Đề tài Công tác quản lý hoạt động đầu tư tại Ban quản lý dự án quận Long Biên: thực trạng và giải pháp

Nội dung Trang

Mục lục 1

A.Lời nói đầu 3

B. Nội dung 5

Chương I: Thực trạng quản lý hoạt động đầu tư tại

BQLDA Quận Long Biờn 5

I.Giới thiệu chung về Ban quản lý dự ỏn quận Long Biờn 5

1.Quỏ trỡnh hỡnh thành Ban quản lý dự ỏn quận Long Biờn 5

2.Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của

Ban quản lý dự ỏn quận Long Biờn 6

3.Cơ cấu tổ chức của Ban quản lý dự ỏn quận Long Biờn 8

II.Thực trạng công tác quản lý hoạt động đầu tư tại

Ban quản lý dự ỏn quận Long Biờn 14

1.Quy trỡnh thực hiện một dự ỏn đầu tư tại

Ban quản lý dự ỏn quận Long Biờn 14

2.Thực trạng cụng tỏc lập dự ỏn 20

3.Thực trạng công tác tổ chức đấu thầu 25

4.Thực trạng cụng tỏc giải phúng mặt bằng 32

5.Thực trạng cụng tỏc quản lý dự ỏn 37

6.Thực trạng cỏc cụng tỏc khỏc 40

III.Những mặt cũn tồn tại trong công tác quản lý hoạt động

đầu tư tại Ban quản lý dự ỏn quận Long Biờn và nguyờn nhõn 41

1.Tồn tại trong cụng tỏc lập dự ỏn 41

2.Tồn tại trong công tác đấu thầu 45

3.Tồn tại trong cụng tỏc giải phúng mặt bằng 48

 

