MỤC LỤC
Phần I: Tình hình CNH ở Hàn Quốc trước năm 1980.
1.Chiến lược CNH.
2.Thực trạng nền kinh tế.
2.1.Thành tựu.
2.2.Hạn chế.
Phần II:Quá trình thực hiện chiến lược CNH hỗn hợp.
1.Nội dung của chiến lược CNH hỗn hợp.
2.Quá trình thực hiện.
2.1.Phát triển công nghệ.
2.2.Mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của những ngành CNcó kỹ thuật cao.
2.3.Khắc phục tình trạng tụt hậu của CN vừa và nhỏ.
2.4.Tự do hóa có điều tiết.
3. Những vấn đề đặt ra sau giai đoạn 1980-1990.
3.1.Khủng hoảng mô hình công nghiệp hóa.
3.2.Khủng hoảng mô hình phân phối thu nhập.
3.3.Sự suy thoái môi trường sinh thái.
3.4.Quá trình CNH của Hàn Quốc gắn liền với mức tiết kiệm thấp và nợ nước ngoài cao.
Phần III:Một số kinh nghiệm với Việt Nam.
1.Hàn Quốc-Việt Nam những nét tương đồng.
2.Một số kinh nghiệm từ chiến lược CNH của Hàn Quốc với Việt Nam.
2.1.Liên tục nâng cấp cơ cấu công nghiệp theo các ngành có lợi thế so sánh hoặc có cơ hội phát triển.
2.2.Sử dụng các quan hệ kinh tế đối ngoại, trọng tâm là XK làm đòn bẩy cho quá trình CNH.
2.3.Vai trò của chính phủ.
2.4.Kinh nghiệm về đầu tư phát triển nguồn nhân lực và chính sách khoa học công nghệ.
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo.
27 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2230 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Công nghiệp hóa ở Hàn Quốc giai đoạn 1980-1990 từ đó rút ra một số kinh nghiệm với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kỹ thuật khác cũng được tự do hóa. Kết quả là số trường hợp nhập khẩu vào thập kỷ 80 tăng nhanh, đầu tư trực tiếp cũng tăng. Đơn cử năm 1988, các công ty Hàn Quốc đã nhập 353 loại thiết bị hiện đại nhất, gấp 1,5 lần so với thời kỳ trước, trong đó 181 loại từ Nhật, 90 từ Mỹ, 46 từ Tây Âu. Nhập khẩu các nhà máy thiết bị toàn bộ có sử dụng robot và kỹ thuật vi điện tử cũng tăng. Năm 1988, Hàn Quốc đã nhập tới 36 xí nghiệp loại này, nhiều gấp 3 lần so với năm trước. Đồng thời với các biện pháp nhập khẩu kỹ thuật, Nhà Nước còn triển khai nhiều biện pháp để hấp thụ kỹ thuật công nghệ, đặc biệt là xây dựng nhiều viện kỹ thuật chuyên ngành để thông tin đầy đủ cho các công ty tư nhân lựa chọn và mở rộng hệ thống giáo dục đào tạo sau đại học để sử dụng tốt kỹ thuật tiên tiến.
Thứ hai, nhằm giải quyết những vấn đề công nghệ cao Hàn Quốc mở rộng nghiên cứu để tự túc các công nghệ hiện đại, giảm bớt khoảng cách về trình độ công nghệ với các nước tiên tiến. Bắt đầu vào giai đoạn này, Nhà Nước đã đưa ra một chương trình nghiên cứu khoa học dài hạn. Các mục tiêu nghiên cứu chủ yếu cho tới năm 2000 là làm chủ kỹ thuật vi điện tử, kỹ thuật thông tin, hóa chất. Ngoài ra , chương trình còn nghiên cứu áp dụng các loại vật liệu mới và chế phẩm sinh học, mở rộng nghiên cứu biển, khoảng không vũ trụ, sinh thái và bảo vệ sức khỏe. Đi đôi với việc kế hoạch hóa nghiên cứu, Nhà Nước vào năm 1981 đã quyết định sáp nhập 16 viện có quy mô nhỏ do các tổ chức khác nhau của chính phủ tài trợ thành 9 viện lớn đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ khoa học công nghệ, Viện khoa học công nghệ cao cấp của Hàn Quốc (Korea Advanced Institute of Science and Technology: KAIST) là viện đứng đầu với nhiệm vụ nghiên cứu và phát triển các dự án quốc gia. Ngoài việc lập các viện trực thuộc, Nhà Nước còn khuyến khích thành lập các Viện nghiên cứu và phát triển các công ty tư nhân thông qua thuế khuyến khích và giúp đỡ về tài chính. Tới 1985, 183 Viện nghiên cứu tư nhân đã được thành lập. Để có đội ngũ cán bộ phù hợp với nhiệm vụ nặng nề mới-nhiệm vụ nghiên cứu và phát triển (khác với nhiệm vụ ứng dụng và địa phương hóa kỹ thuật nhập khẩu), Nhà nước còn đặc biệt chú ý phát triển đội ngũ cán bộ nghiên cứu. Nhiệm vụ này đặt lên vai Viện khoa học cao cấp Hàn Quốc. Viện này được thành lập từ 1972. Viện được trang bị các phương tiện hiện đại và chế độ trả lương cao để lôi cuốn các nhà bác học và kỹ sư tài năng nhất của Hàn Quốc ở nước ngoài về góp sức giải quyết vấn đề này.
