MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 2
2.1Ý nghĩa lý luận 2
2.2 Ý nghĩa thực tiễn 2
3.Mục tiêu chọn đề tài 3
4.Đối tượng - Phạm vi nghiên cứu 3
4.1.Đối tượng nghiên cứu 3
4.2.Phạm vi nghiên cứu 3
5.Phương pháp nghiên cứu 3
5.1.Phương pháp luận 3
5.2. Phương pháp thu thập thông tin 4
5.2.1.Phương pháp phân tích tài liệu 4
5.2.2.Phương pháp phỏng vấn sâu cá nhân 5
5.2.3.Phương pháp quan sát 5
5.3. Phương pháp thống kê xã hội 5
6. Khung lý thuyết 5
PHẦN NỘI DUNG:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn
1. Tổng quan về đề tài 6
2. Một số khái niệm, công cụ 6
2.1.Quy mô dân số và chất lượng dân số 6
2.1.1.Quy mô dân số 6
2.1.2.Chất lượng dân số 6
2.2.Gia đình - Trẻ em 7
2.2.1.Gia đình 7
2.2.2.Trẻ em 7
2.3.Những lý thuyết Xã hôi học áp dụng 8
2.3.1.Lý thuyết hành vi lựa chọn của G.Homans 8
2.3.2.Lý thuyết Xã hội học kinh tế vĩ mô, vi mô 8
Chương 2: Kết quả nghiên cứu 8
1.Tổng quan về kinh tế xã hội xã Hương Xuân 8
1.1.Vị trí địa lý, tình hình dân cư 8
1.2.Tình hình Kinh tế - Văn hoá – Xã hội 9
1.2.1.Kinh tế 11
1.2.2.Văn hoá – Xã hội 12
2. Kết quả nghiên cứu 15
2.1.Tổng quan về đề tài 15
2.1.1.Dân số 15
2.1.2.Gia đình 18
2.1.3.Trẻ em 22
3. Thực trạng và vấn đề DS – GĐ – TE xã Hương Xuân 23
3.1.Công tác Dân số - KHHGĐ 23
3.2.Chương trình truyền thông chuyển đổi hành vi 26
3.3.Công tác chăm sóc và giáo dục trẻ em 30
3.4.Công tác gia đình 32
4. Những tồn tại và nguyên nhân 33
4.1.Những tồn tại trong công tác dân số gia đình và trẻ em 33
4.2. Nguyên nhân 33
PHẦN KẾT LUẬN:
1. Kết luận 34
2. Khuyến nghị một số giải pháp 35
- Tài liệu tham khảo 39
Phụ lục
- Một số báo cáo tổng hợp về tình hình DS – GĐ – TE năm 2007 tại địa bàn xã Hương Xuân
- Một số hình ảnh minh hoạ
43 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6430 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Công tác Dân số - Gia đình -Trẻ em, thực trạng và vấn đề (nghiên cứu tại xã Hương Xuân-Huyện Hương Trà- Thừa Thiên Huế), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iao. Trong đó thu ngân sách tại xã đạt 888200000 đồng. Tổng ngân sách: 1765200000 đồng, đạt 130% so với dự toán. Xã đã huy động được các nguồn quỹ góp phần tăng nguồn ngân sách cho xã. Tổng quỹ thu được: 8770200 đồng. trong đó, quỹ khuyến học 8503000 đồng.
Xã đã vay Ngân hàng chính sách huyện 3406,1 triệu đồng, vay qua kênh Ngân hàng Nông nghiệp dư nợ cuối năm 4978 triệu đồng, trong đó doanh số vay năm 2007 là 885 triệu đồng. Nợ quá hạn 200 triệu, tương đương 4,01%.
1.2.3. Văn hoá- xã hội:
Xã Hương Xuân rất chú trọng công tác giáo dục, giáo dục được coi là quốc sách hàng đầu trong phát triển VH-XH của xã.(toàn xã
Có hai trường mầm non). Trường mầm non Hương Xuân có 250 cháu, gồm 9 lớp trong đó có 2 lớp bán trú tập trung, số cháu trong độ tuổi 5 tuổi là 139/139 đạt 100%. Ccs trường tiểu học đã tập trung 783 học sinh, gồm 26 lớp trong đó số cháu 6 tuổi đầu cấp huy động đến lớp đạt 100%(158/158). Trường THCS số lượng huy động 727/731 học sinh, trong đó số học sinh lớp 6 có 163/165 học sinh.
Và các trường đang thưch hiện chủ trương bốn không do Bộ giáo dục và đào tạo đề ra, tiếp tục nâng cao chất lượng dạy và học, tăng cường cơ sở vật chất phục vụ cho việc giảng dạy và học, tạo môi trường cảnh quan sư phạm xanh sạch đẹp. Năm 2007 toàn xã có 47 em đạu vào các trường CĐ-ĐH.