doc76 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1369 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Công tác quản lý hoạt động đầu tư tại Ban quản lý dự án quận Long Biên: thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác công trình nhỏ, công trình cải tạo,nâng cấp, công tác GPMB có thể được giao cho chính quyền địa phương thực hiện. Được sự chỉ đạo sát sao cũng như quyết tâm và kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ Ban quản lý dự án quận Long Biên, công tác GPMB trong hai năm qua đã được thực hiện với kết quả khả quan. Ta xem bảng số liệu sau: Năm Số dự án thực hiện trong năm Số dự án phải GPMB Số dự án còn vướng mắc về GPMB 2004 87 27 9 2005 96 45 14 (Nguồn: Ban quản lý dự án quận Long Biên). Qua bảng số liệu trên chúng ta thấy, số dự án thực hiện tăng qua các năm. Số dự án phải GPMB cũng tăng cả về số tuyệt đối lẫn số tương đối. Năm 2004 là 27 dự án, chiếm 31.04%. Năm 2005 là 45 dự án, chiếm 46.87%. Tuy rằng số dự án vướng về GPMB có tăng song xét trên tỷ lệ so với số dự án phải GPMB thì lại giảm. Năm 2004 có 9 dự án bị vướng mắc, chiếm 33.33%. Năm 2005 có 14 dự án vướng mắc, chiếm 31.11%. Nguyên nhân là do, năm 2005 Ban phải thực hiện nhiều dự án hơn, số dự án có GPMB cũng tăng. Do vậy, không thể tránh khỏi tăng số dự án có vướng lmắc về GPMB, nhất là trong điều kiện chính sách, chế độ chưa ổn định như hiện nay. Tuy nhiên, xét theo tỷ lệ thì giảm chứng tỏ, Ban đã thực hiện nghiêm túc, triệt để, đúng luật, nên các dự án được thực hiện suôn sẻ. Về giải ngân vốn: Ta xem bảng số liệu về tình hình giải ngân vốn cho công tác giải phóng mặt bằng dưới đây. Năm Tổng số vốn giải ngân (tỷ đồng) Số tiền chi cho công tác GPMB (tỷ đồng) Số hộ dân được đền bù, GPMB ( hộ) 2004 97 62 1087 2005 120 79 1339 (Nguồn: Ban quản lý dự án quận Long Biên). Qua bảng này, ta thấy, số tiền chi cho công tác GPMB tăng qua các năm cả về số tuyệt đối lẫn số tương đối. Năm 2004 là 62 tỷ đồng, chiếm 64% tổng số vốn được giải ngân. Năm 2005 là 79 tỷ đồng, chiếm 65.8% tổng số vốn được giải ngân. Điều này cho thấy sự quan tâm cũng như vai trò và tầm quan trọng của công tác GPMB. Tính trung bình một hộ dân năm 2004 nhận được 57.04 triệu đồng thì đến năm 2005 con số này đã tăng lên là 59 triệu đồng. Điều này cho thấy, người dân ngày càng được đền bù cao hơn, xứng đáng hơn với những gì họ phải mất đi khi có dự án GPMB. Qua các bảng số liệu nêu trên chúng ta thấy rằng, công tác GPMB ở Ban quản lý dự án quận Long Biên, tuy rằng còn một số vướng mắc, song nhìn chung, đã được thực hiện tốt, đúng luật, đúng chính sách. Những vướng mắc đó chỉ là thiểu số, không phải là vấn đề lớn và sẽ được giải quyết trong thời gian tới. Theo đánh giá của Thành phố và của Quận, công tác GPMB đã được Ban quản lý dự án quận Long Biên thực hiện đúng luật, hợp lý, hợp lòng dân. Trong hai năm qua, Ban đã không để xảy ra khiếu kiện vượt cấp. 5.Công tác quản lý dự án. Công tác quản lý dự án là một trong những công tác chính tại Ban quản lý dự án quận Long Biên. Xuất phát từ đặc thù các dự án tại Ban là các dự án xây dựng. Do vậy, quản lý việc thực hiện các dự án này là yêu cầu quan trọng. Nội dung của công tác quản lý dự án tại Ban quản lý dự án quận Long Biên gồm có: Thay mặt UBND Quận Long Biên đứng ra quản lý, giám sát việc thi công công trình. Giám sát công trình về mặt tiến độ, chi phí và chất lượng. Tham mưu cho Quận về các vấn đề thực hiện dự án. Tuy vậy, hoạt động quản lý dự án ở đây có những điểm giống và khác so với nội dung được học như sau: Về điểm giống nhau: Thứ nhất, hoạt động quản lý ở đây cũng nhắm tới ba mục tiêu chính. Đó là thời gian, chi phí và chất lượng. Tức là