Công tác truyên truyền, phổ biến pháp luật về khiếu nại, tố cáo trong cơ quan, tổ chức và nhân dân: để đưa pháp luật đi vào thực tiễn cuộc sống, việc phổ biến giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân, cán bộ là hết sức cần thiết, nhằm tổ chức thực hiện công tác này đạt hiệu quả cao, UBND huyện ban hành quyết định công nhận đội ngũ báo cáo viên cấp huyện, kiện toàn hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của huyện xây dựng kế hoạch công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý hàng năm để các phòng, ban và UBND các xã, thị trấn triển khai thực hiện đạt hiệu quả trong công tác tuyên truyền. Bên cạnh đó, UBND huyện chủ động phối hợp với trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh tổ chức hội nghị tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý tại huyện và các xã, thị trấn, đồng thời biên soạn cấp phát tài liệu tuyên truyền các loại nhằm giúp cho toàn thể cán bộ và nhân dân nâng cao nhận thức, chấp hành pháp luật. Cụ thể: trong năm 2006, 2007 đã tổ chức được 218 hội nghị tuyên truyền cho 20.621 cán bộ, nhân dân tham dự, cấp phát 38.900 tài liệu tuyên truyền các loại, trong đó phối hợp với Thanh tra tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tổ chức 01 hội nghị tại huyện cho 200 cán bộ, công chức tham dự, biên soạn cấp phát 250 tài liệu tuyên truyền.
41 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4216 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo tại Thanh tra huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uan hành chính cấp trên thì không được khởi kiện tại Toà án.
Ngoài ra, với cơ chế giải quyết khiếu nại trên và việc quy định trình tự, thủ tục còn quá nhiều tầng nấc đã dẫn đến tình trạng giải quyết bị kéo dài, không dứt điểm, gây khó khăn cho cơ quan nhà nước và người khiếu nại, nhiều vụ việc không có điểm dừng, các cơ quan hành chính bị quá tải về số lượng vụ việc khiếu nại, tố cáo, trong khi Tòa án có rất ít vụ việc thụ lý giải quyết.
Để khắc phục những hạn chế, vướng mắc trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, đáp ứng các yêu cầu về khiếu kiện và giải quyết khiếu kiện hành chính của WTO và BTA, nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thì việc sửa đổi, bổ sung Luật Khiếu nại, tố cáo là hết sức cần thiết. Xuất phát từ yêu cầu khách quan đó, ngày 29 tháng 11 năm 2005, kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá XI đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo và Luật chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 6 năm 2006.
2. Khái niệm khiếu nại, tố cáo và một số nội dung liên quan:
2.1. Khiếu nại:
Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật Khiếu nại, tố cáo quy định đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
2.2. Tố cáo:
Tố cáo là việc công dân theo thủ tục của Luật Khiếu nại, tố cáo quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.
2.3. Một số khái niệm các nội dung liên quan:
Người khiếu nại:
Người khiếu nại là công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức thực hiện quyền khiếu nại
Cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại:
Cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại bao gồm: cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân.
Người tố cáo:
Người tố cáo là công dân thực hiện quyền tố cáo.
Người bị khiếu nại:
Người bị khiếu nại là cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật bị khiếu nại.
Người bị tố cáo:
Người bị tố cáo là cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi bị tố cáo.
Người giải quyết khiếu nại:
Người giải quyết khiếu nại là cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết khiếu nại.
Người giải quyết tố cáo:
Người giải quyết tố cáo là cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tố cáo.
Quyết định hành chính:
Quyết định hành chính là quyết định bằng văn bản của cơ quan hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính.
Hành vi hành chính:
Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật.
Quyết định kỷ luật:
Quyết định kỷ luật là quyết định bằng văn bản của người đứng đầu cơ quan, tổ chức để áp dụng một trong các hình thức kỷ luật là khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, hạ ngạch, cách chức, buộc thôi việc đối với cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý của mình theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức.
Giải quyết khiếu nại:
Giải quyết khiếu nại là việc xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết của người giải quyết khiếu nại.
Quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng:
Quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng là quyết định có hiệu lực thi hành và người khiếu nại không được quyền khiếu nại tiếp.
Quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật:
Quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật bao gồm: quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng; quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu mà trong thời hạn do pháp luật quy định người khiếu nại đã không khiếu nại tiếp hoặc không khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án; quyết định giải quyết khiếu nại lần tiếp theo mà trong thời hạn khiếu nại do luật định người khiếu nại không khiếu nại tiếp.
3. Quy trình tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo:
3.1. Quy trình tiếp công dân:
Việc tiếp công dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh là một công việc phức tạp, quá trình này một mặt đòi hỏi phải tuân thủ một cách chặt chẽ các quy định của pháp luật song một mặt khác lại luôn đặt ra yêu cầu sáng tạo, linh hoạt về mặt phương pháp, nghiệp vụ. Về mặt pháp lý, Luật Khiếu nại, tố cáo và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng chỉ quy định những nguyên tắc, yêu cầu chung nhất đối với việc tiếp công dân mà không đưa ra một trình tự, thủ tục chi tiết về hoạt động này. Do đó, nhìn chung không có một khuôn mẫu cứng nhắc và cố định cho mọi trường hợp, mà tuỳ từng điều kiện, hoàn cảnh, đối tượng cụ thể người tiếp công dân, cán bộ tiếp dân có cách tiếp công dân thích hợp. Tất nhiên việc tiếp công dân đó phải dựa trên cơ sở các nguyên tắc và đạt được mục đích mà pháp luật đề ra. Chính vì vậy, để hoàn thành được chức trách, nhiệm vụ của mình, người tiếp công dân, cán bộ tiếp dân phải thành thạo về chuyên môn, nghiệp vụ và có kiến thức tương đối sâu sắc và toàn diện về nhiều lĩnh vực từ chính sách pháp luật, công tác quản lý, cho đến văn hóa ứng xử, nghệ thuật giao tiếp và tâm lý học.
Như vậy, có thể khẳng định, trong thực tế việc tiếp công dân là hết sức đa dạng và phong phú về mặt biểu hiện và phương pháp, cách thức. Tuy nhiên, trên cơ sở các quy trình của pháp luật, có thể minh họa quy trình tiếp công dân nói chung theo mô hình tổng quát sau:
QUY TRÌNH TIẾP CÔNG DÂN
- Đọc biên bản làm việc cho người được tiếp nghe và ký xác nhận.
- Ghi nhận đầy đủ nội dung vào Sổ tiếp công dân.
- Hoàn chỉnh hồ sơ ban đầu, trình lãnh đạo, bàn giao vụ việc cho người có thẩm quyền giải quyết.
Những kiến nghị, thỉnh cầu, góp ý xây dựng chính sách, pháp luật thì hướng dẫn hoặc chuyển đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Công dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh.
Vụ việc cấp bách thì đề xuất biện pháp ngăn chặn hậu quả xấu có thể xảy ra.
Lưu trữ, quản lý hồ sơ, tài liệu tiếp công dân để phục vụ công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Những vụ việc thuộc thẩm quyền thì tiếp nhận tài liệu, hồ sơ và viết giấy biên nhận.
Làm việc với người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh.
Tiếp xúc ban đầu
Loại những người không thực hiện đúng quy định của pháp luật.
Vụ việc không thuộc thẩm quyền thì hướng dẫn người được tiếp đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
3.2. Quy trình giải quyết khiếu nại, tố cáo:
Những năm gần đây khiếu nại, tố cáo diễn biến phức tạp và là vấn đề được toàn xã hội quan tâm. Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản về khiếu nại, tố cáo như: Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 đã được sửa đổi bổ sung các năm 2004 và năm 2005, Chỉ thị 09/CT-TW ngày 06/3/2002 của Ban Bí thư về một số vấn đề cấp bách cần thực hiện trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo hiện nay, Chỉ thị số 36/2004/CT-TTg ngày 27/10/2004 của Thủ tướng Chính phủ về chấn chỉnh và tăng cường trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo…góp phần quan trọng vào giải quyết những khiếu kiện của dân, giữ vững ổn định chính trị, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Thực tế cho thấy, sau thời gian thi hành Luật Khiếu nại, tố cáo nhiều bộ, ngành, địa phương còn lúng túng trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền trách nhiệm của mình. Trong đó việc chưa có một quy trình chung trong quá trình xem xét, giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo đã đưa đến tình trạng thiếu thống nhất trong xử lý, giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính.
