ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
B. NỘI DUNG
1.Sự cần thiết phải tiến hành CNH-HĐH.
1.1 Công nghiệp hoá là xu hướng mang tính quy luật của các nước đi từ nền sản xuất nhỏ đi lên một nền sản xuất lớn.
1.2 Tính tất yếu phải tiến hành đồng thời CNH-HĐH ở nước ta
1.3 Ý nghĩa lý luận của CNH-NĐH đất nước
1.4 Ý nghĩa thực tiễn của vấn đề CNH-HĐH đất nước.
1.5 Vai trò của công nghiệp hoá hiện đại hoá trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta
2 Nội dung yêu cầu và quá trình CNH-HĐH ở nước ta.
2.1 Khái niệm CNH-HĐH
2.2 Tác dụng của CNH-HĐH
2.3 Tác dụng của CNH-HĐH
2.4 Quan điểm mới về CNH – HĐH
2.5 Thực chất của vấn đề CNH-HĐH , những lựa chọn các ngành kinh tế
2.6 Thực trạng công nghiệp hoá ở Việt Nam . Những khó khăn thuận lợi khi nước ta tiến hành CNH-HĐH
2.6.1 Thực trạng của quá trình công nghiêp hoá hiện đại hoá nước ta trướcnăm 1986
2.6.2 Thực trạng quá trình CNH-HĐH ở nước ta từ năm 1986 đến nay
2.6.3 Con đương phát triển CNH – HĐH của nước ta từ năm 2000-2010
2.6.4 Thúc đẩy quá trình CNH-HĐH nông nghiệp
2.6.5 Phát triển công nghiệp dịch vụ nông thôn
2.7 Những khó khăn thuận lợi trong quá trình thực hiện CNH-HĐH ở nước ta
2.7.1 Những khó khăn trong quá trình thực hiện CNH-HĐH ở nước ta .
2.7.2 Những thuận lợi trong quá trình thực hiện CNH-HĐH ở nước ta .
3. Những định hướng và giải pháp cơ bản của quá trình CNH-HĐH ở Việt Nam
3.1 Tiến hành cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật công nghệ
3.2 CNH-HĐH gắn liền với vấn đề phân công lại lao động và chuyển dich cơ cấu kinh tế
3.3 Những giải pháp cơ bản để tiến hành CNH-HĐH ở nước ta hiện nay
3.3.1 Chiến lược con người
3.3.2 Phát triển vai trò liên kết kinh tế
3.3.3 Phát huy vai trò quản lý của Nhà Nước
3.3.4 Phát triển toàn diện công nghiệp , nông nghiệp và dịch vụ
3.3.5 Phân công lại lao động xã hội hợp lý.
3.3.6 Chiến lược bảo vệ môi trường.
C KẾT LUẬN
D DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
22 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1837 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Công nghiệp hoá hiện đại hoá và vai trò của nó đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
động sản xuất kinh doanh , dịch vụ và quản lý kinh tế- xã hội , từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ , phương tiện và các phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghệ và tiến bộ của khoa học công nghệ để tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
2.2 Tác dụng của CNH-HĐH
CNH là quá trình thực hiện mục tiêu xây dựng nền kinh tế XHCN . Là một quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội nhằm cải tiến một xã hội nông nghiệp thành một xã hội công nghiệp.
CNH là quá trình tạo ra những điều kiện vật chất cần thiết về con người và khoa học công nghệ , thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm huy động và sử dụng mọi nguồn lực tăng năng suất lao động làm cho nền kinh tế tăng trương nhanh , nâng cao đời sống vật chất , văn hoá tinh thần cho nhân dân , thực hiện công bằng xã hội , bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái .
Quá trình CNH tạo ra cơ sở vật chất để làm biến đổi về chất lực lượng sản xuất nhờ đó nâng cao vai trò con người tạo điều kiện xây dựng và phát triển nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc .
CNH làm cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển nhanh , góp phần tăng cường quyền lực , sức mạnh và hiệu quả của bộ máy quản lý kinh tế của Nhà Nước .
Quá trình CNH tạo điều kiện vật chất để xây dựng nền kinh tế độc lập , tự chủ , vững mạnh.