phải đảm bảo công trình đạt được các tiêu chuẩn đã xác định trong thiết kế cơ sở, theo quy chuẩn xây dựng mà nhà nước đặt ra.v.v. Trong khi đó, phải đảm bảo rằng, chi phí thực hiện dự án nằm trong kế hoạch vốn đầu tư đã được phê duyệt. Thời gian để dự án được hoàn thành phải đúng theo kế hoạch đã đăng ký với UBND quận. Thứ hai, trong quá trình quản lý Ban có sử dụng một số kỹ thuật của quản lý dự án như biểu đồ GANTT Về điểm khác nhau: Thứ nhất, Ban quản lý dự án quận Long Biên không trực tiếp quản lý mọi hoạt động thực hiện dự án. Khi dự án được khởi công, việc giám sát, quản lý dự án được giao cho một đơn vị tư vấn giám sát thực hiện. Đơn vị này sẽ thực hiện nhiệm vụ giám sát về mặt chất lượng cũng như tiến độ. Ban lúc này chỉ thực hiện giám sát về chi phí. Đảm bảo rằng, các chi phí của dự án là hợp lý và không bị thất thoát, lãng phí. Thứ hai, do đặc thù các công trình được thực hiện đa phần là các công trình nhỏ, tương tự nhau. Do vậy, việc giám sát, kiểm tra, ,đôn đốc các đơn vị có liên quan trong việc thực hiện dự án được giao cho một hoặc vài cán bộ đảm nhiệm. Họ sẽ có trách nhiệm xuống công trường định kỳ để kiểm tra việc thực hiện các hạng mục, đánh giá việc thực hiện có đảm bảo tiến độ, chất lượng, nghe báo cáo của đơn vị giám sát, báo cáo lại với lãnh đạo Ban. Thứ ba, trong quá trình quản lý dự án, do tính chất các dự án nhỏ, tương tự nhau nên việc quản lý chi phí và thời gian khá đơn giản. Thời gian để thực hiện các dự án này hầu hết đã được tối ưu hoá. Chi phí cũng như vậy. Do vậy, các kỹ thuật về rút ngắn tiến độ thực hiện dự án, điều chỉnh chi phí thực hiện dự án hầu như không được áp dụng. Mối quan hệ giữa các bên trong quá trình thực hiện dự án được mô hình hoá như sau: Đơn vị thi công Tư vấn giám sát Ban quản lý dự án UBND Quận (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) Giải thích: (1): UBND quận chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động của Ban. (2): Ban có nhiệm vụ báo cáo công việc cho Quận. (3): Tư vấn có nhiệm vụ báo cáo tiến độ, tham mưu cho Ban về kỹ thuật. (4): Ban chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện dự án theo tiến độ, chất lượng. (5): Ban kiểm tra trực tiếp việc thi công của đơn vị thi công. (6): Đơn vị thi công thông báo trực tiếp với Ban về những vướng mắc,khó khăn trong quá trình thi công. (7): Tư vấn thực hiện nhiệm vụ giám sát về mặt kỹ thuật. (8): Đơn vị thi công có nhiệm vụ báo cáo với đơn vị giám sát việc thực hiện theo tiến độ, kỹ thuật thi công. Về tình hình quản lý dự án trong thời gian qua, chúng ta xem bảng sau: Năm Số dự án thực hiện Số dự hoàn thành sớm Số dự án chậm tiến độ Số dự án phải điều chỉnh tăng quyết toán 2004 87 12 7 6 2005 96 23 5 8 (Nguồn: Ban quản lý dự án quận Long Biên). Qua bảng trên chúng ta thấy, số dự án hoàn thành sớm năm sau cao hơn năm trước cả về số tương đối và tuyệt đối. Năm 2004 là 12 dự án chiếm 14%. Năm 2005 là 23 dự án chiếm 24%. Có được kết quả này là do sự nỗ lực của các cán bộ trong Ban. Đồng thời, nhờ cơ cấu tổ chức được hoàn thiện và ổn định nên tạo điều kiện cho công tác quản lý dự án được thực hiện tốt. Số dự án chậm tiến độ giảm ( từ 7 dự án năm 2004 xuống còn 5 dự án năm 2005) trong điều kiện số dự án phải thực hiện tăng. Đây là một bằng chứng chứng minh sự tiến bộ trong công tác quản lý dư án của Ban. Năng lực quản lý của Ban rõ ràng đã được tăng lên. Tuy nhiên, có một số dự án phải điều chỉnh quyết toán. Năm 2004 có 6 dự án, chiếm 7%. Năm 2005 có 8 dự án chiếm 8%. Nguyên nhân là do trong giai đoạn giữa năm 2004 và 2005, có một số biến động về giá cả vật liệu xây dựng. Điều này dẫn đến sự thay đổi về chi phí. Tuy nhiên, tỷ lệ này nhỏ, không dáng ngại lắm. 6.Các công tác khác. Trong các năm qua, công tác thanh quyết toán vốn đầu tư được Ban thực hiện theo đúng quy định. Ban thanh toán đúng, đủ cho các nhà thầu theo đúng kế hoạch đã thoả thuận. Ngay khi có vốn giải ngân từ ngân sách của Quận và Thành phố, Ban sẽ xây dựng kế hoạch để thanh toán vốn. Công tác bồi thường thanh toán tiền cho người dân trong diện GPMB cũng được thực hiện nhanh chóng, thuận tiện. Người dân được thanh toán nhanh chóng, đúng luật, không có sách nhiễu phiền hà. Công tác thanh, kiểm tra, giám sát dự án được Ban thực hiện đầy đủ, định kỳ. Đối với mỗi dự án, sau khi hoàn thành những hạng mục nhất định sẽ tiến hành họp để đơn vị thực hiện cũng như cán bộ quản lý của Ban báo cáo về tình hình thực hiện dự án. Trong quá trình thực hiện dự án, lãnh đạo Ban cũng thường xuyên xuống tận công trường để kiểm tra. Các mẫu, chủng loại bêtông, cốt thép, đều được đem đi thí nghiệm, kiểm định để xác định được chất lượng của công trình. Do vậy, trong 2 năm qua, không có công trình nào xảy ra sự cố về chất lượng. Công tác thanh tra đảm bảo tính minh bạch, công khai và công bằng, không cản trở đến hoạt động của đơn vị thi công. Về bộ máy tổ chức và nhân sự của Ban, sau 2 năm hoạt động về cơ bản đã ổn định và đáp ứng được yêu cầu công việc. Chế độ chính sách, lương thưởng được thực hiện đầy đủ, giúp cho đội ngũ cán bộ yên tâm công tác, có trách nhiệm với công việc. Đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ trong Ban cũng được quan tâm đầy đủ. III.NHỮNG MẶT CÒN TỒN TẠI TRONG CÔNG TÁC QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TẠI BAN QUẢN LÝ DỰ ÁN QUẬN LONG BIÊN VÀ NGUYÊN NHÂN. 1.Tồn tại trong công tác lập dự án và chuẩn bị đầu tư. Công tác lập dự án là một trong những khâu bắt buộc đối với mọi dự án. Các dự án tại Ban quản lý dự án quận Long Biên cũng phải thực hiện công tác này. Trong quá trình thực hiện công tác này, đã xuất hiện một số tồn tại sau: Thứ nhất, công tác lập dự án( lập báo cáo kinh tế kỹ thuật, dự án đầu tư) tại Ban quản lý dự án quận Long Biên được ký hợp đồng giao cho một đơn vị tư vấn thực hiện. Sau 2 năm thành lập, Ban vẫn chưa có đủ khả năng để tự đứng ra lập dự án đầu tư. Một số đơn vị thường xuyên hợp tác với Ban quản lý dự án quận Long Biên trong công tác lập dự án đó là công ty tránh nhiệm hữu hạn Giao thông Vận tải, công ty tư vấn thiết kế và xây dựng Hà Nội. Nguyên nhân của tình trạng này đó là : Nguyên nhân thứ nhất, Ban quản lý dự án quận Long Biên mới thành lập được 2 năm. Trong điều kiện Quận Long Biên cũng mới được thành lập, có nhiều dự án phải thực hiện để xây dựng, chỉnh trang bộ mặt của Quận cho xứng đáng là một Quận nội thành của Thủ đô. Do vậy, có rất nhiều dự án cần thực hiện trong điều kiện số cán bố có hạn. Ta xem bảng sau: Bảng đối chiếu số dự án và số cán bộ hiện có tại Ban. Năm Số dự án trong năm Số cán bộ có Số dự án trên một cán bộ 2004 107 17 6 2005 117 22 5 (Nguồn: Ban quản lý dự án quận Long Biên). Qua bảng trên cho thấy, mặc dù số dự án trung bình một cán bộ phải đảm nhiêm năm 2005 đã giảm so với năm 2004 nhưng vẫn còn ở tỷ lệ rất cao. Điều này lý giải tại sao Ban quản lý dự án quận Long Biên không thể bố trí cán bộ để tự thực hiện công tác lập dự án. Nguyên nhân thứ hai, đội ngũ cán bộ của Ban đa phần là những cán bộ kỹ thuật, chưa được đào tạo bài bản về kiến thức lập dự án. Ta có thể thấy thông qua bảng danh sách cán bộ Ban quản lý dự án quận Long Biên. Những kiến thức mà họ có được chỉ là thông qua kinh nghiệm công tác. Do vậy, ban vẫn chưa có đủ khả năng để tự lập dự án. Thứ hai, trong các dự án được lập, nội dung các dự án còn thiếu một số nội dung. Đó là chưa nghiên cứu khía cạnh hiệu quả kinh tế xã hội của dự án. Đối với dự án công ích, việc phân tích khía cạnh tài chính là không cần thiết song vì là dự án mang tính xã hội, sử dung vốn ngân sách nhà nước nên cần phải chứng minh được tính hiệu quả đối với xã hội mà nó đem lại.