Về cơ cấu thành phần kinh tế : Lấy việc giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trên cơ sở chủ động đổi mới về tổ chức và hiệu quả quản lý tạo điều kiện thuận lợi về kinh tế và pháp lý để các chủ doanh nghiệp tư nhân yên tâm đầu tư chuyển dịch cơ cáu kinh tế. Mở rộng các hình thức liên doanh liên kết, áp dụng rộng rãi các hình thức kinh tế tư bản nhà nước.
19 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1759 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa: Vai trò của nó đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa ở nước ta, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
điều kiện lịch sử kinh tế xh khác nhau. Với hầu hết các nước phát triển hiện nay công nghiệp hoá là một trong những chính sách chủ yếu và là một thách thức lớn. Tuy nhiên, chính sách công nghiệp hoá trong giai đoạn hiên nay có nhiều khác biệt lớn so với các nước công nghiệp hoá giai đoạn trước đây . Chính điều này đã làm cho chính sách ở các nước, ở các thời kỳ thêm đa dạng.
Kết hợp quan niệm truyền thống với quan niệm hiện đại và vận dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, hội nghị lần thứ VII ban chấp hành TW Đảng khoá VII đã đưa ra quan niệm mới về công nghiệp hoá hiện đại hoá và đây cungx chính là quan niệm được sử dụng một cách phổ biến ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Theo tư tưởng này, công nghiệp hoá hiện đại hoá là qúa trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao
1.2. Vai trò và những mục tiêu nhiệm vụ của công nghiệp hoá hiện đại hoá
* Vai trò của công nghiệp hoá
Một là phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, khắc phục nghuy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn về kinh tế giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới, góp phần ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân.
Hai là, củng cố và tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước, nâng cao năng lực tích luỹ, tạo công ăn việc làm khuyến khích sự phát triển tự do và toàn diện của mỗi cá nhân.
Ba là, tạo điều kiện vật chất cho việc tăng cường củng cố an ninh quốc phòng.
Bốn là, tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đủ sức tham gia một cách có hiệu quả vào sự phân công và hợp tác quốc tế.
Mục tiêu nhiệm vụ của công nghiệp hoá hiện đại hoá:
Do vị trí và tầm quan trọng của các tác dụng nói trên của công nghiệp hoá và hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân, nên qua tất cả các kỳ đại hội Đảng ta luôn luôn xác định công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm trong suốt quá trình quá độ lên CNXH ở nước ta. Đại hội lần thứ VIII của Đảng cộng sản Việt Nam lại một lần nữa xác định mục tiêu của công nghiệp hoá hiện đại hoá là: “xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiên đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sóng vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp”.
1.3.Cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH
Lịch sử phát triển của sản xuất xã hội đã chứng minh: mỗi phương thức sản xuất của xã hội chỉ có thể xác lập một cách vững chắc trên cơ sở vật chất kỹ thuật thích ứng, và chính cơ sở này là một trong những nhân tố quan trọng nhất xác định phương thức sản xuất đó thuộc loại hình xã hội- lịch sử nào và thuộc thời đại kinh tế nào.
Cơ sở vật chất kỹ thuật của một phương thức sản xuất của xã hội là tổng thể hữu cơ các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất đạt được trong những điều kiện lịch sử nhất định của sự tiến bộ khoa học – kỹ thuật, dựa trên đó lực lượng lao động của xã hội ấy sản xuất ra của cải vật chất để thoả mãn nhu cầu vật chất của xã hội.
Do trong lịch sử xã hội đã hình thành và tồn tại những mối liên hệ tất yếu, nên phương thức sản xuất ra đời sau bao giờ cũng kế thừa những yếu tố của cơ sở vật chất – kỹ thuật của phương thức sản xuất trước đó, trên cơ sở đó cải tạo và phát triển thành cơ sở vật chất – kỹ thuật của bản thân mình
Phương thức sản xuất TBCN tuy xuất hiện từ đầu thế kỷ thứ XVI , nhưng nó chỉ trở thành phương thức sản xuất thống trị khi đã tạo ra được nền đại công nghiệp cơ khí ra đời từ cuộc cách mạng công nghiệp và quá trình công nghiệp hoá TBCN thế kỷ XVIII – IXX. Tiếp sau đó nó được hiện đại hoá ngày càng cao trên cơ sở của những thành tựu của tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhất là những thành tựu mới của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại.