Tuy nhiên, trước đòi hỏi của thực tiễn công tác quản lý, mỗi cấp mỗi ngành đã giải quyết các vụ việc với quy trình, cách thức riêng của mình. Khi tiếp cận từ góc độ quy trình cho thấy với cùng một loại vụ việc các cơ quan, tổ chức khác nhau thì giải quyết với quy trình khác nhau. Với các vụ việc tương tự nhau do cùng một cơ quan, tổ chức giải quyết đôi khi lại thực hiện với những bước đi, cách làm khác nhau. Kết quả là vụ việc không được chấm dứt, làm phát sinh đùn đẩy, kéo dài… Do vậy việc nghiên cứu hoàn thiện quy trình nghiệp vụ giải quyết khiếu nại hành chính hiện nay ở nước ta là rất cần thiết. Nó có vai trò quan trọng trong định hướng và đưa ra các biện pháp nghiệp vụ để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cấp, các ngành.
MÔ TẢ QUY TRÌNH TỔNG THỂ
QUY TRÌNH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO HÀNH CHÍNH
QUY TRÌNH TIẾP CÔNG DÂN VÀ
XỬ LÝ ĐƠN THƯ
HỆ THỐNG
VĂN BẢN
VÀ
PHỤ LỤC
ĐI KÈM
QUY TRÌNH
QUY TRÌNH
QUY TRÌNH CÁC BƯỚC GIẢI QUYẾT
KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
QUY TRÌNH
QUY TRÌNH
QUY TRÌNH
QUY TRÌNH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
Phát hành công văn, quyết định
Xem và ký báo cáo đề xuất, dự thảo công văn, quyết định
Ký quyết định thụ lý đơn
Xử lý đơn
Ký công văn trả lời, quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo
Kiểm tra, trình ký
Báo cáo kết luận
Kiểm tra, xác minh
Mời bổ sung hồ sơ
Thông báo trả đơn
Đưa vào thụ lý
Phê duyệt xử lý đơn
Thông báo thụ lý đơn
Nhận và xử lý đơn
CHƯƠNG II:
CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TẠI THANH TRA
HUYỆN CHÂU ĐỨC, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU
A. KHÁI QUÁT VỀ CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA ĐỊA BÀN:
1. Đặc điểm chung của huyện Châu Đức:
Châu Đức là một huyện nông nghiệp của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Phía đông giáp huyện Xuyên Mộc, phía tây giáp huyện Tân Thành, phía nam giáp huyện Long Đất và Thị xã Bà Rịa, phía bắc giáp với huyện Long Khánh (tỉnh Đồng Nai). Diện tích đất tự nhiên là 422,59 km2, dân số khoảng 165.600 người (theo số liệu thống kê năm 2008). Huyện có 16 đơn vị hành chính gồm: xã Nghĩa Thành, xã Suối Nghệ, xã Đá Bạc, xã Suối Rao, xã Bình Ba, xã Bình Trung, xã Bình Giã, xã Xuân Sơn, xã Sơn Bình, xã Quảng Thành, xã Bàu Chinh, xã Xà Bang, xã Kim Long, xã Láng Lớn, xã Cù Bị và Thị trấn Ngãi Giao. Thị trấn Ngãi Giao là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của toàn huyện Châu Đức, các cơ quan hành chính của huyện đều tập trung ở thị trấn này. Hầu hết đất đai của huyện là đất đỏ, vàng và đen trên nền đất Bazan (chiếm tỉ lệ 85,8% tổng diện tích đất). Thu nhập từ nông nghiệp là nguồn thu chính của huyện, giá trị sản xuất hàng năm khoảng 400 tỷ đồng, chiếm tỉ lệ 34,4% tổng số toàn tỉnh. Về hạ tầng kỹ thuật, huyện Châu Đức có nhiều hồ thuỷ lợi để tưới tiêu cho nông nghiệp như: hồ Tầm Bó, hồ Suối Giàu, hồ Kim Long, hồ Đá Đen…điện và đường nhựa, đường bê tông nông thôn đã đáp ứng yêu cầu tất cả các xã, đặc biệt là các xã vùng sâu, vùng xa của huyện.