Công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân đựoc duy trì thường xuyên. Tổ chức khám bệnh cho nhân dân với 6465 đợt người. Thực hiẹn tốt công tác phòng chống dịch bệnh và các chương trình Quốc gia y tế cộng đồng. Phối hợp với Hội trái tim Huế khám cho 250 bệnh nhân miễn phí. Kiểm tra an toàn thưch phẩm và các điểm kinh doanh ăn uống, giải khát trên địa bàn toàn xã.
Xã đã được trung tâm nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn Tỉnh đầu tư 100 triệu đồng để trang bị cho các đơn vị và nhân dân các vật dụng đồ dùng vệ sinh môi trường. Đến nay tỷ lệ hộ dùng nước sạch, hợp vệ sinh cơ bản đạt 100%, trong đó hộ dùng nước máy đạt 52,5%, hộ có hố xí hợp vệ sinh đạt 45,46%. Vận động nhân dân tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện, đến nay đạt tỷ lệ 33,64% với tổng số tiền là 283,896 triệu đồng.
Xã đã tập trung tuyên truyền ý nghĩa của những ngày lễ lớn bầu cử Đại biểu Quốc hội khoá XII, phối hợp với các cơ quan, ban nghành tổ chức liên hoan văn nghệ tiếng hát mừng Đảng mừng xuân, giải bóng đá truyền thống do huyện tổ chức, giải việt dã truyền thống huyên Hương Trà.
Tổ chức hội nghị biểu dương gia đình văn hoá với 17 gia đình tiêu biểu đại diện cho 1230 gia đình đạt chuẩn văn hoá toàn xã. Được UBND huyện Hương Trà công nhận làng văn hoá Thanh Khê đợt I/2007, nâng tổng số thôn đựơc công nhận lên 6/11 thôn đạt 54,54%.
Phối hợp với hội nghệ sỹ nhiếp ảnh TT -Huế tổ chức lễ dâng hương và dựng tượng đài danh nhân Đặng Huy Trứ, cùng với bảo tàng tổng hợp tỉnh tổ chức phát quang tháp đôi Liễu Cốc.
Triển khai lồng gép 3 đợt chiến dịch truyền thông CSSKSS/KHHGĐ, với kết quả có 833 chị em thực hiện các biện pháp tránh thai, tỷ lệ CPR đạt 68,11%. Tỷ lệ sinh con thứ 3 vẫn còn cao 31,4%. Tỷ lệ phát triển dân số tư nhiên 0,95%. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi SDD là 18.83%.
Tham gia tổ chức sinh hoạt 5 nhóm tín dụng gia đình, lập danh sách đăng kí gửi huyện 4 thôn không sinh con thứ 3 trở lên là: Thanh khê, Xóm Tháp, Xuân Đài, Liễu Nam.
Uỷ ban nhân dân xã đã tiếp nhận và phát quà của trung ương,tỉnh, huyên cho các đối tượng thuộc gia đình chính sách, tổ chức đi thăm viếng các bà mẹ Việt Nam anh hùng, gia đình chính sách tiêu biểu trong dịp lễ tết.
Đã cấp sửa chữa nhà cho 26 đối tượng gia đình chính sách với tổng giá trị 158.5 triệu đồng; trong đó xã đầu tư 5 triệu sử chữa 2 nhà. Tiếp nhận 3 tấn gạo của hội chữ thập đỏ Việt Nam cấp cho hộ nghèo khó khăn, tham gia hiến máu nhân đạo tại trung tâm y tế huyện đạt 92% (23/25 người).
2. Kết quả nghiên cứu:
2.1 Tổng quan về đề tài:
2.1.1 Dân số:
* Với dân số 83 triệu người (2008), Việt Nam là quốc gia có quy mô dân số lớn thứ 2 Đông Nam Á và thứ 13 trên thế giới. Tiềm năng gia tăng dân số còn lớn do cơ cấu dân số trẻ và số phụ nữ trong độ tuổi từ 15-49 tuỏi vẫn ở mức cao, từ 21,1 triệu (2000) lên 25,5 triệu (2010). Mặc dù tỷ lệ sinh đã giảm nhanh trong thập kỉ qua và tiép tục giảm nhưng trong những năm tới dân số nước ta vẫn tăng thêm trung bình mỗi năm từ 1 - 1,1 triệu người.