Chính sự phát triển của nền đại công nghiệp cơ khí với sản xuất ngày càng xã hội hoá đã tự phát tạo ra tiền đề vật chất khách quan cho sự ra đời của phương thức sản xuất mới: phương thức sản xuất cộng sản chủ nghiã mà giai đoạn đầu của nó là CNXH. tính tất yếu đó đã được chứng minh trong sự phát triển của lịch sử xã hội: Nước Nga XHCN xuất hiện từ cách mạng tháng 10 năm 1917 mở đầu một thời đại mới; thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH. Như vậy, do mối liên hệ tất yếu của lịch sử, cơ sở vật chất – kỹ thuật của XHCN – giai đoạn đầu của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa phải là nền đại công nghiệp cơ khí hiên đại.
Các Mác và Ph.Ăng – ghen, Lênin đã nói nhiều về vấn đề nền đại công nghiệp cơ khí hiện đại là cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH.
Tại đại hội III quốc tế cộng sản năm 1921 Lênin đã chỉ rõ: “cơ sở vật chất duy nhất của CNXH chỉ có thể là nền đại công nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả nông nghiệp nhưng không tghể đóng khung ở nguyên lý chung đó. cần phải cụ thể hoá nguyên lý đó. Một nền đại công nghiệp ở vào trình độ kỹ thuật hiện đại và có khả năng cải tạo cả nông nghiệp, đó là diện khí hoá cả nước”. Lênin còn nói “Một lần nữa tôi phải nhấn mạnh rằng cơ sở kinh tế duy nhất có thể có được của CNXH là nền đại công nghiệp cơ khí. ai quên điều đó người đó không phải là người cộng sản. Chúng tôi phải đặt vấn đề một cách thực tiễn đại công nghiệp hiện đại là thế nào?Đại công nghiệp hiện đại có nghĩa là điện khí hoá toàn nước Nga”.
Tóm lại, cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH là nền đại công nghiệp cơ khí hiện đại có khả năng cải tạo nông nghiệp. luận điểm trên của chủ nghĩa mác Lênin cần phải được vận dụng môt cách thích hợp với đặc điểm của thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật và đặc điểm cụ thể của mỗi nước.
Ngày nay trong điều kiện của cách mạng khoa học công nghệ hiện đại với 5 nội dung: tự động hoá đồng bộ, năng lượng nguyên tử, vật liệu mới, công nghệ sinh học, điện tử – tin học. Vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa mác – Lênin cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ của Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định: xã hội – XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
Do đó, cho phép chúng ta hiểu rằng cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH ở nước ta, phải là nền đại công nghiệp cơ khí ứng dụng những thành tựu mới nhất của cuộc cách mạng khoa học công nghệ vào mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội.