2.2. Mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của các ngành CN kỹ thuật cao:
Một loại hoạt động đặc biệt quan trọng khác đối với việc phát triển các ngành CN có kỹ thuật cao là đẩy mạnh hoạt động đối ngoại để tìm thị trường tiêu thụ các sản phẩm của các ngành này-một loại sản phẩm mà Hàn Quốc chưa hề có ưu thế. Nhiệm vụ đối ngoại của Nhà Nước vào giai đoạn này thực sự nặng nề hơn so với thời kỳ trước. Công tác đối ngoại không được xem như một mảng tách rời đối với hoạt động kinh tế chỉ vì mục tiêu chính trị mà như một công cụ hỗ trợ cho phát triển kinh tế, cụ thể là mở rộng thị trường.
Chính phủ Hàn Quốc quyết định mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của các ngành CN kỹ thuật cao là do:
*Nền kinh tế phụ thuộc vào xuất khẩu ở giai đoạn này càng đòi hỏi một thị trường lớn hơn để xuất và nhập khẩu. Các công ty Hàn Quốc không chỉ có nhu cầu xuất khẩu sản phẩm của các ngành dùng nhiều lao động như trước đây, mà ngày càng có nhu cầu mở rông xuất khẩu hàng điện tử, ô-tô, máy móc, hóa chất cao cấp ...Nhiều công ty lớn của Hàn Quốc không chỉ có nhu cầu xuất khẩu các sản phẩm có dung lượng khoa học cao, mà còn cả XK công nghệ của mình ra thị trường nước ngoài.
*Nhu cầu XK ngày một lớn, song hàng hóa kỹ thuật cao của Hàn Quốc vấp phải sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường thế giới. Sự cạnh tranh này không chỉ với các nước NICs khác ở sản phẩm dùng nhiều lao động và một số mặt hàng mà còn cả với các công ty đa quốc gia hùng mạnh ở các mặt hàng có kỹ thuật cao.
*Sự lớn nhanh của các công ty Hàn Quốc cùng với chính sách xuất khẩu bằng mọi giá của Hàn Quốc đã làm cho các nước tư bản phát triển dâng cao hàng rào bảo hộ mậu dịch đối với hàng hóa của Hàn Quốc đồng thời cũng buộc Hàn Quốc phải khai phá thêm thị trường mới.
*Ưu thế về lao động rẻ của Hàn Quốc đã cạn, rất nhiều công ty của Hàn Quốc có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài (ở các nước có lao động rẻ hơn là chính). Công việc này trước hết đòi hỏi phải xử lý tốt quan hệ ngoại giao, thu thập thông tin nhiều mặt của nước định đầu tư.
Tất cả những nguyên nhân trên mang tính phổ biến và vượt khả năng giải quyết của từng công ty, bởi vậy Nhà Nước phải đứng ra gánh vác. Để có chính sách ngoại giao làm tốt chức năng hỗ trợ các vấn đề kinh tế nói chung và vấn đề thị trường cho các sản phẩm kỹ thuật cao nói riêng, Hàn Quốc đã thay đổi hoặc bổ sung các quan niệm mới cho chính sách ngoại giao kể từ nửa sau thập kỷ 80. Đối với các nước XHCN và Bắc Triều Tiên, Hàn Quốc chủ chương chuyển từ đối đầu sang đối thoại trên cơ sở cùng tồn tại hòa bình và hợp tác cùng có lợi. Bên cạnh đó, Hàn Quốc còn đẩy nhanh việc bình thường hóa quan hệ với tất cả các dân tộc, không phân biệt chế độ chính trị xã hội, mở rộng tới mức có thể quan hệ với các nước XHCN, tăng cường quan hệ với các nước đang phát triển. Có thể nói, đây là một bước đi tiến bộ của chính phủ Hàn Quốc, nhất là trong thời kỳ hàng rào ngăn cách giữa hai hệ thống kinh tế XHCN và TBCN còn lớn. Sau khi thực hiện chính sách đa dạng hóa quan hệ, Hàn Quốc đã mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm CN của mình. Tới 1990, Hàn Quốc đã được nhiều nước XHCN, kể cả Liên Xô công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao, quan hệ kinh tế trong một thời gian ngắn đã đạt được những tiến bộ vượt bậc. Hàn Quốc không những mở rộng nhanh buôn bán mà còn mở rộng cả về đầu tư vào hầu hết các nước XHCN cũ.