Đó là cơ sở xác định xem đồng vốn Nhà nước bỏ ra có được sử dụng hiệu quả hay không. Một nội dung khác cũng thiếu trong các dự án đã được lập là chưa xác định được kế hoạch quản lý dự án, chưa lường trước những rủi ro có thể xảy ra trong quá trình thực hiện dự án. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này đó là do: Nguyên nhân thứ nhất, bản thân cơ quan có chức năng thẩm định hồ sơ dự án cũng chưa ý thức đầy đủ tầm quan trọng của các nội dung trên. Họ đều cho rằng, với các dự án công ích không cần phải xác định các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế xã hội.Họ cho rằng với loại dự án này chỉ cần chú trọng vào yếu tố kỹ thuật và chất lượng, tiến độ của dự án. Do vậy, khi dự án được trình lên, không cần có các chỉ tiêu này dự án vẫn có thể được thông qua. Nguyên nhân thứ hai, bản thân đơn vị tư vấn lập dự án là đơn vị hoạt động trong lĩnh vực kỹ thuật lâu năm. Đồng thời, các cán bộ của Ban quản lý dự án quận Long Biên đều là những cán bộ kỹ thuật, không được đào tạo về kỹ năng lập, tính toán các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế xã hội. Do vậy, khi lập dự án họ đã “lờ” đi nội dung này. Tất nhiên, cũng phải kể đến việc các văn bản pháp quy hiện nay chưa đưa những nội dung này trở thành nội dung bắt buộc khi lập dự án. Tất cả những điều đó đã khiến cho những dự án được lập ở đây hiện nay, có nội dung khá đơn giản, mang tính kỹ thuật là chủ yếu. Thứ ba, công tác xin phê duyệt dự án cũng gặp phải một số vướng mắc dẫn đến làm chậm tiến độ lập dự án. Những vướng mắc này nằm ở khẩu thẩm định và phê duyệt của các cơ quan có chức năng. Chúng là: Một số thuật ngữ trong quy trình hướng dẫn lập và thẩm định dự án đầu tư do UBND Quận Long Biên ban hành còn chưa rõ ràng, khiến người đọc hiểu nhầm. Khi tiến hành xin giới thiệu địa điểm thì sở Quy hoạch Kiến trúc lại yêu cầu quyết định giao nhiệm vụ chuẩn bị đầu tư trong khi sở Kế hoạch Đầu tư chỉ giao quyết định giao nhiệm vụ chuẩn bị đầu tư khi có địa điểm cấp đất. Đây thực là một vòng luẩn quẩn ảnh hưởng tới công tác chuẩn bị dự án đầu tư. Việc giải ngân cho quá trình lập dự án cũng gặp khó khăn. Việc này chỉ được thực hiện khi mà cấp có thẩm quyền phê duyệt và thẩm định. Song vì nếu không thanh toán thì một số cơ quan như công ty địa chính, viện Quy hoạch xây dựng.v.v. lại không trả kết quả lập dự án. Do vậy, không thể tiến hành thủ tục để xin thẩm định dự án. Điều này khiến cho Ban gặp khó khăn trong việc đảm bảo tiến độ của công tác lập dự án cũng như tiến độ của cả dự án. 2. Tồn tại trong công tác tổ chức đấu thầu. Công tác đấu thầu trong 2 năm qua tuy đạt được nhiều kết quả tốt, song cũng còn một số tồn tại cần phải giải quyết trong thời gian tới. Cụ thể như: Thứ nhất, cũng giống như công tác lập dự án, công tác lập hồ sơ mời thầu, chấm thầu hiện nay vẫn phải đi thuê các công ty tư vấn thực hiện. Ban quản lý dự án quận Long Biên hiện chỉ đảm đương được công tác tổ chức phiên đấu thầu, và tiến hành các thủ tục pháp lý của quá trình đấu thầu: lập biên bản đấu thầu, lập và xin phê duyệt kế hoạch đấu thầu, phê duyệt kết quả đấu thầu, ký hợp đồng với nhà thầu trúng thầu. Những tồn tại này sẽ ảnh hưởng tới chi phí, tính chính xác của công tác đấu thầu. Nếu Ban tự thực hiện được các nội dung trên, sẽ giúp giảm được chi phí thuê ngoài, chi phí kiểm tra chất lượng các nội dung công việc. Đồng thời tiết