* Kết quả giảm sinh trong giai đoạn 2001 – 2010 có ý nghĩa quyết định đến việc ổn định quy mô dân số ở mức cao hay thấp. Dân số Việt Nam sẽ ổn định vào giứa thế kỷ 21. Ở mức cao quy mô dân số ổn định có thể trên 122 triệu, còn ở mức thấp dân số sẽ dưới 113 triệu. Điều đó có thể ảnh hưởng đến tính bền vững và tốc độ phát triển kinh tế - xã hội.
* Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên giảm chậm và vẫn còn cao, mức sinh còn chênh lệch giữa các tỉnh. tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại ở mức trung bình 55,8% và vẫn còn 19,5% sử dụng biện pháp tránh thai truyền thống có hiệu quả tránh thai thấp. Tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn là yếu tố cản trở đến việc chấp nhận và thực hiện gia đình ít con. Việc mang thai ngoài ý muốn và tình trạng nạo phá thai là tình trạng đáng lo ngại, nhất là ở lứa tuổi chưa thành niên. Tư tưởng chủ quan thảo mãn với kết quả giảm sinh đã xuất hiện. Đầu tư kinh phí cho chương trình dân số có xu hướng giảm.
* Cơ cấu dân số trẻ và đang chuyển dần cơ cấu dân số già tạo ra những cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Do giảm sinh nhanh và tuổi thọ tăng, dân số nươc ta bắt đầu chuyển sang quá trình già hoá. Tuổi trung vị sẽ tăng từ 23,2 năm 2000 lên 27,1 năm 2010, số trẻ dưới 15 tuổi mặc dù giảm từ 26 triệu năm 2000 xuống 21,8 triệu năm 2010 nhưng vẫn ở mức cao, tạo nên những thách thức lớn cho gia đình và xã hội trong việc nuôi dưỡng, giáo dục, đào tạo và tạo việc làm cho thế hệ trẻ.Người già từ 60 tuổi trở lên sẽ tăng từ 6,3 triệu lên 6,9 triệu giai đoạn 2000 – 2010, làm tăng nhu cầu đảm bảo phúc lợi xã hội và các dịch vụ chăm só sức khoẻ cho người già. Số người từ 15 – 59 tuỏi tăng từ 45,4 triệu năm 2000 lên 58,7 triệu năm 2010, đây sẽ là tiềm năng to lớn cho sự phát triển đất nước nếu lực lượng này được đào tạo và được sử dụng hợp lí. Ngược lại chính lực lượng này sẽ là áp lực lớn đối với sự phát triển nếu không được đào tạo thích hợp và không có đủ việc làm ổn định.
* Chất lượng dân số còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu và nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Các tố chất về thể lực của người Việt Nam còn hạn chế, đặc biệt là về chiều cao, cân nặng và sức bền. Tỷ lệ trẻ sơ sinh nặng dưới 250gram chiếm 8%/ năm và tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng chiếm 33,5 (2000). Đáng lưu ý là vẫn còn 1,5 dân số bị thiểu năng về thể lực và trí tuệ. Số người nhiễm HIV/AIDS ngày càng tăng. Số năm học bình quân đầu người thấp mới đạt 6,5 năm/người (1997 – 1998).
Tỷ lệ lao động qua đào tạo chỉ đạt khoảng 20% so với từ 50% trở lên ở các nước khác, làm cho khả năng tiếp thu khoa học và công nghệ mới gặp khó khăn. Chỉ có 2,09% dân số tốt nghiệp cao đẳng, đại học, trình độ thạc sĩ trở lên còn chiêm tỷ lệ thấp khoảng 0,06% (2000).
* Thời gian qua Đảng và nhà nước ta đã sớm đề ra chủ trương, chính sách và dân số. đã phát động cuộc vận động về KHHGĐ, từng bước huy động các lực lượng xã hội tham gia, tranh thủ sự giúp đỡ về vật chất và kinh nghiệm của quốc tế đã giảm con số trung bình của phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ từ trên 6 con (thập niên 60) xuống khoảng 4 con, đến 2 con như hiện nay.
* Tuy nhiên những kết quả đạt được còn thấp so vói yêu cầu. Đến nay dân số Việt Nam đã lên tới con số 85 triệu người, nếu cứ tốc độ tăng trưởng hàng năm 1,4% thì dân số Việt Nam sẽ bùng nổ.
Sự gia tăng dân số quá nhanh là một nguyên nhân quan trọng cản trở tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, gây khó khăn lớn cho việc cải thiện đời sống, hạn chế điều kiện phát triển về mặt trí tuệ, văn hoá và thể lực trong tương lai không xa đất nước ta sẽ đứng trước những khó khăn rất lớn thậm chí là nguy cơ nhiều mặt.
Vì vậy ngay từ bây giờ cần có chính sách, công tác kế hoạch cụ thể về dân số, gia đình và trẻ em để hạn chế những vấn đề bức xúc nảy sinh ở hiện tai và trong tương lai của nước ta.