Trong những năm gần đây, trên địa bàn huyện Châu Đức đơn thư khiếu nại, tố cáo của người dân tăng khá nhanh do quá trình đô thị hoá, công tác mở đường, xây dựng các công trình mới, triển khai thực hiện nhiều dự án trên địa bàn huyện. Trong quá trình giải phóng mặt bằng để thực hiện các dự án, nhờ làm tốt công tác tuyên truyền vận động, cơ bản tuân thủ các quy định pháp luật có liên quan nên được nhân dân đồng tình, nhất trí cao. Tuy vậy, ở một số công trình, dự án do việc đền bù giải phóng mặt bằng chưa thỏa đáng, áp giá đền bù còn thiếu chính xác, còn thiếu công khai minh bạch. Công tác quản lý đất đai ở một số địa phương chưa thật chặt chẽ đã dẫn đến những vi phạm về luật đất đai, phát sinh tranh chấp trong nội bộ nhân dân là nguyên nhân làm cho đơn thư khiếu nại, tố cáo tăng lên trong những năm qua trên địa bàn huyện Châu Đức.
2. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện Châu Đức:
Thanh tra huyện Châu Đức là cơ quan chuyên môn của UBND huyện Châu Đức, có trách nhiệm tham mưu giúp UBND huyện quản lý nhà nước về công tác thanh tra kinh tế - xã hội và thanh tra xem xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn huyện. Nhằm mục đích phòng ngừa, phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp sai phạm (nếu có), đồng thời phát huy nhân tố tích cực góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo đúng quy định của pháp luật. Trong đó, việc thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo là một nhiệm vụ quan trọng trong công tác quản lý hành chính nhà nước hiện nay.
Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thanh tra huyện Châu Đức có vai trò quan trọng đối với công tác quản lý nhà nước trên địa bàn huyện. Từ khi Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo năm 2004, năm 2005 được Quốc hội ban hành đã giúp công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo được hiệu quả hơn. Trong quá trình thực hiện công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo tại địa phương có những thuận lợi, khó khăn cũng như những vướng mắc cần phải giải quyết đúng theo quy định của pháp luật mà vẫn phù hợp với đặc thù của địa phương.
Hiện nay Thanh tra huyện Châu Đức gồm có Chánh thanh tra, Phó Chánh thanh tra và 03 thanh tra viên. Với đội ngũ cán bộ, công chức như vậy là còn rất thiếu so với yêu cầu, đòi hỏi của việc giải quyết khối lượng công tác nghiệp vụ tại địa bàn huyện. Hướng đi của Thanh tra huyện trong thời gian tới là đi đôi với việc đảm bảo công tác chuyên môn, đơn vị tiếp tục củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của ngành thanh tra, phối hợp với các ngành có liên quan đẩy mạnh công tác bồi dưỡng và đào tạo nghiệp vụ chuyên môn nhằm chuẩn hoá đội ngũ cán bộ, thanh tra viên để đáp ứng được các yêu cầu đổi mới trong giai đoạn hiện nay và nâng cao chất lượng trong giải quyết khiếu nại, tố cáo cũng như thanh tra kinh tế - xã hội trên địa bàn.
B. TÌNH HÌNH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TẠI THANH TRA HUYỆN CHÂU ĐỨC, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU:
1. Tình hình khiếu nại, tố cáo trên địa bàn huyện Châu Đức:
1.1. Tình hình chung:
Được sự chỉ đạo thường xuyên của UBND tỉnh, sự phối hợp, hướng dẫn, mở các hội nghị tập huấn các văn bản mới cho cán bộ, công chức làm chuyên môn nghiệp vụ của ngành đã được Thanh tra tỉnh quan tâm, cộng với sự lãnh đạo sâu sát của Thường trực huyện ủy, giám sát chặt chẽ của HĐND huyện và sự nổ lực phấn đấu của các ngành, các cấp, nên công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo tại huyện đã từng bước đi vào nề nếp, đồng thời trình độ nhận thức pháp luật của nhân dân thông qua các hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật và trực tiếp đối thoại khi giải quyết các vụ việc đã tác động tích cực đến khiếu nại, tố cáo của công dân.