kiệm về mặt thời gian, công sức đi lại. Nguyên nhân dẫn đến những tồn tại trên đó là do: Nguyên nhân thứ nhất, cũng giống với công tác lập dự án, tình trạng thiếu cán bộ cả về số lượng và chất lượng đã khiến cho Ban quản lý dự án quận Long Biên “lực bất tòng tâm”. Như đã nói ở trên, trung bình một cán bộ của Ban phải quản lý 5-6 dự án. Do vậy, thật khó có thể giao thêm việc cho họ. Kể cả có giao thêm việc, chất lượng của các công việc có thể bị đe doạ. Hơn nữa, đội ngũ cán bộ trong bán chủ yếu là những cán bộ công tác trong lĩnh vực kỹ thuật. Do vậy, họ chưa được đào tạo kiến thức về đấu thầu. Trong tình hình như thế, giải pháp thuê tư vấn là một giải pháp ưu việt hơn cả. Nguyên nhân thứ hai, Ban quản lý dự án quận Long Biên hiện chưa nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ của cấp trên đặc biệt là UBND quận Long Biên trong việc giúp đỡ Ban tự đứng ra đảm nhiệm toàn bộ công tác đấu thầu. Sự giúp đỡ này cần phải bằng cả vật chất và tinh thần. Nó bao gồm có kinh phí để tổ chức đào tạo, kế hoạch từng bước, cụ thể để thực hiện được mục tiêu đã đề ra, chủ trương bổ sung thêm nguồn nhân lực, các văn bản hướng dẫn.v.v. Thứ hai, trong quá trình thực hiện công tác đấu thầu, vẫn xảy ra một số nhầm lẫn đáng tiếc về mặt kiến thức của cán bộ thực hiện đấu thầu. Đơn cử một ví dự: trong hồ sơ mời thầu dự án “ Xây dựng trạm bơm, hệ thông tưới khu sản xuất rau an toàn-hoa phường Phúc Lợi, quận Long Biên, Hà Nội” bên mời thầu đã nhầm lẫn giữa thuật ngữ “ liên danh” và “liên doanh”. Xin trích nguyên văn một đoạn trong hồ sơ mời thầu để làm dẫn chứng: “ Trong trường hợp một nhà thầu liên doanh với một nhà thầu khác tham gia đấu thầu thì các nhà thầu trong liên doanh cũng phải trình bày đủ tư cách pháp nhân, năng lực tài chính và các tiêu chuẩn kỹ thuật như nhà thầu chính trong liên doanh ( đối với công việc được phân công thực hiện trong liên doanh). Hồ sơ phải kèm theo đầy đủ dữ liệu liên quan đến việc liên doanh giữa các nhà thầu. Những dữ liệu liên doanh bao gồm nhưng không chỉ hạn chế trong tài liệu sau:....” Trong công tác đấu thầu, thuật ngữ “liên danh” và “liên doanh” là hoàn toàn khác nhau về bản chất. Liên danh là thuật ngữ dùng để chỉ một nhóm các nhà thầu cũng đứng ra đăng ký đấu thầu một gói thầu. Liên doanh lại là thuật ngữ dùng để chỉ một doanh nghiệp được thành lập so sư góp vốn của bên nước ngoài và của bên Việt Nam. Nói đến liên doanh là nói đến một loại hình sở hữu. Nói đến liên danh là nói đến một hoạt động của các doanh nghiệp để đảm bảo thành công trong một cuộc đấu thầu. Do vậy, không thể lẫn lộn hai thuật ngữ này được Thứ ba, trong 2 năm qua chúng ta thấy, các dự án nhóm C sử dụng 2 hình thức đấu thầu chính là đấu thầu cạnh tranh rộng rãi và chỉ định thầu. Vì đặc tính của các dự án nhóm C là các dự án nhỏ. Do vậy, hình thức đấu thầu cạnh tranh rộng rãi là không cần thiết. Có thể thay thế bằng hình thức đấu thầu cạnh tranh hạn chế. Bởi theo quy chế đấu thầu, áp dụng cạnh tranh hạn chế trong điều kiện gói thầu có quy mô nhỏ. Do vậy, áp dụng cạnh tranh hạn chế là phù hợp, đúng luật. Điều này sẽ giúp tiết kiệm chi phí đăng thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng và phù hợp với quy định hơn. Trên thực tế, ngay cả khi tiến hành đấu thầu cạnh tranh rộng rãi như dự án “Xây dựng trạm bơm, hệ thông tưới khu sản xuất rau an toàn-hoa phường Phúc Lợi, quận Long Biên, Hà Nội” cũng chỉ có 5 nhà thầu tham dự. Do vậy, hình thức đấu thầu cạnh tranh hạn chế tỏ ra phù hợp hơn trong trường hợp này. Thứ tư, qua bảng số liệu đã trình bày ở phần thực trạng công tác đấu thầu đã cho thấy: trong khi công tác đấu thầu xây lắp giảm được chi phí nhờ thực