ sở hữu/ Giá trị giao dịch 1 2003 Vinabico CTLD Kotobuki Việt Nam Không được công bố 2 2003 Kinh Đô Kem Wall’s ( Unilever) Không được công bố 3 2003 ICA Phannaceutical Tobicom ( Ahn Gook phann) Không được công bố 4 2005 Công ty CP kinh đô Công ty CP nước giải khát Sài Gòn 35.60% 5 2004 vinamilk Saigon Milk Sáp nhập và mua lại phần vốn góp liên doanh 6 2005 vinamilk Công ty sữa Bình Định Sáp nhập và mua lại phần vốn góp liên doanh 7 2006 CTCP Doanh nghiệp trẻ Đồng Nai Cheefield rama Không được công bố 8 2006 CTCP Giấy Hải Phòng Dệt Hải Phòng Không được công bố 9 2006 Công ty liên doanh nhà máy bia VN Bia Foster’s 105 triệu USD 10 2006 vinaland Khách sạn Hilton Hà Nội 70% 11 2006 Prudentical Công ty CP Giảng Võ 65% 12 2007 vinaland Omni Saison 52% ( 21 triệu USD) 13 2007 Daiichi mutual Life( Bảo Minh CMG 38 100% KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ 39  Nhật Bản) 14 2007 Đong Tâm Đá trang trí Vĩnh Cửu 20% 15 2007 CPR ( Nhật Bản) Sara 15% 16 2007 Anco Nhà máy sữa Nétle 100% 17 2007 Qantas ( australia) Pacific Arilines 30% CP ( 50 triệu USD) 18 2007 Đông Tâm CTCP Thiên Thanh 70,85% CP 19 2007 PVFC, ABC, Kinh Đô, SINCO eximbank 17,8% CP ( 248 triệu USD) 20 2007 Indochina Capital CTCP Địa ốc Hải Quân 20% CP ( 20 triệu USD) 21 2007 Indochina Capital Vietnam Holding CTCP Tư vấn, Thương mại và Dịch vụ Địa ốc Hoàng Quân- MEKONG 20% CP ( 12 triệu USD) 22 2007 Indochina Capital Vietnam Holding CTCP Vietnam 20% CP 23 2007 Sojitz ( nhật Bản) Interflour VietNam 20% CP ( 80 triệu USD) 24 2007 HSBC Isurance Holding Limited CTCP VietNam 10% 25 2007 Lotte confectionery Co Ltd Công CP Bánh kẹo Biên Hòa 330% 26 2007 Morgan Stanley international Công ty Tài chính Dầu 10% KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ Nguồn: cục quản lý cạnh tranh Một số giao dịch thâu tóm điển hình trên thị trường chứng khoán Đặc điểm đáng chú ý của các giao dịch thâu tóm cổ phiếu trên thị trường chứng khoán là: các giao dịch (mua) thường do các quỹ đầu tư hoặc các định chế tài chính nước ngoài tiến hành và với mục đích chủ yếu là đầu tư sinh lợi dựa trên sự biến động giá chứng khoán. Chỉ có 40  Holdings khí 27 2007 HSBC Techcombank 15%( 33,7 triệu USD) 28 2007 Prudential Vietnam Investment Fund Management, Temaseek Holding… vinasun 41% 29 2007 vinaCapital,Dragon Capital và Temasek Holding CTCp Đầu tư và Xây dựng Bình Chánh 18% Cp 30 2007 Prudential Vietnam Investment Fund Management CTCP Âu Lạc 15.60% 31 2007 Saint Gobain Vĩnh Tưởng 100% 32 2007 Sojitz (Nhật Bản) CT TM và Hương Thủy 25.01% 33 2007 IDJ Venture CTCP Tài Việt 20% 34 2007 CT Đường Quảng Ngãi Nhà Máy Đường Quảng Bình 100% 35 2007 Savills Việt Nam Chesterton petty Việt Nam 100% KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ một số không nhiều trường hợp thâu tóm cổ phiếu của một doanh nghiệp để tham gia điều hành, quản lý doanh nghiệp đó (như ANZ, Daiwa với SSI, Swiss Rein

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxco so phap ly tap trung kinh te.docx
  • pdfco so phap ly tap trung kinh te.pdf
Tài liệu liên quan