* Năm 2008 là năm thứ 8 thực hiện chiến lược Quốc gia về dân số giai đoạn 2001 – 2010. Trong thời gian qua, công tác DS-GĐ-TE của xã Hương Xuân đã hoạt động có nhiều cố gắng nhằm từng bước ổn dịnh dân số, góp phần đẩy mạnh ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng ở địa phương.
* Để thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới ở nước ta, một trong những vấn đề quan trọng có tính cấp bách và lâu dài đó là sự phát triển dân số co tính bền vững, để từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và toàn xã hội nhằm góp phần xây dựng và phát triển kinh tế, văn hoá xã hội của quốc gia.
Biểu đồ 2: Biểu đồ thể hiện sự gia tăng dân số
2.1.2.Gia đình:
Trong những năm gần đây, thực trạng gia đình Việt Nam đang có nhiều sự biến đổi nhất là sự thay đổi dân về chức năng và có nhiều vấn đề đạt ra trong gia đình.
* Chức năng kinh tế đang có xu hướng lẫn át các chức năng của gia đình. Biến đổi lớn nhất trong chức năng gia đình hiện nay là sự nổi bật và chiếm vị trí hàng đầu của chức năng kinh tế. Do cơ chế thay đổi, không có sự bao cấp của nhà nước đối với từng gia đình và thanh niên phụ thuộc như trong thời kì kinh tế bao cấp, giá trị xã hội đã thay đổi, những gia đình đảm bảo được các điều kiện vật chất cho các thành viên, biết làm giàu được xã hội đánh giá. Những gia đình không làm giàu được cũng cần lo đảm bảo đời sống tối thiểu cho các thành viên nên mọi người, mọi nhà đều lo sản xuất, làm kinh tế. Đã có nhận xét “nhà nhà làm giàu, người người làm giàu” trở thành khẩu hiệu hành động của xã hội.
Việc lo làm ăn sinh sống và làm giàu là những việc làm cần thiết, chính đáng, chức năng của gia đình. Tuy nhiên, sự thái quá chỉ tập trung lo kiếm sống, làm giàu hay tập trung quá thiên lệch vào chức năng kinh tế đã làm ảnh hưởng đến việc thực hiện các chưc năng khác đặc biệt là chức năng giáo dục, văn hoá và chức năng chia sẻ tình cảm, chăm sóc lẫn nhau trong gia đình, trước hết là với người già và trẻ em làm nảy sinh nhiều vấn đề.
* Gia đình hiện nay đang thiếu vắng dần sự chăm sóc, giao dục của cha mẹ đối với con cái, nhiều gia đình chỉ lo kiếm sống, làm giàu, không có thời gian chăm sóc, quan tâm đến học hành, giáo dục con em. Họ thường pho mặc cho nhà trường, người nhà hoặc người giúp việc trông coi, không quan tâm đến những yếu tố có thể tác động tới con em mình trong điều kiện những tác động của môi trường xã hội rất phức tạp, đặc biệt những giai đoạn phat triển quan trọng như trẻ thơ, tuổi vị thành niên … Nên dễ dẫn đến trẻ bị xâm hại, bị rơi vào tệ nạn xã hội hoặc những khó khăn trong phát triển.
Không ít trường hợp cha mẹ vì có tiền nên buông lỏng giáo dục, chiều con, đáp ứng các nhu cầu vật chất của trẻ nhưng lại thiếu hướng dẫn, giáo dục trẻ, cho nên hình thánh lối sống hưởng thụ chây lười học tập. lối ra của nhiều gia đình có của là cho con đi học ở nước ngoài và như vậy gia đình chưa thực hiện tốt chức năng giáo dục văn hoá.
Do tình trạng thiếu lao động giản đơn, chủ yếu là lao động chân tay, ở đô thị đất đai bị thu hẹp, ở nông thôn người nông dân đặc biệt ở những vùng thuần nông phải ra thành phố hoặc dic huyển đến những vùng đất mới tìm kế sinh nhai. Trong gia đình hoặc người cha hoặc người mẹ (thậm chí cả hai) phải bươn chải kiếm sống để duy trì gia đình, và như vậy ở gia đình thiếu đi sự chăm bẵm của người mẹ, sự giáo dục của người cha, đồng thời do thiếu việc làm thu nhập thấp, trẻ em không đựoc đi học, bỏ học gía nhập vào đội quân lang thang, bán vé số ở đô thị kiếm sống.