hiện đấu thầu thì công tác đấu thầu tư vấn không làm giảm chi phí. Nguyên nhân của tình trạng này là do, hoạt động đấu thầu tuyển chọn tư vấn chủ yếu dùng hình thức chỉ định thầu. Do vậy, chi phí thực hiện dự án không hề được giảm đi. Thứ năm, trong quy trình thực hiện dự án do UBND Quận đưa ra có quy định, áp dụng chỉ định thầu với công trình lập dự án đầu tư là công trình có vốn xây lắp dưới 1 tỷ đồng, với công trình lập báo cáo kinh tế kỹ thuật cũng là dưới 1 tỷ đồng. Ta biết rằng, những công trình lập dự án đầu tư là những công trình có quy mô, tính chất kỹ thuật lớn hơn những công trình lập báo cáo kinh tế kỹ thuật. Do vậy, quy định đồng mức 1 tỷ đồng là không hợp lý. Nếu nó phù hợp với dự án đầu tư thì lại cao so với báo cáo kinh tế kỹ thuật. Ngược lại, nếu phù hợp với báo cáo kinh tế kỹ thuật thì là quá thấp với dự án đầu tư. Mà theo quy định của Nghị định 16/2005/NĐ-CP, dự án lập báo cáo kinh tế kỹ thuật là dự án có vốn dưới 7 tỷ đồng với dự án hạ tầng xã hội, 5 tỷ đồng với dự án xây dựng khác, 3 tỷ đồng với xây dựng trụ sở cơ quan, công trình tôn giáo. Các công trình có mức trên các mức này phải lập dự án đầu tư. Như vậy, không thể đưa mức 1 tỷ đồng đối với công trình lập dự án đầu tư vì như vậy là không khả thi do không có công trình nào như vậy. 3. Tồn tại trong công tác giải phóng mặt bằng. Công tác giải phóng mặt bằng từ lâu là một trong những công tác khó khăn, gặp nhiều vướng mắc nhất tại mọi dự án và mọi địa bàn ở nước ta hiện nay. Đối với Quận Long Biên nói chung và Ban quản lý dự án quận Long Biên nói riêng cũng vậy. Mặc dù, là một quận mới thành lập, quỹ đất còn khá dồi dào, trong các năm qua lại chú trọng đến công tác giải phóng mặt bằng, song vẫn không tránh khỏi những vướng mắc trong một số dự án có giải phóng mặt bằng. Có thể xem thông qua bảng được trình bày ở phần thực trạng công tác giải phóng mặt bằng. Bảng số liệu trên đã cho thấy, trong 2 năm qua vẫn có những dự án có vướng mắc về giải phóng mặt bằng. Đặc biệt, sau 2 năm số dự án vướng mắc về giải phóng mặt bằng còn tăng về số lượng. Tuy rằng, như đã phân tích ở phần II.4 rằng tỷ lệ vướng mắc này là không đáng ngại, song cần có sự xem xét thấu đáo, kỹ lượng để tìm ra nguyên nhân, giải quyết những vướng mắc, rút kinh nghiệm cho những dự án sau. Có thể chỉ ra nguyên nhân làm chậm tiến độ công tác giải phóng mặt bằng trong 2 năm qua như sau: Tiến độ giải phóng mặt bằng không đúng với dự kiến do sự bất hợp tác của người dân trong phạm vi giải phóng mặt bằng. Đây cũng là một nguyên nhân phổ biến không chỉ với riêng các dự án của Ban quản lý dự án quận Long Biên mà còn với các địa phương và đơn vị khác. Có thể đơn cử một ví dụ sau: Dự án xây giải phóng mặt bằng ở quận Hải An thành phố Hải Phòng, khi cán bộ đến để tiến hành kiểm đếm, người dân không cho kiểm đếm hoặc không ký vào biên bản kiểm đếm. Như đã biết, nếu không kiểm đếm được thì không thể lên phương án đền bù, xác định giá trị đền bù. Vậy là tiến độ giải phóng mặt bằng bị chậm lại, ảnh hưởng tới tiến độ chung của dự án. Với các dự án của Ban quản lý dự án quận Long Biên cũng gặp phải tình trạng tương tự như vậy. Đơn cử một ví dụ như dự án “Cải tạo hệ thống thoát nước thị trấn Gia Lâm nay là địa bàn các phường Ngọc Lâm, Gia Thuỵ và Bồ Đề”, khi tổ công tác giải phóng mặt bằng tới hiện trường để kiếm đếm ở bờ bắc hồ Cầu Tình, có tổng số 138 hộ dân nhưng có 98 hộ không nhận thông báo, 40 hộ nhận nhưng không ký. Khi tiến hành đo đạc, kiểm đếm thì tất cả các hộ dân không cho đo đạc, thậm chí còn đe doạ, cản trở các thành viên tổ công tác. Khi Ban quản lý dự án quận Long Biên yêu cầu các hộ dân nộp hồ sơ làm các thủ tục xác nhận diện tích