Sau khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo ngày 15/6/2004, Nghị định số 53/2005/NĐ-CP ngày 19/4/2005 của Chính phủ và Nghị định số 136/NĐ-CP ngày 14/11/2006 của Chính phủ có hiệu lực thi hành. UBND huyện đã tổ chức triển khai hội nghị cho cán bộ, công chức làm công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo với hơn 200 lượt người tham dự, đồng thời thực hiện chỉ thị số 05/2005/CT-UBND ngày 27/01/2005 chỉ đạo triển khai thực hiện công tác này. Tiếp đó ngày 15/10/2007, UBND huyện ra quyết định 2022/QĐ-UBND thành lập Đoàn kiểm tra trách nhiệm của Chủ tịch UBND các xã, thị trấn trong công tác tiếp công dân, mục đích của đợt kiểm tra này là nhằm chấn chỉnh và hướng dẫn cho các xã, thị trấn thực hiện tốt công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.
Công tác truyên truyền, phổ biến pháp luật về khiếu nại, tố cáo trong cơ quan, tổ chức và nhân dân: để đưa pháp luật đi vào thực tiễn cuộc sống, việc phổ biến giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân, cán bộ là hết sức cần thiết, nhằm tổ chức thực hiện công tác này đạt hiệu quả cao, UBND huyện ban hành quyết định công nhận đội ngũ báo cáo viên cấp huyện, kiện toàn hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của huyện xây dựng kế hoạch công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý hàng năm để các phòng, ban và UBND các xã, thị trấn triển khai thực hiện đạt hiệu quả trong công tác tuyên truyền. Bên cạnh đó, UBND huyện chủ động phối hợp với trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh tổ chức hội nghị tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý tại huyện và các xã, thị trấn, đồng thời biên soạn cấp phát tài liệu tuyên truyền các loại nhằm giúp cho toàn thể cán bộ và nhân dân nâng cao nhận thức, chấp hành pháp luật. Cụ thể: trong năm 2006, 2007 đã tổ chức được 218 hội nghị tuyên truyền cho 20.621 cán bộ, nhân dân tham dự, cấp phát 38.900 tài liệu tuyên truyền các loại, trong đó phối hợp với Thanh tra tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tổ chức 01 hội nghị tại huyện cho 200 cán bộ, công chức tham dự, biên soạn cấp phát 250 tài liệu tuyên truyền.
Công tác hòa giải ở cơ sở: hiện 16 xã, thị trấn trên địa bàn huyện đã thành lập kiện toàn và củng cố 16 hội đồng tư vấn giải quyết tranh chấp đất đai gồm 128 thành viên và 114 tổ hòa giải ở cơ sở, gồm 798 thành viên. Hoạt động của các tổ hòa giải thường xuyên được duy trì hướng dẫn nghiệp vụ, cung cấp các văn bản pháp luật, do đó hiệu quả hoạt động ngày một nâng cao, hạn chế tối đa những vụ việc có mâu thuẫn nhỏ trở nên lớn, đơn giản thành phức tạp, góp phần ổn định tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội tại địa phương.
Công tác thanh tra kinh tế - xã hội được thực hiện khá tốt, từ năm 2004 đến quý I năm 2009 Thanh tra huyện đã tiến hành 24 đợt thanh tra kinh tế - xã hội trên địa bàn, góp phần ổn định đời sống của người dân, đảm bảo trật tự và an toàn xã hội.
Đối với công tác thanh kiểm tra về lĩnh vực khiếu nại, tố cáo: Thanh tra huyện xem đây là nhiệm vụ trọng tâm, đã được đưa vào chương trình công tác thường xuyên hàng năm, ít nhất trong năm tham mưu cho UBND huyện ban hành một quyết định thành lập Đoàn thanh tra công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với trách nhiệm của Chủ tịch UBND các xã, thị trấn trên địa bàn huyện. Qua công tác thanh kiểm tra giải quyết khiếu nại, tố cáo đã chấn chỉnh những thiếu sót, vướng mắc có đánh giá kết quả đã làm được, chưa được để rút kinh nghiệm trong công tác, đồng thời hướng dẫn cho cán bộ chuyên môn làm công tác này thực hiện theo đúng các quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo và Nghị định 136/NĐ-CP của Chính phủ.
Về việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo: Thanh tra tỉnh đã tổ chức 01 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ về công tác tiếp nhận và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, đồng thời cũng đã trang bị phần mềm quản lý đối với lĩnh vực này. Trong năm 2007, Thanh tra huyện có một công chức được đào tạo lớp Thanh tra viên chính, bên cạnh đó các cán bộ công chức trong cơ quan không ngừng nỗ lực phấn đấu trau dồi kiến thức, nâng cao trình độ để đáp ứng công tác chuyên môn.