Sự nghiệp CNH đất nước thúc đẩy sự phân công lao động phát triển .
CNH tạo tiền đề vật chất để xây dựng , phát triển và hiện đại hoá nền quốc phòng an ninh.
Thành tựu CNH tạo điũukiện cho nền kinh tế phát triển một cách đồng bộ Kinh tế- Chính trị _ Văn hoá - Xã hội – An ninh – Quốc phòng.
Chính vì những tác dụng trên mà công nghiệp hoá luôn được coi là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kì quá độ lên CNXH .
2.3 Mục tiêu của CNH-HĐH
Từ nay đến năm 2020 ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản thành một nước công nghiệp .
Lực lượng sản xuất lúc đó sẽ đạt trình dộ tương đối hiện đại phần lớn lao đôngh thủ công được thay thế bằng lao dộng máy móc năng suất và hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn nhiều so với hiện nay.
Về quan hệ sản xuất chế độ sở hữu , cơ chế quản lý và chế độ phân phối gắn liền với nhau phát huy các nguồn lực tạo ra nguồn lực mạnh mẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế .
Về đời sống vật chất văn hoá , nhân dân có cuộc sống no đủ đảm bảo đầy đủ tinh thần và vật chất , quan hệ lối sông văn minh , gia đình hạnh phúc .
Mục tiêu của công nghiệp hoá , hiện đại hoá có ý nghĩa lớn lao , như vậy nó phải được thực hiện triệt để , sâu rộng trong toàn dân . Có nghĩa là phải tập trung mọi lực lường trong nhân dân ,khuyếnh khích phát triển nhiều thành phần kinh tế . Tại hội nghị lần thứ IV ban chấp hành trung ương cua Đảng VIII tổng bí thư Lê Khả Phiêu đã phát biểu “ Tiếp tục sự nghiệp đổi mới , đẩy mạnh CNH- HĐH dất nước , nắm vững lợi thế so sánh , dựa vào sức mạnh nội lực , phát huy cao độ nỗ lực của mọi người , mọi cấp mọi ngành, mọi thành phần kinh tế , nắm thời cơ , trong thủ nguồn vốn từ bên ngoài vượt khó khăn thách thức giữ vững ổn định và phát triển kinh tế xã hội , từng bước tạo điều kiện để cần thiết cho phát triển nhanh và bền vững khi có điều kiện .” .
Chúng ta đã có một bài học quan trọng mà Đảng rút ra sau nhiều năm đổi mới . Đó chính là “ phát huy mọi nguồn lực trong nhân dân , phát triển nhiều thành phần kinh tế nhưng trong đó kinh tế Nhà Nước giữ vai trò chủ đạo vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước .” .Trong nền kinh tế thị trường có rất nhiều ưu điểm tác động tích cực đến sự phát triển nhưng đồng thời nó cũng có những mặt tiêu cực như cạnh tranh thiếu lành mạnh , phân hoá giàu nghèo…Do đó Nhà nước phải nâng cao năng lực quản lý vĩ mô phát huy những mặt tich cực đi đôi với ngăn ngừa hạn chế khắc phục những mặt tiêu cực .
2.4 Quan điểm mới về CNH – HĐH
Đó chính là quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về CNH ở Việt Nam hiện nay . Nội dung quan điểm đó bao gồm :
Giữ vững độc lập dân tộc đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế , đa dạng đa phương quan hệ kinh tế đối ngoại . Dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những mặt hàng trong nước sản xuất có hiệu quả.
CNH- HĐH là sự nghiệp cảu toàn dân , mỗi thành phần kinh tế , trong đó kinh tế Nhà Bước giữ vai trò chủ đạo.
Phát huy nguôn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh bèn vững . Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước . Mặt khác, thực tiễn đổi mới kinh tế ở Việt Nam đã chỉ rõ sự nghiệp đổi mới là sự nghiệp của quần chúng, CNH-HĐH cũng là sự nghiệp của toàn dân, vì lợi ích của nhân dân và do dân thực hiện. Quần chúng nhân dân khi nhận thức đầy đủ lợi ích của CNH-HĐH họ sẽ phấn đấu vươn lên học tập để nâng cao trình độ văn hóa, kỷ luật, tay nghề để làm chủ được CNH, HĐH, họ sẽ là người đóng góp sức lao động, tài năng, sáng tạo, tiền vốn, tài sản của mình cho sự nghiệp CNH-HĐH.
Khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hoá. Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con người Việt Nam là nhân tố quyết định cho thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Lấy hiệu quả kinh tế – xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển lựa chọ dự án đầu tư và công nghệ.
Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lực sản xuất hiện có , dựa trên quy mô vừa và nhỏ , công nghệ tiên tiến , tạo nhiều việc làm thu hồi vốn nhanh .Đồng thời xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng trong những ngành trọng yếu mà nhu cầu đòi hỏi bức bách và có điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường, phát huy tác dụng nhanh và có hiệu quả cao.
Kết hợp chặt che kinh tế với quốcphòng anninh . Quá trình này đòi hỏi trong quá trình CNH-HĐH phải gắn hai nhiệm vụ chiến lược đó chính la xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong từng bước phát triển.
2.5 Thực chất của vấn đề CNH-HĐH , những lựa chọn các ngành kinh tế
Thực chất của nền công nghiệp hoá là sự phát triển công nghệ, là quá trình chuyển nền sản xuất xã hội công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ từ trình độ công nghệ thấp lên trình độ công nghệ hiện đại. Lực lượng lao động sẽ chuyển dịch thích ứng về cơ cấu ngành nghề, về trình độ tay nghề và học vấn. Công nghệ được biểu hiện trong 4 thành phần: thiết bị, con người, thông tin và tổ chức quản lý. Phát triển công nghệ theo nội dung trên là công nghiệp hoá về bản chất. Công nghệ đem lại khả năng cạnh tranh hàng hoá trên thị trường và duy trì sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững, ngày càng cao là cơ sở vật chất để ổn định xã hội..
Trong điều kiện ngày nay, quan niệm về CNH, HĐH dù trên góc độ nào cũng không đồng nhất quá trình phát triển công nghiệp.Mà là quá trình bao trùm tất cả các ngành, các lĩnh vực hoạt động của một nước. Đó là lẽ tất yếu vì nền kinh tế của mỗi nước là một hệ thống thông nhất, các ngành, các lĩnh vực hoạt động có quan hệ tương đối với nhau. Sự thay đổi ở các ngành kinh tế, lĩnh vực hoạt động này sẽ kéo theo hoặc sẽ đòi hỏi sự thay đổi thích ứng ở các ngành, các lĩnh vực hoạt động khác. Bởi vậy quá trình CNH-HĐH, cũng gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân và cơ cấu các ngành kinh tế. Trong sự chuyển dịch cơ cấu của quá trình CNH-HĐH vị trí của các ngành sẽ được thay đổi và các ngành có quan hệ ràng buộc với nhau.
. Sự lựa chọn ngành kinh tế đầu tiên là các ngành thuộc cơ sở hạ tầng bởi chúng ta không thể thực hiện được quá trình CNH – HĐH mà không có cơ sở vật chất cơ bản . Nói cách khác, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền sản xuất lớn hiện đại là quy luật chung, phổ biến đối với tất cả các nước trong hệ thống kinh tế "mở". Đây là một trong những nhiệm vụ to lớn, khó khăn nhất, nhưng có tính chất quyết định đối với sự sống còn của bất cứ xã hội nào, nước nào. Chỉ khi tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại như vậy mới có thể làm thay đổi căn bản đời sống vật chất và tinh thần của xã hội, đẩy mạnh tốc độ, tăng năng suất lao động và thỏa mãn ngày càng đa dạng các nhu cầu của nhân dân . ở nước ta hiện nay việc phát triển kinh tế đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục xây dựng cở sở hạ tầng hiện đại phù hợp với hoàn cảnh điều kiện đất nước nhất là những ngành mũi nhọn như ngành giao thông ,ngành điện, năng lượng…
. Tiếp theo đó là ngành công nghiệp khai thác và chế biến . Là một nước có điều kiện tự nhiên có thể nói là khá thuận lợi .Việc sử dụng tài nguyên đòi hỏi ngành công nghiệp khai thác phải phất huy năng lực ,hiện đại hoá trang thiết bị phối kết hợp các ngành chế biến tạo các cụm công nghiệp , các ngành công nghiệp có thể phát huy lợi thế cạnh tranh , chiếm lĩnh thị trường trong nước và dẩy mạnh xuất khẩu như : chế biến nông lâm thuỷ sản , may mặc , da giầy điện tử – tin hoc, một số sản phẩm cơ khí và hàng tiêu dùng . Xây dựng chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng như : khai thác dầu khí và công nghiệp chế biến , khai thác hai lâm sản và chế biến luyện kim hoá chất cơ bản , phân bón vật liệu xây dựng .