đất, cam kết nghĩa vụ tài chính với cơ quan thuế để xem xét điều chỉnh bổ sung phương án bồi thường cũng không có hộ nào gửi các giấy tờ này lên. Để xảy ra tình trạng này có thể kể ra một số nguyên nhân sau: Nguyên nhân thứ nhất,một bộ phận người dân trong diện phải giải toả, di dời có ít hiểu biết về pháp luật nói chung và các quy định, chính sách, chế độ về giải phóng mặt bằng. Người dân không nắm rõ quy trình, luật định. Như trong dự án cải tạo hệ thống thoát nước trên, việc kiểm đếm không hề ảnh hưởng tới lợi ích của các hộ dân. Nếu họ chưa đồng tình với chế độ chính sách bồi thường của Nhà nước, chính quyền thực hiện có thể kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền, theo trình tự và thủ tục đã được quy định. Nguyên nhân thứ hai, công tác đền bù, bồi thường được tiến hành trôi chảy với hầu hết các hộ dân. Tuy nhiên, có một số đối tượng quá khích vì một lý do nào đó bất mãn với chính sách bồi thường, tìm cách phá đám. Chúng kích động, nói xấu gây hoang mang trong dân chúng, cản trở công việc của các thành viên tổ công tác giải phóng mặt bằng. Điều này có tác động xấu tới tâm lý của những người dân lương thiện, chấp hành đúng chính sách, pháp luật. Nguyên nhân thứ ba, sự thay đổi của một số chính sách bồi thường theo hướng đền bù cao hơn, chẳng hạn như nghị định 197/2004/NĐ-CP thay thế cho nghị định 22/1998/NĐ-CP, quyết định số 26/2005/QĐ-UB thay cho quyết định số 5311/2004/QĐ-UB . Do đó, xuất hiện tình trạng người dân tìm cách dây dưa, kéo dài thời gian để được hưởng chính sách bồi thường cao hơn. Nguyên nhân thứ tư, công tác giải phóng mặt bằng còn chưa được các cơ quan hữu quan nhận thức đúng đắn. Từ đó, sự phối kết hợp giữa các cơ quan là chưa đồng bộ, chưa chặt chẽ. Đơn cử một ví dự, tại dự án cải tạo hệ thống thoát nước thị trấn Gia Lâm, Ban quản lý dự án quận Long Biên đã lập được phương án đền bù giải phóng mặt bằng bờ nam hồ Cầu Tình. Tuy nhiên, do Quận chưa giải ngân kinh phí để chi trả công ty khảo sát đo đạc Hà Nội. Do vậy, chưa có dấu xác nhận của công ty nên chưa đủ cơ sở để thẩm định phương án do Ban quản lý dự án quận Long Biên lập. Nguyên nhân thứ năm, những bất cập trong công tác quản lý đất đai trước đây đã ảnh hưởng không nhỏ tới công tác giải phóng mặt bằng hiện nay. Trước đây, công tác quản lý đất đai bị buông lỏng, thiếu nghiêm minh, có nhiều sai phạm đẫn đến người dân lấn chiếm, nhảy dù. Đến khi kiểm đếm cơ quan chức năng mới tường tận thì họ đã sống ở đó lâu dài, thậm chí trở thành một khu dân cư với nhiều hộ sinh sống. Đến lúc này, cưỡng chế dời đi không đền bù cũng dở mà đền bù thì Nhà nước thiệt đơn thiệt kép. Quỹ đất công bị chiếm dụng, lại phải chi tiền hỗ trợ các hộ dân di dời. Nguyên nhân thứ sáu, chính sách bồi thường chưa ổn định, còn hay thay đổi, và chưa thoả đáng đôi khi còn có mâu thuẫn. Ví dụ như theo điều 22 quyết định số 26/2005/QĐ-UB quy định về trích tiền bồi thường cho người thuê đất, mượn đất, sử dụng đất đấu thầu: “Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn thì 100% tiền bồi thường nộp ngân sách xã, phường, thị trấn”. Nhưng theo khoản 4 điều 9 Nghị định 22/1998/NĐ-CP và khoản 5 điều 1 quyết định số 99/2002/QĐ-UB lại quy định “ việc trích tiền bồi thươg hỗ trợ đất,tiền thưởng tiến độ cho người thuê đất, mượn đất, sử dụng đất đấu thầu do Chủ tịch UBND quận, huyện quyết định trên cơ sở thống nhất của chủ sử dụng đất”. Đôi khi có sự hiểu nhầm của chính các cán bộ thực hiện giải phóng mặt bằng. Chẳng hạn, quy định của Luật đất đai là chỉ tiến hành thoả thuận với người dân trong diện giải toả với các dự án nhỏ, các dự án lớn thì k

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0062.doc