2. Hoàn cảnh nước ta và yêu cầu khách quan của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá
Thời đại ngày nay là thời đại quá độ lên CNXH trên toàn thế giới, ở nước ta khi đất nước hoà bình thống nhất cả nước đi lên CNXH “Đây là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn của Đảng và nhân dân ta”. Nước ta quá độ đi lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu điều dó cũng có nghĩa là nước ta bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. nhưng người ta chỉ bỏ việc xác lập phương thức sản xuất TBCN, chứ không thể bỏ qua việc phát triển lực lượng sản xuất. Cái thiếu nhất của đất nước ta là thiếu một lực lượng sản xuất phát triển. đất nước ta chưa có một cơ sở vật chất kỹ thuật phù hợp với CNXH. Chừng nào chư tạo ra được cái cốt vật chất – kỹ thuật phù hợp với CNXH thì đất nước ta chưa có CNXH hiện thực. Quá trình xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật ấy ở nước ta chính là quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nên kinh tế quốc dân. Văn kiện hội nghị lầ thứ VII ban chấp hành TW khoá VII khẳng định quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta là: “Quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sứ lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của nông nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”. Thực chất công nghiệp hoá,hiện đại hoá ở nước ta là quá trình tạo ra những tiền đề vật chất, kỹ thuật về con người, công nghệ, phương tiện, phương pháp – những yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất cho CNXH. Nội dung cốt lõi của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là cải biến lao động thủ công, lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến, hiện đại để đạt tới năng suất lao động xã hội cao. Xây dựng nền đại công nghiệp cơ khí hiện đại – cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH bằng con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đó là một tất yếu khách quan đối với nước ta quá độ lên CNXH xúat phát từ một nên kinh tế kém phát triển. Tính tất yếu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta được thể hiện ở góc độ kinh tế và chính trị xã hội
Về kinh tế: Chỉ có công nghiệp hoá, hiện đại hoá XHCN mới có cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta sẽ tạo ra một sức sản xuất mới bao gồm nhiều loại công cụ mới và các loại tư liệu sản xuất khác, cùng với những người lao động có tổ chức, tiến hành hiệp tác sản xuất với kỹ năng lao động ngày càng cao từ đó làm cho năng suất lao động tăng lên cái “Đảm bảo cho sự thắng lợi của trật tự xã hội này so với xã hội khác”
Do mối quan hệ biện chứng hữu cơ giữa quan hệ sản xuất và cơ sở vật chất – kỹ thuật nên việc xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH có tác dụng củng cố hoàn thiệp quan hệ sản xuất XHCN – dựa trên cơ sở vật chất kỹ thuật ngày càng cao của CNXH và quan hệ sản xuất XHCN ngày càng được hoàn thiện, nên sản xuất xã hội sẽ không ngừng phát triển và đời sống vật chất văn hoá của nhân dân sẽ không ngừng được nâng cao trên cơ sở phát triển nền sản xuất đó
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá XHCN còn là một tất yếu về chính trị– xã hội
Với cơ sở vật chất – kỹ thuật vừa đạt được trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá giai cấp công nhân tầng lớp trí thức XHCN có thêm nhiều điều kiện để giúp đỡ nông dân ùng đi lên CNXH. Sự liên minh giữa công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức XHCN ngày càng được củng cố, Nhà nước XHCN được tăng cường. những thành tựu đạt được trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá tạo ra nhiều khả năng thực hiện sự bình đẳng về kinh tế giữa các dân tộc, giữa các vùng, các miền của đất nước. Tình hình đó đưa đến sự thống nhất ngày càng cao về chính trị và tinh thần trong xã hội – XHCN.
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải có sự chuẩn bị vè tư tưởng và văn hoá nhưng công nghiệp hoá, hiện đại hoá lại có tác dụng thúc đẩy xây dựng nền văn hoá mới và con người mới XHCN. Việc xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại và sản xuất theo phương thức đại công nghiệp đòi hỏi quần chúng lao động phải có trình độ giác ngộ cách mạng và trình độ văn hoá khoa học kỹ thuật ngày càng cao. Đồng thời cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH lạ tạo ra những điều kiện vật chất cần thiết cho việc xây dựng nền văn hoá mới và con người mới XHCN.
Công nghiệp hoá XHCN còn là một yêu cầu khách quan của quốc phòng. Nguồn lực quốc phòng của một nước phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố, trong đó nền kinh tế lớn mạnh, sản xuất nhiều loại sản phẩm chế độ chính trị kinh tế và xã hội vững chắc và việc cung cấp các phương tiện hiện đại hoá quốc phòng có ý nghĩa đặc biệc quan trọng. Công nghiệp hoá hiện đại hoá có tác dụng trực tiếp trong việc tạo ra các nhân tố đó.