2.3. Khắc phục tình trạng tụt hậu của CN vừa và nhỏ:
Trong hai giai đoạn đầu của quá trình CNH, Hàn Quốc chịu ảnh hưởng nhiều về phương pháp tổ chức quy mô xí nghiệp của Nhật Bản. Đó là sự hình thahf và duy trì các tổ chức độc quyền hay còn gọi là các “chaebol”. Các chaebol của Hàn Quốc không chỉ là các công ty có quy mô lớn, kiểm soát nhiều ngành kinh tế then chốt của Hàn Quốc, có tầm hoạt động khắp thế giới mà còn làm chức năng phân phối, tái sử dụng năng lực sản xuất đối với hệ thống các xí nghiệp nhỏ và vừa trong nước. Vì thế, nền kinh tế của Hàn Quốc dược coi là “nền kinh tế của các công ty lớn”.Có thể kể đến các công ty như SAMSUNG, LUCKY GOLDSTAR, LG, HUYNDAI, HYOSUNG ... Sự bành trướng của các tập đoàn kinh tế lớn của Hàn Quốc đã tạo nên sự mất cân đối nghiêm trọng giữa các ngành, các bộ phận công nghiệp có quy mô lớn và CN có quy mô vừa và nhỏ trong nước.
Trước tình hình này, vào đầu thập kỷ 80, chính phủ đã tích cực triển khai nhiều biện pháp để hỗ trợ công nghiệp vừa và nhỏ, góp phần cải thiện năng suất, trình độ kỹ thuật, trình độ quản lý của bộ phận này. Năm 1982 Nhà Nước thông qua kế hoạch dài hạn 10 năm đẩy nhanh sự phát triển của CN vừa và nhỏ. Những mục tiêu cụ thể của kế hoạch 10 năm là đưa tổng giá trị của bộ phận CN vừa và nhỏ từ 33,4% vào năm 1982 lên 44,8% vào năm 1991, lao động trong khu vực này tăng từ 47,7% lên 54,3%, phần đầu tư tăng từ 29,7% lên 43,7%. Kế hoạch 10 năm đẩy nhanh phát triển công nghiệp vừa và nhỏ được thực hiện qua các biện pháp:
@Thứ nhất, năm 1982, Nhà Nước đưa ra các chương trình giúp đỡ về tài chính, công nghệ và marketing cho các xí nghiệp được xem là có triển vọng (dù một triển vọng ở mức độ tối thiểu). Công việc hỗ trợ trên do các ngân hàng, các tổ chức có chức năng đẩy nhanh kinh doanh nhỏ và các Viện nghiên cứu khác nhau đảm nhận.
@Thứ hai, Nhà Nước hỗ trợ triển khai chương trình hiện đại hóa tập thể để giúp cho các doanh nghiệp này vượt qua được hạn chế về quy mô và cùng triển khai nhiều hoạt động. Chương trình này khuyến khích các doanh nghiệp cùng sử dụng các loại phương tiện mới kể cả các phương tiện đắt tiền và thiết bị chống ô nhiễm. Cách làm này không chỉ làm giảm giá thành sản phẩm mà còn nâng cao năng suất lao động. Các công ty lựa chọn cách hoạt động chung để nhận được nhiều sự giúp đỡ về tài chính từ các qũy đặc biệt.
@Thứ ba, Nhà nước kích thích phát triển công nghệ, đẩy nhanh hiện đại hóa quản lý. Hàng loạt dịch vụ mới đã được trao cho kinh doanh nhỏ. Dịch vụ đẩy nhanh kỹ thuật và hoàn thiện cũng như chương trình đào tạo kỹ thuật do Hiệp hội đẩy nhanh phát triển CN vừa và nhỏ (SMIPE) đảm nhiệm. Thông tin kỹ thuật do Viện kinh tế công nghệ (KIET) đảm nhiệm. Cả hai tổ chức này gánh vác việc giữ các doanh nghiệp CN vừa và nhỏ bắt kịp với tiến bộ kỹ thuật mới và phát triển tiềm năng của họ.