Công tác tổ chức tiếp công dân:
- Cơ sở vật chất phục vụ cho công tác tiếp công dân và công tác hồ sơ, sổ sách: Thực hiện các quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo đã được sửa đổi bổ sung ngày 15/6/2004 và Nghị định số 53/2005/NĐ-CP ngày 19/4/2005 của Chính phủ và Nghị định số 136/NĐ-CP ngày 14/11/2006. UBND huyện luôn quan tâm tạo điều kiện và đảm bảo cơ sở vật chất để phục vụ công tác tiếp dân. Đến nay tại huyện và các xã, thị trấn đều bố trí địa điểm tiếp công dân thuận lợi, có bàn ghế, nước uống đầy đủ, nơi tiếp công dân của huyện được bố trí tại trụ sở mới của UBND huyện mở rộng, có diện tích khoảng 36m2 được trang bị đầy đủ bàn ghế, nước uống cho công dân, có nội quy niêm yết công khai và hệ thống sổ sách như: sổ tiếp dân dành cho lãnh đạo, sổ tiếp dân của cán bộ, sổ nhận đơn thư tổng hợp, sổ thụ lý đơn thư thuộc thẩm quyền của UBND huyện, phiếu nhận đơn và phiếu hướng dẫn.
- Việc bố trí biên chế, nhân sự phụ trách tiếp công dân: do việc phân bổ biên chế hiện nay còn hạn chế, trong thời gian qua tại bộ phận tiếp công dân của huyện chỉ bố trí được 01 cán bộ thường trực làm công tác tiếp công dân, đồng thời UBND huyện cũng đã phân công ủy viên UBND huyện là Chánh văn phòng HĐND và UBND huyện trực tiếp theo dõi công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo để giúp Chủ tịch UBND huyện trong điều hành, chỉ đạo công tác này.
- Kết quả thực hiện trong việc tiếp công dân: Trên cơ sở xác định công tác tiếp công dân theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo quy định tại các Điều 74, 75 và 76 về trách nhiệm của Chủ tịch UBND huyện trong việc tiếp công dân: do cùng lúc phải chỉ đạo điều hành nhiều công việc nên việc bố trí lịch tiếp công dân chưa được thường xuyên theo quy định, mà tùy tình hình và tính chất từng vụ việc cụ thể hoặc phân công cho Phó chủ tịch phụ trách khối, Chánh văn phòng, Phó chánh văn phòng để thực hiện việc tiếp công dân nhằm giải quyết những thắc mắc, khiếu nại, tố cáo của công dân. Từ năm 2004 đến quý I năm 2009 tổng số công dân được tiếp là 1.633 luợt công dân (trong đó các cấp lãnh đạo tiếp 148 lượt công dân, tại bộ phận tiếp dân HĐND và UBND huyện tiếp 782 lượt công dân, Thanh tra huyện tiếp 703 lượt công dân). Ngoài ra trong làm việc hàng ngày Chủ tịch và Phó chủ tịch UBND huyện cũng thường xuyên tiếp công dân tại phòng làm việc, tuy nhiên việc tiếp này chỉ dừng lại ở mức ghi nhận các ý kiến của nhân dân để chỉ đạo giải quyết và trả lời bằng văn bản nên không lập biên bản tiếp dân và thể hiện số liệu tiếp dân của thủ trưởng đơn vị.
Hiện nay tình hình công tác tiếp công dân và lĩnh vực khiếu nại nhiều nhất là khiếu nại về bồi thường, giải tỏa và chính sách tái định cư vì địa bàn mới thành lập nên việc mở rộng xây dựng các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng nhiều, ảnh hưởng đến quá trình thu hồi đất của dân, dẫn đến việc phát sinh khiếu nại (vì sau khi Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ, Quyết định số 760/2005/ QĐ-UBND ngày 10/3/2005 của UBND tỉnh được ban hành thì thẩm quyền giải quyết khiếu nại về bồi thường thuộc thẩm quyền của UBND huyện nên số vụ khiếu nại quyết định hành chính về bồi thường ngày càng có chiều hướng gia tăng).