Công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta là quá trình giai cấp công nhân trưởng thành về số lượng và chất lượng. Giai cấp công nhân ngày càng đông, kỹ thuật sản xuất ngày càng cao, đời sống ngày càng được cải thiện, trình độ giác ngộ XHCN được nâng dần lên. Do đó vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân trong mọi mặt sinh hoạt của xã hội ngày càng được củng cố. Chỉ có thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá XHCN nước ta mới xây dựng được nền kinh tế độc lập tự chủ và tham gia phân công hợp tác quốc tế và chủ động hội nhập.
Qua đó có thể khẳng định rằng sự thành công của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá XHCN là nhân tố quyết định sự thắng lợi hoàn toàn và triệt để của XHCN, không làm công nghiệp hoá hiện đại hoá sẽ không có XHCN. xuất phát từ tính khách quan và tác dụng nhiều mặt trên đây của công nghiệp hoá hiện đại hoá XHCN, đảng ta coi công nghiệp hoá hiện đại hoá là “Nhiệm vụ trung tâm trong suốt cả thời kỳ quá độ lên CNXH”. Chỉ có hoàn thành công nghiệp hoá hiện đại hoá XHCN mới có cơ sở để thực hiện các nhiệm vụ khác một cách triệt để và mới có CNXH một cách đầy đủ
Nhiệm vụ cải tạo quan hệ sản xuất và để có được quan hệ sản xuất XHCN đồng thời để mở rộng cho lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động cải thiện đời sống nhân dân. nhưng, những việc đó chỉ đạt mức cao nhất khi nào cơ sở vật chất – kỹ thuật của XHCN được xây dựng xong và cũng chỉ lúc đó quan hệ sản xuất mới được hoàn thiện và củng cố vững chắc. CNXH ở nước ta sẽ được xác lập với các đặc trưng: có một nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. có nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột và bất công làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. các dân tộc trong nhận thức rõ tính tất yếu khách quan của quá trìng công nghiệp hoá hiện đại hoá đối với sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta”.
3. Nội dung công nghiệp hoá, hiện đại hoá và những biện pháp thực hiện
3.1.Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý
Việc xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý bao giờ cũng phải dựa trên tiền đề là phân công lại lao động xã hội.
Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hoá lao động, do đó chuyên môn hoá sản xuất giữa các nghành, trong nội bộ từng nghành và giữa các vùng trong nên kinh tế quốc dân . phân công lao động có tác dụng rất to lớn. Nó là đòn bẩy của sự phát triển công nghệ và năng suất lao động. Cùng với cách mạng khoa học va công nghệ nó góp phần hình thành và phát triển cơ cấu kinh tế hợp lý. Sự phân công lại lao động xã hội trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải tuân thủ các quá trình có tính quy luật sau:
Một là, tỷ trọng và số tuyệt đối lao động nông nghiệp giảm dần, tỷ trọng và số tuyệt đối lao động công nghiệp tăng lên.
Hai là, tỷ trọng và số tuyệt đối lao động trí thức ngày một tăng và chiếm ưu thế so với lao động giản đơn trong tổng lao động xã hội.