Cần kết hợp chặt chẽ các ngành công nghiệp khai thác với các ngành công nghiệp chế biến tậo thành một mạng lưới không ngừng đứt quãng .Đồng thời phát triển mạnh các ngành công nghiệp , công nghệ cao nhất .Phát triển rông khắp các cơ sở sản xuất công nghiệp nhỏ và vừa với ngành nghề đa dạng .
. Ngoài hai ngành kinh tế trên phải kể đến ngành dịch vụ .Phát triển thương mại hình thành các trung tâm thương mại ,các chợ nông thôn ,nhất là ở miền núi ,nâng cao chất lượng phục vụ vận tải hành khách hàng hóa ngày càng hiện đại và an toàn . Tiếp tục phát triển nhanhvà hiện đại hóa các dịch vụ bưu chính viễn thông , phổ cập sử dụng internet . Đặc biệt phát triển du lịch để đưa Việt Nam trở thành “ điểm đến trong thiên niên kỷ mới .”
2.6 Thực trạng công nghiệp hoá ở Việt Nam . Những khó khăn thuận lợi khi nước ta tiến hành CNH-HĐH
2.6.1 Thực trạng của quá trình công nghiêp hoá hiện đại hoá nước ta trướcnăm 1986
Đặc trưng cơ bản của giai đoạn này là thực hiện một chiến lược nhất quán được xác định từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (9/1960) và có điều chỉnh, bổ sung chút ít trong các Đại hội IV (12/1976); V (1981) và các hội nghị Trung ương. Đại hội Đảng lần thứ III chỉ rõ: "Muốn cải tiến tình trạng nông nghiệp lạc hậu hiện nay của nước ta, đưa nước ta chế độ sản xuất nhỏ là chủ yếu lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, chúng ta không có con đường nào khác ngoài con đường công nghiệp hóa XHCN. Vì vậy CNH XHCN là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ ở nước ta"(1) và (2) Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc Đảng lao động Việt Nam (9-1960)
(2).
Trong khoảng thời gian ngắn ngủi (1961-1964) CNH ở miền Bắc đã được tiến hành với nhịp điệu khẩn trương trong điều kiện hòa bình và thu được kết quả đáng ghi nhận. Năm 1965 so với 1955 vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong công nghiệp tăng 6 lần: Giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng 9,2 lần, trong khi đó đầu tư cơ bản cho nông nghiệp chỉ tăng 1,96 lần và giá trị tổng sản lượng nông nghiệp tăng 1,6 lần.
Trong thời kỳ 1961-1965. Tốc độ tăng bình quân giá trị tổng sản lượng công nghiệp là 13,4%, của nông nghiệp 4,1%. Do vậy tỷ trọng của công nghiệp trong thu nhập quốc dân tăng từ 16% (1957) lên 18,2% (1960) và 22,2% (1965); Còn tỷ trọng nông nghiệp giảm từ 44,3% (1957) xuống 42,3% (1960) và 41,7% (1965). Đến năm 1964 miền Bắc nước ta về căn bản giải quyết được vấn đề lương thực và đáp ứng được 90% nhu cầu hàng tiêu dùng đồng thời bắt đầu tạo nguồn tích lũy từ trong nước.
Ngay trong những năm có chiến tranh phá hoại do đế quốc Mỹ gây ra, vốn chi cho phát triển kinh tế vẫn tăng lên. So với thời kỳ 1955-1957 vốn chi cho phát triển kinh tế trong thời kỳ 1965-1968 tăng 5,7 lần. Mặc dù năm 1972 là năm đế quốc Mỹ đánh phá ác liệt nhât, vốn chi cho phát triển kinh tế vẫn gấp 2,4 lần so với 1960 và gấp 1,8 lần so với 1964.