1.2. Tình hình giải quyết khiếu nại, tố cáo tại Thanh tra huyện Châu Đức:
1.2.1. Tình hình giải quyết khiếu nại:
Từ khi Luật Khiếu nại, tố cáo có hiệu lực thi hành từ ngày 01/06/2006 đến nay, Thanh tra huyện đã tiếp nhận nguồn đơn thư khiếu nại phát sinh nhiều ở lĩnh vực nhà đất như tranh chấp, lấn chiếm, vi phạm xây dựng, đền bù, giải toả mặt bằng thuộc nhiều công trình, dự án trên địa bàn huyện. Ngoài ra, còn có đơn khiếu nại thuộc các lĩnh vực khác như: môi trường, vi phạm quyền sở hữu công nghiệp, văn hoá và dịch vụ văn hoá…
Tổng số đơn khiếu nại tiếp nhận từ năm 2004 đến quý I năm 2009 thuộc thẩm quyền giải quyết của Thanh tra huyện là 705 vụ khiếu nại. Trong đó đã giải quyết xong 597 đơn, chiếm tỉ lệ 84,6%; 108 đơn còn lại Thanh tra huyện đã tiến hành đối thoại và đang gấp rút hoàn thành để báo cáo UBND huyện xem xét, quyết định xử lý.
Phân loại khiếu nại theo từng lĩnh vực như đất đai, chế độ chính sách, phân loại theo khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính:
+ Về lĩnh vực đất đai gồm: 679 vụ;
+ Về chế độ chính sách: 12 vụ;
+ Về hành vi hành chính: 14 vụ.
Số vụ việc khiếu nại đúng, đúng một phần, khiếu nại sai toàn bộ:
+ Khiếu nại đúng: 103 vụ;
+ Khiếu nại đúng một phần: 112 vụ;
+ Khiếu nại sai toàn bộ: 490 vụ.
Trong năm 2004 đến quý I năm 2009 có 08 vụ khiếu nại đông người gồm: 06 vụ ở xã Sơn Bình với số lượng khiếu nại tập trung lần lượt là 25 hộ, 15 hộ, 45 hộ, 06 hộ, 48 hộ và 75 hộ dân khiếu nại về quyết định bồi thường, hỗ trợ giá đất, giá cây trồng, hỗ trợ tái định cư…trong dự án xây dựng hồ chứa nước Sông Ray; vụ 12 hộ dân ở Suối Rao; vụ 05 hộ dân ngụ tại xã Hoà Bình, huyện Xuyên Mộc, nội dung là tranh chấp đất rừng dự án 711, kiến nghị việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, vụ việc này UBND huyện đã thành lập Đoàn kiểm tra để giải quyết tranh chấp của các hộ, đồng thời vận động các hộ dân trong thời gian chờ các ngành chức năng giải quyết không được lấn chiếm đất. Qua kiểm tra đã phát hiện có một số hộ dân nhận hợp đồng trồng rừng đã sang nhượng lại hợp đồng cho nhiều hộ khác, các hộ đến tranh chấp, lấn chiếm đất dẫn đến xô xát. Vụ việc này, ngày 22/5/2007 UBND tỉnh có chỉ đạo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với UBND huyện rà soát việc lấn chiếm đất Dự án 711 tại xã Suối Rao. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tổ chức cuộc họp các ngành của tỉnh và huyện để bàn biện pháp giải quyết. Tuy nhiên do vụ việc phức tạp, số hộ hợp đồng chăm sóc bảo vệ rừng đã chuyển nhượng qua nhiều giai đoạn khác nhau, việc ký kết hợp đồng chăm sóc bảo vệ rừng trước đây không thể hiện đầy đủ ranh giới, diện tích, còn các hộ dân đến tranh chấp, lấn chiếm đất với số hộ đông. Vì vậy cần phải thành lập Đoàn để thanh tra làm rõ, xử lý dứt điểm, không để vụ việc càng thêm phức tạp. Do việc giải quyết vượt thẩm quyền của huyện, nên ngày 27/6/2007 UBND huyện đã có công văn số 1121/UBND-VP đề nghị UBND tỉnh thành lập Đoàn Thanh tra liên ngành giải quyết việc khiếu nại, tranh chấp đất rừng Dự án 711. Đồng thời ngày 22/6/2007 Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng đã có công văn số 513/SNN-LN kiến nghị UBND tỉnh thành lập Đoàn Thanh tra đất đai để giả
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- k6_bc_cong tac giai quyet khieu nai to cao_chau duc.doc