Ba là, tốc độ tăng lao động trong các ngành phi sản xuất vật chất tăng lên nhanh hơn tốc độ tăng lao động trong các ngành sản xuất vật chất
ở nước ta phương hướng phân công lại lao động xã hội hiện nay cần triển khai trên cả hai địa bàn: cả nước và tại chỗ để kết hợp phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Xong phải đặc biệc chú ý đến phân công lao động tại chỗ, phải trên cơ sở hợp lý hoá lao động tại chỗ mà phân bổ lại lao động trên phạm vi cả nước. đi đôi với quá trình phân công lại lao động xã hội, một cơ cấu kinh tế mới cũng dần dần được hình thành . Cơ cấu kinh tế của một nước là tổng thể các quan hệ kinh tế hay các bộ phận hợp thành của nền kinh tế, gắn với vị trí, trình độ kỹ thuật công nghệ, quy mô, tỷ trọng tương ứng với từng bộ phận và mối quan hệ tương tác giữa các bộ phận, gắn với điều kiện kinh tế – xã hội trong từng giai đoạn phát triển nhất định, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế đã được hoạch định. Cấu trúc của cơ cấu kinh tế bao gồm:
Cơ cấu ngành kinh tế
Cơ cấu vùng kinh tế
Cơ cấu giữa thị tứ, thị xã, thị trấn, thành phố và đô thị
Cơ cấu thành phần kinh tế
Để tối ưu hoá cơ cấu kinh tế được hình thành phải đạt được các yêu cầu sau: phản ánh được và đúng các quy luật khách quan, trước hết là các quy luật kinh tế, cho phép khai thác tối đa các tiềm năng kinh tế của đất nước, sử dụng được nhiều lợi thế so sánh của các nước phát triển muộn về công nghiệp, phù hợp với xu thế của cách mạng khoa học công nghệ, xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá và đem lại hiệu quả kinh tế – xã hội cao
Về cơ cấu nghành kinh tế: Trong những năm trước mắt cơ cấu ngành ở nước ta sẽ được xác lập là cơ cấu công – nông nghiệp - dịch vụ. phương hướng phát triển của các ngành trong cơ cấu ấy phải đáp ứng được những yêu cầu của mô hình chiến lược, cụ thể là:
Thứ nhất, khai thác có hiệu quả tiềm năng đa dạng về nông lâm ngư nghiệp, thức đẩy nhanh việc hình thành các vùng tập trung chuyên canh, đưa công nghệ sinh học và các phương pháp canh tác tiên tiến vào nông nghiệp, thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn, Bảo đảm thoả mãn các yêu cầu lương thực, thực phẩm trong nước, tao nguồn nguyên liệu vững chắc cho công nghiệp chê biến, tăng nguồn hạt xuât khẩu, tạo công ăn việc làm, phân công lại lao động xã hội, mở rông thị trường trong nước cho công nghiệp và dich vụ.
Thứ hai, kết hợp phát triển nông lâm ngư nghiệp với phát triển công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản, phát triển công nghiệp chế biến lúa gạo có chất lượng ngày càng cao đáp ứng nhu cầu trong nước, nâng cao hiệu quả xuất khẩu, chế biến thực phẩm có chất lượng dinh dưỡng cao, bảo đảm vệ sinh, đa dạng hoá mặt hàng, kiểu cách, bao bì và nhãn hiệu để phục vụ nhu cầu trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu, tăng nhanh năng lực và nâng cao trình độ công nghệ chế biến các loại cây công nghiệp dài ngày, lâm sản, thuỷ sản
Thứ ba, phát triển mạnh mẽ sản xuất hàng tiêu dùng thông thường để thoả mãn những nhu cầu tiêu dùng cơ bản, thiết yếu và phổ thông của dân cư, hạn chế tối đa việc nhập khẩu hàng hoá này vừa nhằm tiết kiệm ngoại tệ, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất trong nước mở rông sản xuất hàng lâu bền, cao cấp để thoả man nhu cầu ngày càng tăng của dân cư, giảm dần tiến tới thay thế nhapạ khẩu của loại hàng này bằng hàng hoá sản xuất trong nưỡc. Cần chú ý tới đổi mới công nghệ nâng cao chất lượng, đa dạng hoá mặt hàng, cải tiến bao bì, giảm giá thành .v.v. Để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước. Phát huy lợi thế về công nhân và truyền thống sản xuất đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng phục vụ xuất khẩu, tập trung chủ yếu vào các sản phẩm may mặc, dệt da, hàng điện tử, đồ điện gia dụng, hàng thủ công mỹ nghệ
Thứ tư, xây dựng và cải tạo nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển các nghành kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, thu hút đầu tư trực tiếp đầu tư nước ngoài, trước hết ưu tiên cho những khâu ách tắc và yếu kém nhất đang cản trở sự phát triển.