* Vấn đề li hôn li thân có xu hướng gia tăng:
Những năm gần đây tình trạng li hôn ở nước ta, nhất là ở các thành phố lớn đã trở thành một vẫn đề cần được các cấp, các nghành quan tâm. Số vụ li hôn ngày một tăng năm 1991 là 22.000 vụ đến 1998 là 44.000 vụ.
Trước đây, nguyên nhân chủ yếu dẫn đến li hôn là do phong tục tập quan lạc hậu, do cha mẹ ép buộc, tảo hôn, đa thê… Còn hiện nay nguyên nhân dẫn đến li hôn rất đa dạng: Ngoại tình, có chưc có quyền hắt hủi vợ còn, bị lôi kéo vào cuộc tình mới, mâu thuẫn vợ chồng, mê tín dị doan… Tuy nhiên những mâu thuẫn vợ chồng bạo lực gia đình vẫn là nguyên nhân chính.
Tình trạng li thân đang có xu hướng gia tăng do mâu thuẫn vợ chồng, do con cái hư hỏng, do hoàn cảnh xã hội, một số cặp vợ chồng không thể chung sống với nhau, nhưng hoặc vì địa vị xã hội, vì con cái họ không muốn ra toà làm thủ tục li hôn nên chấp nhận sống cảnh ki thân. thực tế này xẩy ra ngày càng nhiều nhất lá ở đô thị.
Li hôn và li thân đều đe doạ đến sự bền vững vốn có của gia đình, ảnh hưởng đến cuộc sống của các thành viên, đặc biệt là trẻ em. Theo đánh giá khảo sát thì cha mẹ li hôn là một trong những yếu tố quan trọng dẫn đến tình trạng trẻ em bỏ nhà đi lang thang và phạm pháp.
* Hiện nay ở nước ta đang hình thành nhiều dạng gia đình. Mặt trái của nền kinh tế thị trường tác động không nhỏ đến quan hệ gia đình, đã tạo nên một quan hệ lỏng lẻo trong việc hình thành gia đình theo lối sống không phù hợp với nét truyền thộng thuần phong mĩ tục Việt Nam.
Đó là gia đình không hôn thú, sự chung sống với nhau như vợ chồng giữa 2 người nam và nữ nhưng không được pháp luật công nhận. Thưc tế loại hình này đang tồn tại và phổ biến ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Gia đình tạm (sống thử), gia đình đồng tính... Những dạng gia đình này đã hình thành và đang dần phổ biến, nó đi ngược lại với truyền thông văn hoá dân tộc, cần có những giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn, giải quyết phù hợp nhân cách con người Việt
* Trong thời gian qua, bạo lực gia đình ngày một tăng, đó có thể là bạo lực, xâm phạm về thân thể và tinh thần giữa các thành viên trong gía đình. Sự lạm dụng quyền lực, tính gia trưởng độc đoán và sự miệt thị không công bằng trong giao tiếp, ứng xử. Hành hạ, đối xử tàn tệ với vợ con hoặc giữa con cái với nhau. Bạo lực thân thể, đập đánh, ngược đãi, hành hạ gây thương tích. Lạm dụng tình dục, cưỡng bức, xâm hại tình cảm, sỉ nhục đe doạ, khủng bố tinh thần.
* Vị trí, vai trò của những thành viên trong gia đình có sự thay đổi: Đó là sự phát triển của thời đại mới, quyền bình đẳng được đặt ra, sự bình đẳng của người phụ nữ được thể hiện qua việc cùng có quyền như nhau trong quýet định các vấn đề của gia đình, bé trai bé gái đều được tôn trọng, đều được hưởng mọi quỳênlợi như nhau. Người phụ nữ tham gia vào các hoạt động xã hội, người chồng có trách nhiệm với gia đình hơn.
* Bước vào thời đại CNH,HDH Việt Nam có rất nhiều vấn đề biến đổi, nảy sinh, một trong số đó là vẫn đề nuôi dưỡng chăm sóc người già, người không có khả năng lao động trong gia đình đây là một trong những vấn đề mới của Việt Nam từ những năm 90 của thế kỉ XX, xu hương già hoá dân cư đang diễn ra khá nhanh. Năm 1999 tỷ lệ người cao tuổi trong tổng số dân là 8,1%. Với tỉ lệ tăng dân số và tuổi thọ bình quân ngày càng tăng, số lượng người cao tuổi đang có xu hướng tăng nhanh.
Do đặc thù của một nước thuần nông, gia đình vẫn là chỗ dựa chủ yếu của người cao tuổi Việt Nam. Ở người cao tuổi sức khoẻ giảm sút, nhiều bệnh tật phát sinh, quan hệ xã hội bị hạn chế nên thường rơi vào tình trạng bế tắc, có khi trở nên trì trệ, bảo thủ.