@Thứ tư, Nhà Nước đẩy mạnh sự hợp tác giữa các doanh nghiệp có quy mô lớn và doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất phụ kiện, các bộ phận chi tiết. Chính phủ khuyến khích các công ty lớn ký hợp đồng dài hạn với các công ty nhỏ đang nhận được sự hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật và quản lý để cung cấp phụ kiện chi tiết có chất lượng cao. Chính phủ tin tưởng rằng cách thiết lập mối quan hệ như vậy sẽ làm tăng nhanh hiệu quả của toàn ngành CN. Thêm nữa, những lĩnh vực sản xuất nhất định giành cho kinh doanh nhỏ cũng được đặt trên cơ sở hiệu quả và ưu thế so sánh.
@Thứ năm, Nhà Nước khuyến khích các đơn vị công nghiệp nhỏ tư nhân xây dựng các hội hợp tác. Các hội hợp tác này sẽ đảm bảo cho các thành viên các loại dịch vụ khác nhau, kể cả marketing, mua bán và trong một số trường hợp cả dịch vụ tiến hành các chương trình nghiên cứu và phát triển. Nhà nước giành tài trợ cho các Hiệp hội này. Nhà nước còn ủng hộ những cố gắng kinh doanh tập thể của các hội bằng cách trao một phần quan trọng hợp đồng cung cấp cho các hội kinh doanh nhỏ.
@Thứ sáu, nhiều biện pháp giúp đỡ khác cũng được bổ sung để đảm bảo phát triển cân đối giữa thành thị và nông thôn. Nhà nước còn định rõ các loại hình CN ở nông thôn và các công ty tham gia vào các loại hình CN này sẽ nhận được các hình thức giúp đỡ khác nhau.
Để đưa các chính sách vào đời sống dễ dàng hơn, Nhà nước còn cụ thể hóa chúng bằng cách công bố các Đạo luật sau:
*Luật cơ sở công nghiệp vừa và nhỏ. Luật này chỉ rõ mức độ kinh doanh như thế nào gọi là kinh doanh vừa và nhỏ, khẳng định tinh thần ủng hộ tổ chức hoạt động kinh doanh vừa và nhỏ. Luật này đồng thời khuyến khích đổi mới dây chuyền sản xuất sản phẩm.
*Luật đẩy nhanh phát triển công nghiệp vừa và nhỏ (The Small and Medium Industry Promotion Law). Luật này kích thích thành lập nhanh SMIPC (Hiệp hội đẩy nhanh sự phát triển của CN vừa và nhỏ). Với mục đích ủng hộ việc hiện đại hoá và các chương trình hợp tác cho khu vực CN vừa và nhỏ.
*Luật đẩy nhanh sự phát triển có hệ thống của CN vừa và nhỏ. Luật này khuyến khích các đơn vị CN lớn ký nhiều hợp đồng phụ với các doanh nghiệp nhỏ, kích thích các hoạt động làm ăn trung thực giữa các công ty lớn và công ty cung cấp phụ tùng linh kiện.
*Luật thanh toán các sản phẩm do SMI cung cấp (The Law On Payment For The Product Supplied From Small And Medium Industry). Luật này điều chỉnh các hoạt động không đúng đắn khi có các hợp đồng thầu phụ, khuyến khích định kỳ thanh toán và thanh toán lãi suất mà các công ty lớn phải trả khi thanh toán muộn cho các đơn vị công nghiệp vừa và nhỏ.
Vậy là, cùng nhằm mục tiêu khắc phục những vấn để cản trở quá trình phát triển do quá khứ để lại cũng như xuất hiện trong hiện tại, Chính phủ Hàn Quốc đã triển khai tổng hợp các biện pháp kích thích sự phát triển của các đơn vị CN vừa và nhỏ, chuẩn bị đón luồng gió mới của thị trường trong tương lai (thị trường mà nhiều nhà kinh tế dự đoán CN vừa và nhỏ dễ thích ứng hơn).