Thứ năm, xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng trọng yếu và hết sức cấp thiết, có điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường để phát huy nhanh và có hiệu quả cao. Cụ thể: Ngành cơ khí hướng mạnh vào sản xuất công cụ, thiết bị phục vụ sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp, thiết bị phục vụ công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản và sản xuất hàng tiêu dùng, sản xuất phụ tùng lắp ráp một số loại sản phẩm phức tạp có trình độ kỹ thuật cao phát triển một số ngành sản xuất nguyên nhiên vật liệu: dầu khí và lọc dầu, xi măng, luyện cán thép...
Thứ sáu, phát triển dịch vụ du lịch, khai thác có hiệu quả lợi thế về tự nhiên, truyền thống lịch sử văn hoá dân tộc, phục vụ phát triển kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân...
Về cơ cấu nguồn kinh tế tạo điều kiện cho tất cả các vùng đề phát triển trên cơ sở khai thác thế mạnh và tiềm năng của các vùng liên kết giữa các vùng làm cho mỗi vùng có một cơ cấu kinh tế hợp lý và đều có chuyển biến tiến bộ góp phần vào sự phát triển kinh tế xã hội của đát nước.
Về cơ cấu giữa thị tứ, thị xã, thị trấn, thành phố và đô thị
Tuỳ điều kiện từng nơi, tất cả các thị xã, thị trấn đều phải được phát triển trên cơ sở đẩy mạnh công nghiệp dịch vụ mang ý nghĩa tiểu vùng. Hình thành các thị tứ làm trung tâm kinh tế, văn hoá cho mỗi xã hoặc cụm xã. Phát triển các đô thị vệ tinh xung quanh các thành phố lớn đẻ giãn bớt công nghiệp và dân cư tránh sự tập trung quá mức vào Hà Nội và Thành Phố Hố Chí Minh coi trọng việc phát triển kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế và văn hoá, giữ gìn bản sắc và truyền thống văn hoá dân tộc tiến lên hiện đại trong phát triển đô thị.
Về cơ cấu thành phần kinh tế : Lấy việc giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trên cơ sở chủ động đổi mới về tổ chức và hiệu quả quản lý tạo điều kiện thuận lợi về kinh tế và pháp lý để các chủ doanh nghiệp tư nhân yên tâm đầu tư chuyển dịch cơ cáu kinh tế. Mở rộng các hình thức liên doanh liên kết, áp dụng rộng rãi các hình thức kinh tế tư bản nhà nước.
3.2.Đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đi đôi với tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới từ nước ngoài
Hiện nay cuộc cách mạng khoa học và công nghệ có nhiều nội dung phong phú, trong đó có thể chỉ ra những nội dung nổi bật sau đây:
Một là, cách mạng về phương pháp sản xuất: Đó là tự động hoá. Ngoài phạm vi tự động như trước đây, hiện nay tự động hoá còn bao gồm cả việc sử dụng rộng rãi người máy thay thế con người điều khiển quá trình vận hành sản xuất.
Hai là cách mạng về năng lượng: bên cạnh những năng lượng truyền thống mà con người đã sử dụng trước kia như nhiệt điện, thuỷ điện, thì ngày nay con người ngày càng khám phá ra nhiều năng lượng mới và sử dụng chúng rộng rãi trong sản xuất như năng lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời.
Ba là, cách mạng về vật liệu mới: Ngày nay ngoài việc sử dụng các vật liệu tự nhiên, con người ngày càng tạo ra các vật liệu nhân tạo mới thay thế có hiệu quả cho các vật liệu tự nhiên khi mà các vật liệu tự nhiên đang có xu hướng ngày càng giảm dần
Bốn là, cách mạng vê công nghệ sinh học: các thành tựu của cuộc cách mạng này đang được áp dụng rộng rãi trong lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, y tế, hoá chất, bảo vệ môi trường sinh thái...
Năm là, cách mạng về điện tử tin học: Đây là một lĩnh vực mà hiện nay loại người đặc biệt quan tâm, trong đó phải kể đến lĩnh vực máy tính điện tử .