Trước đây người già thường giữ vị trì trụ cột trong gia đình họ là người quyết định những vấn đề lớn của gia đình. Hiện nay, phần lớn con cái là lao động chính đem lại thu nhập chủ yếu cho gia đình nên thường giữ vai trò là người chủ trong gia đình, người già trở thành phụ thuộc, nhất là đối với người cao tuổi ở khu vực nông thôn, không có lương hưu hay trợ cấp xã hội. Một phần do con cái phải tha hương kiếm sống, một phần bị chi phối của cuộc sống hiện đại, con cái quên đi sự dưỡng dục của ông bà, cha mẹ. Họ cho rằng người già là gánh nặng, là người ăn bám, và do không chịu nổi sự ngược đãi, đối xử tệ của con cái mà người già bỏ gia đình đi lang thang hoặc vào trại dưỡng lão( nếu có) hoặc tha hương cầu thực.
* Một vấn đề nổi cộm lên đối với gia đình Việt Nam trong thời kì CNH-HĐH đó là sự gia tăng của các tệ nạn xã hội. Với nhiều lý do khác nhau, những người và những nhóm người sống lang thang không gia đình, đặc biệt là trẻ em không có người quản lý, giáo dục, sống trong môi trường tự do tạo nên những con người có lối sống vị kỉ, bất cần đời. Họ thù hận cuộc đời, họ cho cuộc đời là tệ bạc, toàn màu đen với họ và thế là sống gấp, là cờ bạc, nghiện hút. Từ cờ bạc, nghiện hút họ cần tiền và làm bất cứ việc gì để có tiền như: trộm cắp, cướp giật, giết người, mại dâm…
Hậu quả nguy cơ tiềm ẩn là dịch bệnh xã hội như lưu manh, mại dâm, bệnh tật, hiểm hoạ HIV/AIDS ngày càng tăng.
2.1.3. Trẻ em:
“Trẻ em như búp trên cành,Biết ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan” .
Trẻ em là nguồn hạnh phúc của mọi người, là tương lai dân tộc, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy có vị trí như vậy nhưng trẻ em còn non nớt, chưa phát triển đầy đủ về thể chất, trí tuệ…nên cần được ưu tiên và bảo vệ, chăm sóc, giáo dục một cách đặc biệt.
Bên cạnh những trẻ em được nuôi dưỡng, chăm sóc một cách đầy đủ, có gia đình yên ấm hạnh phúc thì xã hội Việt Nam đang tồn tại rất nhiều trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn là những trẻ em rơi vào các hoàn cảnh gây ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất “ tâm thần, trí lực”, dễ bị bóc lột và có nguy cơ rơi vào tệ nạn xã hội.
Đó là những trẻ em lang thang, trẻ em lao động nặng nhọc trong những môi trường độc hại, nguy hiểm, trẻ em bị xâm hại về thân thể, tinh thần, tình dục; Trẻ em liên quan đến ma tuý như: hút hít, tiêm chích, mua bán, vận chuyển…Trẻ em làm trái pháp luật, hay trẻ em bị lây nhiễm HIV/AIDS từ mẹ truyến sang hoặc do các con đường khác.Một trong những đối tượng cần tập trung hỗ trợ của ngành DS-GĐ-TE trong giai đoạn hiện nay đó là tập trung vào phục hồi chức năng, chữa trị cho trẻ em khuyết tật. Tại xã, phường cần nắm số lượng, phân loại khuyết tật của trẻ em, đủa vào chương trình dự án của ngành và của quỹ bảo trợ trẻ em và những hỗ trợ thiết thực giúp các em phục hồi, chữa trị, giảm bớt sự khó khăn của gia đình và sự thiệt thòi của các em.
3. Thực trạng về vấn đề DS-GĐ-TE xã Hương Xuân:
3.1.Công tác DS-KHHGĐ:
Thời gian qua được sự chỉ đạo trực tiếp của UBDS-GD-TE huyện và trung tâm y tế huyện, sự phối hợp của các ban ngành, ban DS-GĐ-TE xã Hương Xuân cùng với trạm y tế đã tổ chức 3 đợt chiến dịch trong năm 2007 về chăn sóc SKSS-KHHGĐ cho toàn thể chị em phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ. Nhờ có kế hoạch chặt chẽ, tổ chức tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân, sự phối hợp tích cực của ban chấp hành phụ nữ, nắm chắc đối tượng ở khu dân cư, nhằm tạo điều kiện cho chị em tiếp cận với những đối tượng trong diện sinh đẻ, phổ biến tuyên truyền vận động sử dụng các biệp pháp tránh thai theo nhu cầu và sự lựa chọn của chị em.
Bảng 2: Số lương PN sử dụng BPTT qua các năm.