2.4.Tự do hóa có điều tiết:
Nếu như trong những năm 50, Hàn Quốc triệt để thực hiện chính sách thay thế nhập khẩu mà thực chất là việc bảo hộ ở mức cao các ngành CN trong nước bằng các hàng rào thuế quan và phi thuế quan; đồng thời trợ cấp cho các ngành CN này với hy vọng phát triển chúng để thay thế cho hàng NK. Tuy nhiên chiến lược này đã tỏ ra không thích hợp vì nó đã không tận dụng được những lợi thế so sánh của đất nước mà còn tạo ra sự ỷ lại của các công ty và xí nghiệp vào sự trợ cấp của Nhà Nước. Chính phủ Hàn Quốc đã sớm nhận thức được điều này và đã chuyển dần từ chính sách thay thế NK sang chính sách tự do hóa mậu dịch nhằm tạo động lực mới cho quá trình CNH.
Về ngoại thương, trong giai đoạn 1980-1990, chính phủ Hàn Quốc đã đề ra hai hoạt động cụ thể và rất có hiệu quả là tổ chức những “Hội nghị đẩy mạnh XK” được tổ chức hàng tháng và “ngày XK” được tổ chức mỗi năm một lần. Những hội nghị hàng tháng để đẩy mạnh XK có sự tham gia của các Bộ trưởng kinh tế, đại diện của ngành CN và thương mại. Chính phủ cũng đồng thời thành lập “Tổ chức xúc tiến thương mại Hàn Quốc” (Korean Trade Promotion Corporation) vào năm 1984 và cho phép Hiệp hội các nhà thương mại Hàn Quốc thu lệ phí 1% của tổng giá trị xuất khẩu để sử dụng vào các mục tiêu đẩy mạnh XK hơn nữa. Chính sách tự do hóa mậu dịch đã tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành CN của Hàn Quốc nhập khẩu nguyên nhiên liệu, công nghệ về để sản xuất cũng như XK các sản phẩm công nghiệp ra thị trường thế giới.
Tài chính là một khâu quan trọng trong huy động vốn cho quá trình CNH. Chính vì vậy, ngành tài chính luôn được đặt dưới sự kiểm soát của chính phủ. Hệ thống tài chính gồm 3 bộ phận quan trọng là ngân hàng TW, các ngân hàng thương mại và chuyên doanh, các tổ chức tài chính phi ngân hàng như đầu tư, tiết kiệm, bảo hiểm ... Tất cả đều chịu sự quản lý và kiểm soát chặt chẽ của chính phủ. Chính sách thắt chặt tín dụng và lãi suất thấp của chính phủ trong một thời gian dài đã phát huy được tác dụng phát triển, kích thích và nâng cao tính hiệu quả của các ngành CN trọng điểm trên thị trường trong nước và thế giới. Tuy nhiên, chính sách này chỉ có tác dụng trong thập kỷ 80, còn sang thập kỷ 90 chính sách này không còn phù hợp và đã đẩy nền kinh tế lâm vào một cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ nghiêm trọng.
Về đầu tư, đến những năm 1980, do sự thâm hụt trong cán cân thương mại, Chính phủ một mặt đã thắt chặt hơn nữa các dòng vốn ra nước ngoài, mặt khác nới lỏng sự kiểm soát đối với các dòng vốn đầu tư vào Hàn Quốc. Chính vì thế kể từ những năm này, FDI vào Hàn Quốc có sự gia tăng đáng kể. Ví dụ, năm 1981, các nhà đầu tư nước ngoài được phép tham gia vào thị trường chứng khoán của Hàn Quốc, năm 1985 các công ty Hàn Quốc được phép phát hành trái khoán ở nước ngoài.
Môi trường tự do hóa kết hợp với những chính sách điều tiết có hiệu quả của chính phủ đã phát huy tác dụng, rút ngắn một cách tối đa quá trình CNH ở Hàn Quốc. Đây là một trong những kinh nghiệm qúy báu mà những nước đi sau trong đó có Việt Nam cần phải học tập.
3. Những vấn đề đặt ra sau giai đoạn 1980-1990:
Trong nền kinh tế thị trường không có sự hưng thịnh vĩnh viễn và cũng không có sự khủng hoảng vĩnh viễn. Tới cuối những năm 80, Hàn Quốc lại gặp phải những vấn đề phức tạp trên con đường phát triển.