Vốn đầu tư vào công nghiệp luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn đầu tư cho khu vực sản xuất vật chất nói riêng và cho nền kinh tế quốc dân nói chung: 37,4% (1958-1960); 44% (1961-1965); 32,4% (1966-1971); 32,9% (1972-1975). Trong đó phần đầu tư của Nhà nước cho công nghiệp địa phương quản lý tăng nhanh về tốc độ và nâng lên về tỷ trọng.
Nếu trong thời kỳ 1961-1965 tốc độ tăng bình quân hàng năm của tài sản cố định là 15,5% thì trong suốt thời kỳ chiến tranh phá hoại (1966-1970) tốc độ vẫn là 12,2%. Tài sản cố địnhh 1975 so với năm 1960: trong công nghiệp tăng 4,5 lần, trong nông nghiệp tăng 6,0 lần.
Đến năm 1975 cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch quan trọng, tỷ trọng công nghiệp trong thu nhập quốc dân được nâng lên 16% (1957); 18,2% (1960); 22,2% (1965); 26,6% (1971); 24% (1974); 28,7% (1975).
Cơ cấu công nghiệp đã có sự phát triển và chuyển dịch. Những cơ sở đầu tiên của các ngành công nghiệp nặng quan trọng đã được xây dựng và phát triển như: điện, than, cơ khí, luyện kim, hóa chất, vật liệu xây dựng... tốc độ phát triển của các ngành thuộc công nghiệp nhóm A nhanh hơn tốc độ phát triển chung của toàn ngành công nghiệp. Năm 1975 so với năm 1955 giá trị sản lượng ngành điện lực 22,3 lần, của ngành cơ khí gấp 59,8 lần và ngành hóa chất gấp 79,1 lần. Trên miền Bắc đã hình thành nhiều khu công nghiệp tập trung: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hà Bắc, Việt Trì, Thái Nguyên, Nam Định, Thanh Hóa, Vinh...
Năm 1975 đất nước thống nhất cho phép và đòi hỏi phải có chiến lược công nghiệp hóa thích hợp hơn. Nhưng do có chủ trương nôn nóng, chủ quan duy ý chí cộng với sai lầm trong tổ chức chỉ đạo, trong cơ chế và chính sách nên trong thời kỳ 1976-1980 nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái, khủng hoảng, cơ cấu kinh tế ngày càng trở nên bất hợp lý và mất cân đối nghiêm trọng, nông nghiệp yếu kém không đáp ứng yêu cầu trong nước, công nghiệp nặng đầu tư lớn nhưng không phát huy được tác dụng. Trước tình hình đó và từ hội nghị trung ương 6 (khóa IV) năm 1979 và tiếp đó là đại hội V, Đảng ta đã nhận thấy cần phải nhận thức đúng hơn vị trí của nông nghiệp và phải bố trí lại cơ cấu sản xuất và điều chỉnh cơ cấu đầu tư Đại hội Đảng lần thứ V (1981) đã xác định: "Nội dung chính của CNH XHCN trong 5 năm (1981-1985) và những 80 là tập trung sự phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn XHCN, ra sức đẩy mạnh hàng tiêu dùng, tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng"(1) Văn kiện Đại hội V của Đảng
2.6.2 Thực trạng quá trình CNH-HĐH ở nước ta từ năm 1986 đến nay
Đây là giai đoạn có sự đổi mới toàn diện và đồng bộ cả về nhận thức, quan điểm và về tổ chức chỉ đạo thực hiện. Đại hội lần thứ VI đã xác định rõ những quan điểm, chủ trương, phương hướng đổi mới kinh tế - xã hội ở nước ta trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên CNCH. Đại hội chỉ rõ: "Tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN trong chặng đường tiếp theo"(1) (2) Văn kiện Đại hội VI của Đảng
(2). Thực hiện 3 chương trình mục tiêu thực chất đó cũng là chuyển hướng chiến lược công nghiệp hóa từ ưu tiên phát triển công nghiệp năng sang lấy nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu làm trọng tâm.