TT
Tiêu mục
2004
2005
2006
2007
1
Số chị em đến khám
SL
Đạt %
SL
Đạt %
SL
Đạt %
SL
Đạt %
713
63,6
789
633
833
2
Số chị em mắc bệnh phụ khoa
263
286
173
242
3
Dụng cụ tử cung
60/105
57,1
65/105
61,9
81/100
73,6
94/105
81,7
4
Đình sản
6/3
200
1/4
25
4/4
100
0/4
0
5
Bao cao su
147/182
80,8
153/170
90
164/170
95,6
176/170
103,5
6
Thuốc uống tránh thai
119/80
148,7
146/130
112,3
149/145
102,8
143/145
98,6
7
Thuốc tiêm tránh thai
25/40
56
20/25
80
20/20
100
16/25
64
8
Thuốc cấy nh thai
3/3
100
10/5
200
9/5
108
4/1
400
9
Tổng số các biện pháp tránh thai
360/413
87,2
359/439
89,97
427/45
94,1
433/460
94,1
2004
2005
2006
2007
Tỷ lệ CPR (%)
63,7
67,5
71,2
68,5
Biểu đồ 1: Tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai.
Bảng 3: Sự biến động dân số.
TT
Tiêu mục
2004
2005
2006
2007
1
Tổng số trẻ sinh ra sống
132
126
120
124
Trong đó sinh con T3 trở lên
47
38
41
39
2
Số chuyển đi
66
66
88
38
3
Số chuyển đến
28
17
25
27
4
Tổng số người chết
32
43
5
Dân số kì đầu
8528
8589
8498
8523
6
Dân số kì cuối
8589
8630
8523
8593
7
Dân số tung bình
8559
8609
8510
8558
8
Tổng số PN 15-49 tuổi có chồng
1125
1161
1160
1185
9
Tỷ lệ CPR
63,7
67,5
71,1
68,5
10
Tỷ suất sinh
1,54
1,3
1,41
14,5
11
Tỷ suất tử
0,38
0,4
0,37
0,5
12
Tỷ lệ PTDSTN
1,16
1,1
1,04
0,95
13
Tổng số trẻ mồ côi
72
58
66
51
14
Tổng số trẻ khuyết tật
37
38
39
34
3.2.Chương trình truyền thông chuyển đổi hành vi:
- Để đẩy mạnh công tác truyền thông UBND Huyện luôn chú trọng đến vùng khó khăn và vùng có mức sinh cai, tỷ lệ sinh con thứ 3 trở nên cao. Trong các đợt triển khai chiến dịch truyền thông lồng gép dịch vụ SKSS/KHHGĐ- Uỷ ban DS-GĐ-TE huyện luôn phối hợp với ban gia đình trẻ em xã triển khai nói chuyện toạ đàm chuyên đề và tư vấn về SKSS và KHHGĐ. Ngoài ra ban DS-GĐ-TE xã phối hợp với hội phụ nữ xã tuyên truyền, vận động các đối tượng nhân kỉ niệm ngày Quốc tế phụ nữ 8/3 và ngày thành lập hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam 20/10 theo mô hình sinh hoạt nhóm đã thu hút nhiều đối tượng tham gia.
- Các hoạt động tuyên truyền vận động tiếp tục được duy trì trên hệ thống truyền thanh xã. Xây dựng mô hình xã, phường, cụm dân cư không có người sinh con thứ 3 trở lên giai đoạn 2006-2010 gồm 7 thôn: Trung Thôn, Tiên Lộc, Thanh Lương 4, Thanh Khê, Liễu Nam, Xóm Tháp, Xuân Đài. Nhưng đã có 4 thôn vi phạm: Liễu Nam 1/88 cặp chiếm 1,13%, Trung Thôn 4/85 cặp chiếm 4,7%, Tiên Lộc 3/42 cặp chiếm 7,1%, Thanh Lương 4 6/119 cặp chiếm 5%.
Hỏi: Theo quan điểm của chị mỗi gia đình hiện nay nên có bao nhiêu con là vừa? tại sao?
Trả lời: Theo tôi, mỗi gia đình nên tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế của mình mà sinh con. Vì nếu kinh tế khá giả thì có thể nuôi dạy và cho con học hành, còn nếu mà nhà nghèo thì càng đông con càng khổ. (phỏng vấn chị Đỗ Thị Thuận, Thôn Liễu Nam)
- Chúng tôi đã tiến hành khảo sát phỏng vấn sâu một số chị em trong diện vi phạm sinh con thứ 3 ở đây trở lên, kết quả thu được như sau:
Hỏi: Mặc dù được biết gia đình chị kinh tế gặp rất nhiều khó khăn nhưng vì sao chị lại sinh tới 6 người con?