3.1. Khủng hoảng mô hình CNH:
Công nghiệp, đặc biệt là các ngành CN có kỹ thuật cao của Hàn Quốc xây dựng theo mô hình “lắp ráp”: kết hợp sử dụng lao động rẻ một cách có hiệu quả với nhập khẩu nguyên liệu và linh kiện bắt đầu trở thành lỗi thời không còn thích hợp để đẩy nhanh sự phát triển. Nếu như vào giữa những năm 80 với tốc độ tăng XK sản phẩm điện tử bình quân 30%/ năm, các quan chức chính phủ và công ty đã phấn khởi tin rằng Hàn Quốc sắp tạo một kỳ công mới về kinh tế với kỹ thuật cao mới thì thì tới cuối những năm 80 sự phấn khởi đã biến mất. Năm 1989, xuất khẩu của nhóm hàng điện tử tiêu dùng-nhóm hàng chủ lực của mặt hàng điện tử lần đầu tiên kể từ năm 1986 lâm vào tình trạng suy giảm ở mức 5,7% và toàn ngành CN điện tử cũng theo bước chân của nhóm hàng này, suy giảm trong XK đạt tới 4,8%. Sự suy giảm của XK hàng điện tử vào giai đoạn này là do chúng bị giảm bớt sức cạnh tranh trên thị trường thế giới bởi tiền lương và giá đồng won vào thời kỳ này tăng. Tiền lương tăng nhanh là do các tổ chức công đoàn ngày một mạnh hơn và gây sức ép buộc giới chủ phải tăng lương của công nhân Hàn Quốc trở thành cao nhất so với các nước NICs Đông á. Còn đồng won tăng là do sức ép của Mỹ nhằm giakm thâm hụt buôn bán của Mỹ ở nước này. Tuy nhiên, tiền lương và giá đồng won tăng là biểu hiện trực tiếp làm giảm sức mạnh cạnh tranh của hàng hóa Hàn Quốc, song nguyên nhân sâu xa hơn theo các nhà phân tích Hàn Quốc là do công nghiệp kiểu lắp ráp phu thuộc nặng vào công nghệ của nước ngoài nhất là Nhật Bản và Mỹ, không đủ mạnh để chịu sự gia tăng dù là rất nhỏ của chi phí sản xuất. Chi phí cho lao động trung bình chỉ chiếm trên 8% chi phí cho sản xuất sản phẩm điện tử. Nếu tăng lương lên, thậm chí tới 20% thì giá thành của sản phẩm cũng chỉ tăng 1,6%. Mặc dù chi phí cho lao động tới mức tối đa cũng chỉ làm giá thành sản phẩm tăng không nhiều như trên, song các nhà XK vẫn không chịu đựng được vì còn phụ thuộc không ít vào kỹ thuật cao và tư bản của nước ngoài. Do phải trả lãi suất và tiền sử dụng công nghệ nên các công ty không có khả năng giảm giá thành hoặc giữ giá thành cho sản phẩm của mình để duy trì khả năng trên thị trường thế giới.Ví dụ như vào năm 1989, mặc dù Hàn Quốc đứng hàng thứ năm trên thị trường thế giới về XK máy tính cá nhân với 2 triệu chiếc, song thực ra là chỉ có vỏ là sản xuất tại Hàn Quốc còn các bộ phận chủ yếu như hệ thống đầu vào và đầu ra cơ bản (BIOS), bộ vi xử lý (Micro-processor), thiết bị chuyển dữ kiện từ đĩa vào bộ nhớ, bàn phím và chip sets đều nhập từ nước ngoài và chiếm một nửa giá thành. Ngoài ra, số tiền phải trả cho các công ty nước ngoài để sử dụng công nghệ của họ cũng chiếm một phần đáng kể.
Ngay cả phần sản xuất trong nước thì phần của tư bản nước ngoài đặc biệt là các công ty Nhật cũng rất lớn. Theo số liệu của Viện kinh tế và công nghệ Hàn Quốc tới cuối năm 1988, tổng số đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào ngành điện tử là 97,5 tỷ USD. số đầu tư này (kể cả toàn phần lẫn kinh doanh) tạo ra 51,3% tổng bô phận các linh kiện điện tử vào năm 1987. Nhật Bản tới cuối năm 1988 dồn đầu tư vào ngành điện tử 44,7 tỷ USD (45,8% tổng đầu tư của họ) và cung cấp 54,1% tổng số công nghệ đưa từ nước ngoài vào với 596 trường hợp cho Hàn Quốc. Với thế cung cấp kỹ thuật và vốn như vậy, Nhật Bản có tiềm năng “rung tận gốc” ngành công nghiệp điện tử của Hàn Quốc, các công ty Nhật Bản giữ độc quyền công nghệ và vốn tại ngành công nghiệp chế tạo các bộ phận điện tử của Hàn Quốc. Do phụ thuộc vào công nghệ cao như trên nên Hàn Quốc ở mặt hàng này thường bị thâm hụt trong cán cân buôn bán với Nhật. Riêng năm 1988, Hàn Quốc đã nhập siêu tới 1,98 tỷ USD ở mặt hàng điện tử trong buôn bán với Nhật.