Từ những quan điểm và chủ trương đổi mới trên, Đảng và Nhà nước đã cụ thể hóa bằng cơ chế và thành các chính sách, biện pháp thực hiện, đáng kể nhất đó là: Chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, chính sách kinh tế đối ngoại và thu hút vốn đầu tư nước ngoài, chính sách tài chính - tiền tệ kiềm chế lạm phát, chuyển cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Vì vậy trong thời kỳ 1986-1990 tốc độ tăng bình quân hàng năm của tổng sản phẩm xã hội: 4,8%: thu nhập quốc dân: 3,9%, giá trị tổng sản lượng công nghiệp: 5,2%, giá trị tổng sản lượng nông nghiệp: 3,5%; giá trị xuất khẩu: 28%; cơ cấu công nghiệp, nông nghiệp trong thu nhập quốc dân sản xuất đã có sự điều chỉnh: Công nghiệp: 30% (1985); 23% (1990); còn nông nghiệp 47,3% (1985); 46,6% (1990).
Tiếp tục những quan điểm, chủ trương, chính sách đổi mới, đại hội Đảng lần thứ VII (6/1991) đã xác định rõ mục tiêu, phương hướng nội dung của phát triển kinh tế - xã hội và của công nghiệp hóa. Đại hội đã chỉ rõ: "Để thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh theo con đường XHCN, điều quan trọng nhất là phải cải tiến căn bản tình trạng kinh tế - xã hội kém phát triển... phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH. Không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân"(1) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
(2) Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế đến năm 2000
Trong những năm đầu của quá trình đổi mới của CNH đã mang sắc thái mới, đã có sự điều chỉnh mục tiêu, nội dung và bước đầu đồng bộ hóa, cụ thể hóa bằng cơ chế và chính sách. Do vậy CNH đã được tiến hành phù hợp hơn với hoàn cảnh quốc tế và điều kiện, khả năng trong nước, các tiềm tàng, nguồn lực của đất nước bước đầu được khơi dậy, kinh tế phát triển thực chất hơn. Mặc dù vậy Tuy nhiên Quá trình CNH XHCN ở nước ta hơn 30 năm qua còn nhiều tồn tại, nhược điểm. Những tồn tại chủ yếu là:
Quá trình CNH diễn ra quá chậm
Phân công lao động xã hội phát triển chậm chạp. Cơ cấu kinh tế thiếu năng động, hiệu quả thấp, chứa đựng nhiều bất hợp lý, nhiều mặt mất cân đối nghiêm trọng. Chưa kết hợp tốt cơ cấu ngành với cơ cấu thành phần và cơ cấu thành phần và cơ cấu lãnh thổ trong một trạng thái đồng bộ năng động có hiệu quả để thực hiện tốt nhất mục tiêu chung của phát triển kinh tế - xã hội.
Trình độ trang bị kỹ thuật công nghệ thấp kém, mất cân đối, đổi mới chậm.
Sự nghiệp CNH phải đương đầu với nhiều khó khăn do sai lầm trước đây để lại và do thách thức mới đưa tới. Đó là: tỷ lệ thất nghiệp còn cao, đời sống thấp, tỷ lệ tích lũy và đầu tư thấp, sản xuất kinh doanh đang gặp khó hăn về vốn và thị trường.
2.6.3 Con đương phát triển CNH – HĐH của nước ta từ năm 2000-2010
Kiên trì mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xẫ hôi chủ nghĩa . Trong thời kì CNH-HĐH khó khăn càng chồng chất khi quan hệ hợp tác kinh tế với các đối tác quốc tế có trình độ phát triển cao hơn rất nhiều. Tiềm lực khoa học công nghệ kém , lẽ đương nhiên sẽ gặp nhiều khó khăn , rủi ro hơn trong việc thực hiện các hợp đồng chuyển giao công nghệ cũng như các dự án góp vốn đầu tư hoăch nhập khẩu thiết bị toàn bộ. Chính vì vậy, nếu không có khu vực kinh tế Nhà Nước đủ mạnh thì Nhà Nước không thể nào hỗ trợ các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác trong cuộc hợp tác cạnh tranh với các với các đối tác nước ngoài .