Trả lời: Ở đây rất nhiều gia đình giống gia đình tôi, chồng tôi là con trưởng nên chúng tôi phải sinh được một đứa con trai để nối dõi tông đường.Tôi đã cố gắng lắm nhưng lần nào cũng sinh con gái. Có lẽ cái số của tôi nó vô phúc quá chị ạ. (PV sâu chị Nguyễn Thị Hạnh, Thanh lương 1).
Hỏi: Vợ chồng chị làm ăn buôn bán khá giả, sao chị không dừng lại ở 2 con để nuôi dạy cho tốt mà lại sinh thêm đứa thứ 3? chị có biết như thế là mình đã vi phạm không?
Trả lời: Bố mẹ chồng tôi hiếm muộn nên chỉ sinh được anh ấy khi tuổi đã toan về già, cho nên các cụ bảo “ đông con hơn đông của”, ông bà hứa sẽ chu cấp cho chúng tôi nuôi dưỡng con cái, vả lại tôi thấy sinh thêm đứa thứ 3 cũng không ảnh hưởng gì đến kinh tế của gia đình tôi,mặc dù tôi biết như thế là vi phạm.( phỏng vấn chị Nguyễn Thị Hương, Thanh khê)
Qua cuộc phỏng vấn một số chị em vi phạm sinh nhiều con, chúng tôi nhận thấy rằng: phần lớn trình độ nhận thức của các chị em còn rất hạn chế, các chị không nghĩ rằng việc đông con sẽ kéo theo nhiều khó khăn, kinh tế gia đình càng nghèo khó hơn. Phần lớn trong suy nghĩ của các gia đình đông con là rất cổ hủ và lạc hậu: như đông con hơn đông của, gia đình nhất thiết phải có con trai để nối dõi tông đường hoặc vì họ cảm thấy có thể nuôi dưỡng con khôn lớn nên việc sinh con thứ 3 trở lên rất phổ biến. Thực tế trong những gia đình đông con thì sẽ có rất nhiều khó khăn trong việc quan tâm chăm sóc, giáo dục con đến nơi đến chốn. Chính bởi vậy mà ở địa bàn xã Hương Xuân tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng khá cao, một trong những nguyên nhân của hiện tượng này là việc người mẹ mang thai chưa có chế độ chăm sóc đặc biệt, trẻ sơ sinh chưa có chế độ dinh dưỡng hợp lí. Hoặc cũng có thể do cơ địa nên trẻ bị suy dinh dưỡng. Mặt trái của việc sinh đông con không chỉ dừng lại ở việc phát triển kinh tế gia đình mà còn trong tương lai xã hội còn phải chịu dựng nhiều áp lực. Nhất là đối với nước ta đang bước vào thời kì hội nhập nảy sinh nhiều vấn đề như lao động việc làm, tệ nạn xã hội, các khoản trợ cấp xã hội…
Tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên ở Hương Xuân trong năm 2007 là 0,95%. Tuy vậy số lượng sinh con thứ 3 và thứ 3 trở lên chiếm tỷ lệ lớn. Đặc biệt có 8 chị sinh con thứ 5 và 6 :
TT
Họ và tên
Thôn
Số con
1
Đỗ Thị Thuận
Liễu Nam
6
2
Nguyễn Thị Diệu Lan
Trung Thôn
6
3
Nguyễn Thị Hương
Trung Thôn
5
4
Nguyễn Thị Hạnh
Thanh Lương 1
6
5
Nguyễn Thị Chi
Thanh Lương 1
5
6
Phan Thị Hoa
Thanh Lương 3
6
7
Nguyễn Thị Liên
Thanh Lương 4
5
8
Nguyễn Thị Tuyết
Thanh Lương 4
6
Biểu đồ 3: Tỷ lệ sinh con thứ 3 ở xã Hương Xuân
3.3.Công tác chăm sóc và giáo dục trẻ em:
Trẻ em là rường cột, tương lai của đất nước. Trong những năm qua ban DS -GĐ-TE, xã Hương Xuân đã phối hợp với trạm y tế xã triển khai tốt các chương trình chăm sóc sức khoẻ cho bà mẹ và trẻ em như: Chương trình tiêm chủng mở rộng cho các cháu dưới 1 tuổi đạt 100%, chương trình bảo vệ mắt vì tương lai trẻ thơ do tổ chức ORBISS và uỷ ban DS_GĐ_TE tỉnh hỗ trợ, tổ chức khám sàng lọc cho các em học sinh trường THCS
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Công tác DS-GĐ-TE, Thực trạng và vấn đềTrường hợp nghiên cứu tại xã Hương Xuân-Huyện Hương Trà- Thừa Thiên Huế.doc