Cán cân thương mại trong ngành hàng điện tử của Hàn Quốc với Nhật Bản (triệu USD)
1980
1985
1986
1987
Điện tử tiêu dùng
-77
-95
-127
-120
Điện tử công nghiệp
-88
-325
-525
-313
Các linh kiện điện tử
-256
-652
-1477
-1981
Tổng cộng
-421
-1072
-2109
-2414
Nguồn : Viện kinh tế và công nghệ Hàn Quốc (KIET)
Như vậy, có thể nói Hàn Quốc tới giai đoạn này đang đứng trước nhu cầu cơ cấu lại nền công nghiệp để tiếp tục phát triển.
3.2. Khủng hoảng mô hình phân phối thu nhập :
Kể từ đầu những năm 60 cho tới thập kỷ 80, từ đời tổng thông Park Chung Hee đến tổng thống Roh Tae Woo, để đảm bảo khả năng cạnh tranh cao trong xuất khẩu nhăm tăng trưởng nhanh trong quá trình CNH, các chính phủ Hàn Quốc đã dùng nhiều chính sách chi phối thị trường lao động, duy trì cho giá lao động thấp. Hạn chế dân chủ và sự tồn tại của các chính phủ quân sự là những điều kiện không thể thiếu được để duy trì và triển khai có hiệu quả những chính sách này trong thực tế. Chính sách này một mặt tạo thành công liên tục cho các công ty Hàn Quốc trong lĩnh vực xuất khẩu, song mặt khác làm ảnh hưởng tới phần lớn người dân đặc biệt là giai cấp công nhân. Chính sách kiềm chế giá lao động cộng với các chính sách tạo thuận lợi cho các Chaebol không những đã tạo cho các Chaebol tích lũy tư bản nhanh chóng trở thành những công ty có tầm cỡ trên thế giới mà còn tạo cho đời sống của tầng lớp này cùng gia đình của họ mộ cuộc sống xa hoa xa cách với tầng lớp nhân dân lao động.
Như vậy, thành quả của quá trình phát triển kinh tế nhanh chủ yếu rơi vào tầng lớp Chaebol , ít rơi vào những người lao động bình thường. Nghịch cảnh này không những làm cho người lao động không quan tâm tới sức cạnh tranh của hàng hóa Hàn Quốc trên thị trường thế giới mà còn làm họ phẫn uất và tăng tinh thần chống đối các Chaebol. Vấn đề ưu tiên hàng đầu của họ vào thời kỳ này là điều chỉnh lại thu nhập. Những bước đi của quá trình dân chủ hóa muôn mằn cũng bắt đầu từ đây. Xã hội Hàn Quốc vào thời kỳ này thực sự rơi vào tình trạng khủng hoảng của phương pháp phân phối thu nhập của chiến lược phát triển cũ.
3.3. Sự suy thoái môi trường sinh thái:
Để đẩy nhanh quá trình CNH, trong một thời gian dài, các chính phủ Hàn Quốc đã khai thác quá mức hoặc làm phương hại tới môi trường sống của mình. Với chiến lược mở rông bộ máy sản xuất phục vụ cho xuất khẩu đặc biệt đầu tư cho phát triển công nghiệp nặng và hóa chất phục vụ sản xuất trong nước và xuất khẩu, môi trường sinh thái thường chỉ được xem là vấn đề thứ yếu nên ô nhiễm môi trường gia tăng với một tốc độ “chóng mặt”.
Việc ép nông nghiệp phục vụ cho sự năng động của quá trình CNH hướng về xuất khẩu đã dẫn tới việc sử dụng quá nhiều hóa chất và bòn rút nguồn nước. Cách làm này không những làm mất sự năng động của ngành CN mà còn làm ảnh hưởng tới chất lượng lương thực thực phẩm và sự trong sạch của nguồn nước.
Vậy là tới thời điểm này, Hàn Quốc đã gặp phải những vấn đề hóc búa do những vấn đề cơ bản làm nền tảng cho chiến lược tăng tốc cũ đã thay đổi gây ra. Đây không đơn thuần chỉ là những vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề xã hội. Bởi vậy để tiếp tục tiến lên, Hàn Quốc cần phải có chiến lược phát triển mới với nội dung tổng hợp hơn.