Để vươn lên nhằm thoát khỏi tình trạng của một nước kém phát triển bằng CNH-HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế là hướng đi đúng của nước ta và không còn con đường nào khác _ Và cuộc đấu tranh bảo vệ sự lựa chọn con đường phát triển kinh tế và thực hiện những năm qua càng cho thấy nhất thiết không thể thiếu vai trò của kinh tế Nhà Nước . Điều đó thể hiện rõ trong hội nhập kinh tế quốc tế .
2.6.4 Thúc đẩy quá trình CNH-HĐH nông nghiệp
Bước vào thời kì CNH-HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế nông dân , nông thôn , nông nghiệp ta đang đối diện với thách thức nghiệp ngã nền nông nghiệp nước ta cơ bản vẫn là sản xuất nhỏ chuă phát triển , tý suất hàng hoá, kĩ thuật sản xuất, sức cạnh tranh và thương hiệu hàng hóa còn thấp hơn nhiều nước trong khu vực và trên thế giới.
CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh , dịch vụ và quản lý kinh tế xẫ hội . CNH-HĐH nông thôn phải là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá gắn với thị trường thực hiện cơ khí hoá điửn khí hoá, thuỷ lợi hoá , ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ trước hết là công nghệ sinh học vào sản xuất nhằm đạ năng suát chất lượng hiệu quả kinh tế cao . Phải đẩy nhanh quá trình chuyển dich cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng mạnh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ giảm dần tỷ trọng sản phẩm lao động nông nghiệp.
2.6.5 Phát triển công nghiệp dịch vụ nông thôn
Việt Nam là nước có mật đọ dân số cao lại phân bố không đồng đều. Hiện nay đang xuất hiện tình trạng dư thừa lao động ơ khắp khu vực nông thôn. Quá trình CNH-HĐH nông nghiệp lại làm tăng thêm sức ép về việc làm . Phát triển công nghiệp dịch vụ của đất nước, trước hết là công nghiệp dịch vụ nông thôn nhằm tạo ra thị trường thu hút số lao động dư thừa được giải phóng khỏi nông nghiệp , góp phần giải quyết vấn đề việc làm trong quá trinh CNH-HĐH nông nghiệp . Mặt khác công nghiệp dịch vụ nông nghiệp còn làm tăng nhanh thu nhập cho nhân dân nong thôn .
Bởi vậy phát triển công nghiệp dịch vụ nông thôn là giải pháp cơ bản của nền nông nghiệp HĐH , là hoạt động chủ yếu và lâu dài để tạo việc làm tăng thu nhập cho nông dân từng bước công nghiệp hoá , đô thị hoá nông thôn . Rút ngắn khoảng cách về mức sống giữa nông thôn và thành thị trong quá trình CNH-HĐH đất nước .
2.7 Những khó khăn thuận lợi trong quá trình thực hiện CNH-HĐH ở nước ta .
2.7.1 Những khó khăn trong quá trình thực hiện CNH-HĐH ở nước ta .
Trước hết hiện nay nước ta vẫn là một trong những nước nghèo nhất trên thế giới, trình độ phát triển kinh tế, năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, cơ sở vật chất kĩ thuật còn nhiều mặt lạc hậu, nhu cầu vốn đầu tư phát triển rất lớn và cấp bách nhưng một bộ phận cán bộ và nhân dân còn tiêu xài lãng phí, tiêu dùng quá mức mình làm ra, chưa tiết kiệm để dồn vốn cho phát triển. Nhà nước còn thiếu chính sách để huy động vốn có hiệu quả nguồn vốn trong nhân dân.Hơn nữa nước ta có xuất phát điểm thấp, là một nước nông nghiệp có trình độ thấp kém, hậu quả của chiến tranh và những thói quen còn tồn tại ở chế độ quan liêu, bao cấp, kế hoạch hoá tập chung. Cơ chế thị trường ở nước ta còn sơ khai, vai trò quản lí nhà nước đối với nền kinh tế xã hội còn yếu. Hệ thống quản lý kinh tế còn đang trong quá trình chuyển đổi luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đồng bộ, nhất quán để thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tài chính, ngân hàng, giá cả, các công tác kế hoạch hoá, quy hoạch xây dựng quản lý đất đai, thủ tục hành chính ... còn chưa thay đổi, đổi mới còn chậm. Trong xã hội nạn tham nhũng, buôn lậu, lãng phí ... vẫn nghiêm trọng kéo dài. Chúng ta không sử dụng nguồn vốn trong nước cũng như nước ngoài một cách hợp lý, triệt để và tiết kiệm. Ngoài ra, nguồn nhân lực nước ta tuy dồi dào nhưng trình độ còn thấp, chủ yếu là lao động thủ công, tầng lớp trí thức, phó tiến sĩ, tiến sĩ, giáo sư, phó giáo sư có tuổi đời bình quân cao mà tầng lớp thừa kế, trẻ tuổi, năng động còn ít.