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới đã và đang đóng vai trò rất to lớn đối với sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá trong tất cả các nước, nhất là các nước có nền kinh tế kém phát triển. Tuy nhiên cách thức tiến hành ở những nước khác nhau lại không giống nhau, có nước tiến hành bằng cách tự nghiên cứu, tự trang bị công nghệ mới cho các ngành kinh tế trong nước, có nước tiến hành thông qua chuyển giao công nghệ cũng có nước tiến hành bằng cách kết hợp giữa tự nghiên cứu và chuyển giao.
Thực chất của chuyển giao công nghệ là đưa công nghệ bao gồm cả phần cứng và phần mềm từ nước này sang nước khác, làm thay đổi quyền sở hữu và quyền sử dụng công nghệ được chuyển giao. Thực tế cho thấy việc chuyển giao công nghệ cỉ phát huy được hiệu quả trong mô hình chiến lược công nghiệp hoá hướng ngoại, “Hướng về xuất khẩu”
Chuyển giao công nghệ có những tác dụng sau:
Một là, rút ngắn khoảng cách tụt hâu của các nước chậm phát triển so với các nước phát triển
Hai là, tạo điều kiện để khai thác có hiệu quả hơn các nguồn lực ở trong nước nhằm tăng trưởng kinh tế nhanh.
Ba là, đối với những nước đang trong quá trình chuyển từ mô hình chiến lược công nghiệp hoá hướng nội, thay thế nhập khẩu sang chiến lược công nghiệp hoá hướng ngoại hướng về xuất khẩu thì nó thúc đẩy nhanh sự chuyển dịch này và cho phép đạt được hiệu quả kinh tế cao
Song song với quá trình tiếp nhận chuyển giao công nghệ, việt Nam còn phải xây dựng cho mình chiến lược phát triển khoa học và công nghệ quốc gia mang tính tổng thể lâu dài bởi vì đây là năng lực nội sinh đảm bảo sự phát triển vững chắc và lâu bền của đát nước. đại hội lần thứ VIII của Đảng cộng sản việt Nam đã khẳng định vai trò quan trọng của khoa học và công nghệ: “Phát triển khoa học và công nghệ, nâng cao năng lực nội sinh, coi đó là nhân tố quan trọng để thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam, việc chuyển giao và phát triển khoa học, công nghệ sẽ theo phương hướng chung và các giải pháp cụ thể sau đây:
Phương hướng chung: hình thành cơ cấu kỹ thuật và công nghệ nhiều tầng, kết hợp nhiều trình độ, nhiều quy mô, tranh thủ tối đa công nghệ tiên tiến, cải tiến công nghệ truyền thống ưu tiên công trình quy mô vừa và nhỏ nhưng không loại trừ cơ sở quy mô lớn hoặc tương đối lớn nếu có hiệu quả và điều kiện cho phép. Trong những năm trước mắt, coi trọng loại công nghệ có suất đầu tư thấp, thu hồi vốn nhanh, tạo thêm việc làm cho người lao động.
Các giải pháp cụ thể để thực hiện là:
Thứ nhất, chọn giải pháp kỹ thuật, công nghệ phù hợp để đầu tư chiều sâu, tận dụng có hiệu quả các cơ sở hiện có sau những năm xây dựng trước đây.
Thứ hai, cải tiến, nâng cấp, hiện đại hoá các kỹ thuật và công nghệ truyền thống phục vụ phát triển kinh tế nông thôn, thực hiện công nghiệp hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
Thứ ba, tranh thủ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là đối với các dự án đầu tư nước ngoài. Thực hiện giám định nghiêm ngặt việc nhập công nghệ và thiết bị.
Thú tư, cần đặt ra một cách nghiêm tục ngay từ đầu vấn đề bảo vệ môi trường trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá để tránh những hậu quả xấu phải trả giá đắt. Đầu tư nước ngoài
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 50375.DOC