3.4. Quá trình CNH của Hàn Quốc gắn liền với mức tiết kiệm thấp và nợ nước ngoài cao.
Bởi việc mở rộng năng lực sản xuất đã trở nên quá mức do sức ép của tăng trưởng, tổng đầu tư luôn vượt quá tổng tiết kiệm trong nước, hơn nữa phần lớn số tiền tiết kiệm trong dân cư đã được chuyển sang dạng bất động sản hoặc tương tự để tránh lạm phát. Do đó mức tiết kiệm của Hàn Quốc thấp hơn mức bình thường. Để cân bằng giữa đầu tư và tiết kiệm, chính phủ Hàn Quốc đã phải vay nợ nước ngoài và chấp nhận lạm phát. Đó là nguyên nhân chính làm cho số nợ nước ngoài của Hàn Quốc tăng cao trong một số năm. Điều đó làm cho nguồn vốn nước ngoài chảy vào Hàn Quốc tăng cao, đồng thời cũng vì thế số tài sản nợ nước ngoài ở các công ty lớn của Hàn Quốc-do phải chịu sức ép của việc mở rộng sản xuất và tăng năng lực xuất khẩu trở nên cao hơn so với chỉ số này ở các công ty lớn của các nước CN mới khác. Nợ nước ngoài của Hàn Quốc đặc biệt gia tăng trong giai đoạn 1980-1990 gắn với việc chuyển dịch cơ cấu công nghiệp.
Nợ nước ngoài của Hàn Quốc qua một số năm
(Triệu USD)
Nguồn : Major Statistical of Korean Economy.National Statistical Office, Korea 1991.
Nợ nước ngoài của Hàn Quốc cũng thường đi kèm với lạm phát và thâm hụt cán cân thanh toán. Thâm hụt cán cân thanh toán của Hàn Quốc kéo dài đến năm 1985 do việc cho phép nhập khẩu ồ ạt nguyên liệu thô, bán thành phẩm và máy móc cho việc sản xuất hàng xuất khẩu làm cho cán cân thương mại luôn bị thâm thủng. Đó chính là hậu quả của chính sách “thay thế nhập khẩu thụ động”. Mặc dù vậy, nhưng từ 1986, cán cân thanh toán quốc tế của Hàn Quốc đã trở nên dư thừa và tình trạng thâm hụt đã được khắc phục. Công nghiệp hóa ở Hàn Quốc cũng kéo theo sự biến động lớn của lạm phát. Đến đầu thập kỷ 80, Hàn Quốc luôn có tỷ lệ lạm phát cao nhất so với các NICs Châu á khác. Tuy nhiên, mức lạm phát cao này được chính phủ Hàn Quốc chấp nhận hay còn gọi là “chính sách hy sinh” để rút ngắn tới mức tối đa quá trình CNH, nhanh chong đưa Hàn Quốc gia nhập vào hàng ngũ các nước có nền CN phát triển trên thế giới.
Phần III: Một số kinh nghiệm từ chiến lược CNH của Hàn Quốc đối với Việt Nam.
1. Hàn Quốc-Việt Nam một số nét tương đồng:
Việt Nam và Hàn Quốc là hai nước Châu á có nhiều nét tương đồng về địa lý, lịch sử và văn hóa. Việt Nam nằm ở Đông Nam á còn Hàn Quốc ở Đông Bắc á, cả hai nước đều ở vị trí bán đảo, nối liền với châu lục và nhìn ra đại dương. Trong lịch sử tồn tại và phát triển của mình, hai nước đều có nét chung là phải đương đầu với nhiều thế lực xâm lực hùng mạnh. Lịch sử Việt Nam còn ghi lại câu chuyện : Năm Bảo Khánh Bính Tuất (1226 dương lịch), trước mưu đồ lật đổ vương triều Lý của Trần Thủ Độ, con trai thứ bảy của Lý Anh Tông là Lý Long Tường phải rời bỏ nơi chôn rau cắt rốn, vượt biển đến một vùng đất mà thời đó còn vô cùng xa xăm với ta, đó là Cao Ly (Hàn Quốc ngày nay). Lịch sử Hàn Quốc cũng ghi nhận : Hoàng tử Lý Long Tường bằng tài năng của mình đã chiêu tập binh mã, tổ chức trường kỳ kháng chiến giúp Cao Ly thoat khỏi hiểm họa Mông Cổ. Trong chuyến viếng thăm Hàn Quốc, nguyên Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Việt Nam Đỗ Mười đã đến thăm hậu duệ Hoàng Tử Lý Long Tường ở Hàn Quốc. 762 năm sau khi Lý Long Tường lên thuyền vượt biển, ngày 27-1-1992 một thương gia Nam Triều Tiên tên là Jim Boe Kim đã theo đường chim sâm cầm b
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 50072.doc