2.7.2 Những thuận lợi trong quá trình thực hiện CNH-HĐH ở nước ta .
Sau thời kì chiến tranh lạnh, ngày nay thế giới đang ở vào xu thế hoà hoãn. Hoà bình hợp tác hữu nghị là những điều kiện để chúng ta hợp tác với nước ngoài một cách bình đẳng. Có điều kiện để tiếp cận với những khoa học hiện đại của cả những nươc tư bản củ nghĩa tạo tiền đề cho công nghiệp hoá.
Công cuộc đổi mới đang diễn ra ở nước ta sau 12 năm đã đạt được những thành tựu to lớn, tạo tiền đề cần thiết cho phát triển kinh tế xã hội. Lạm phát ở những năm 1986 - 1989 là 3 con số, bội chi ngân sách lớn 1987 là 5,5% GDP và 1988 là 8,3% GDP; năm 1988 so với năm 1989 thu nhập quốc dân tăng 2,7% nông nghiệp giảm 2,3%. Cho đến những năm gần đây lạm phát giảm xuống còn 2 con số, thiếu hụt ngân sách giảm từ 6,5% GDP xuống 4% và 1,2% (1991), cán cân thương mại chuyển từ thiếu tình tràng hụt trên 9% GDP vào giữa những năm 80 sang mức thặng dư khoảng 2% GDP (1991) GDP thực tế tăng 7% (1989), 4,5% (1990), 4% (1991), 8,2% (1992). Đặc biệt nền kinh tế Việt Nam có dịp tăng tổng sản phẩm trong nước năm 1996 (GDP) là 9,3%, sản lượng lương thực 29,14 triệu tấn, xuất khẩu 3 triệu tấn gạo (là nước xuất khẩu gạo lớn thứ 3 trên thế giới), chỉ só lạm phát chỉ còn 4,5% và bội chi ngân sách chiếm 3,2% GDP.
Hơn nữa nước ta còn có một thuận lợi lớn là có nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng, có đủ 60 loại khoáng sản chủ yếu, có hơn 2000 km đường bờ biển, truyền thống cần cù chăm chỉ của dân tộc, học hỏi nhanh. Đồng thời nước ta có lợi thế là được áp dụng những khoa học, công nghệ tiên tiến nhất đã đang được sử dụng trên thế giới. Một thuận lợi nữa là ta có một nước có nền chính trị ổn định, dân tộc đoàn kết, có chính sách hợp lý, sẵn sàng hợp tác trên cơ sở bình đẳng, đôi bên cùng có lợi với mọi nước trên thế giới.
Từ những khso khăn thuận lợi trên chúng ta cần phải đề ra những định hướng và giải pháp cơ bản để thực hiện CNH-HĐH đất nước.
3.Những định hướng và giải pháp cơ bản của quá trình CNH-HĐH ở Việt Nam
3.1 Tiến hành cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật công nghệ
Đất nước đang tiến hành công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đát nước theo định hướng XHCN, có sự quản lý của nhà nước. Muốn vậy thị trường công nghệ cũng phải đáp ứng được đòi hỏi để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá.Đảng và Nhà nước ta luôn đánh giá cao vị trí và vai trò của khoa học công nghệ đối với sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước . Vì nếu lạc hậu về thế hệ công nghệ sẽ khó có thể
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35811.doc