Đề tài Công tác thu bảo hiểm xã hội ở bảo hiểm xã hội quận Ba Đình - Hà Nội: Thực trạng và giải pháp

Quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách Nhà nước.Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ các nguồn sau đây:

- Người sử dụng lao động đóng góp.

- Người lao động đóng góp.

- Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm.

-Người tự nguyện tham gia BHXH đóng.

- Các nguồn thu khác (như cá nhân và các tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi do đầu tư phần quỹ nhàn rỗi).

Trong nền kinh tế hàng hoá, trách nhiệm tham gia đóng góp BHXH cho người lao động được phân chia cho cả người sử dụng lao động và người lao động trên cơ sở quan hệ lao động. Điều này không phải là sự phân chia rủi ro, mà là lợi ích giữa hai bên. Về phía người sử dụng lao động, sự đóng góp một phần BHXH cho người lao động sẽ tránh được thiệt hại kinh tế do phải chi ra một khoản tiền lớn khi có rủi ro xảy ra đối với người lao động mà mình thuê mướn.

Đồng thời nó còn góp phần giảm bớt tình trạng tranh chấp, kiến tạo được mối quan hệ tốt đẹp giữa chủ – thợ. Về phía người lao động, sự đóng góp một phần để BHXH cho mình vừa biểu hiện sự tự gánh chịu trực tiếp rủi ro của chính mình, vừa có ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi một cách chặt chẽ.Mối quan hệ chủ – thợ trong BHXH thực chất là mối quan hệ lợi ích. Vì thế, cũng như nhiều lĩnh vực khác trong quan hệ lao động, BHXH không thể thiếu được sự tham gia đóng góp của Nhà nước.

 

doc59 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1619 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Công tác thu bảo hiểm xã hội ở bảo hiểm xã hội quận Ba Đình - Hà Nội: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uất kinh doanh diễn ra bình thường tránh được những xáo trộn không cần thiết. Vì vậy, nguồn quỹ tập trung được thiết lập ngày càng lớn và nhanh chóng. Khả năng giải quyết các phát sinh lớn của quỹ ngày càng đảm bảo. Toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ trên được thế giới quan niệm là bảo hiểm xã hội đối với người lao động. Như vậy, "BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ góp phần đảm bảo an toàn xã hội".Qua khái niệm về bảo hiểm xã hội ta có thể thấy được sự cần thiết của BHXH đối với người lao động và xã hội. BHXH có những chức năng chủ yếu sau đây: - Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. Sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra vì suy cho cùng mất khả năng lao động sẽ đến với tất cả mọi người lao động khi hết tuổi lao động theo các điều kiện quy định của BHXH. Còn mất việc làm và mất khả năng lao động tạm thời làm giảm hoặc mất thu nhập cũng sẽ được hưởng trợ cấp cần thiết, thời điểm và thời hạn được hưởng phải đúng quy định. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH, nó quyết định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế hoạt động của BHXH. - Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Tham gia BHXH không chỉ có người lao động mà cả những người sử dụng lao động. Các bên tham gia đều phải đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ này dùng để trợ cấp cho một số người lao động tham gia khi họ gặp phải biến cố làm giảm hay mất thu nhập. Số lượng những người này chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số những người tham gia đóng góp. Như vậy, theo quy luật số đông bù số ít, BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc lẫn chiều ngang. Phân phối lại giữa những người có thu nhập cao và thu nhập thấp, giữa những người khoẻ mạnh đang làm việc với những người ốm đau phải nghỉ việc... Thực hiện chức năng này có nghĩa là BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội. - Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Khi khoẻ mạnh tham gia lao động sản xuất, người lao động được chủ sử dụng lao động trả lương hoặc tiền công.Khi bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, hoặc khi về già đã có BHXH trợ cấp thay thế nguồn thu nhập bị mất. Vì thế cuộc sống của họ và gia đình họ luôn được đảm bảo ổn định và có chỗ dựa. Do đó người lao động luôn yên tâm gắn bó tận tình với công việc và với nơi làm việc. Từ đó họ rất tích cực lao động, sản xuất, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Chức năng này biểu hiện như một đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động nâng cao năng xuất lao động cá nhân và kéo theo năng suất lao động xã hội. - Gắn bó lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao động, giữa lao động với xã hội. Trong thực tế lao động sản xuất, người lao động và người sử dụng lao động có những mâu thuẫn nội tại, khách quan về tiền lương, tiền công, thời gian lao động... Thông qua BHXH những mâu thuẫn đó sẽ được điều hoà và giải quyết. Đặc biệt cả hai giới này đều thấy nhờ có BHXH mà mình có lợi và được bảo vệ. Từ đó làm cho họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi ích được với nhau. Đối với Nhà nước và xã hội chi cho BHXH là cách thức phải chi ít nhất và có hiệu quả nhất nhưng vẫn giải quyết được khó khăn về đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần làm cho sản xuất ổn định, kinh tế chính trị và xã hội được phát triển, an toàn hơn. 1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của BHXH. BHXH đã xuất hiện từ rất lâu mà mầm mống của nó từ thế kỷ 13 ở Nam Âu khi nền công nghiệp và kinh tế hàng hoá đã bắt đầu phát triển. Tuy nhiên, ban đầu BHXH chỉ mang tính chất sơ khai, với phạm vi nhỏ hẹp. Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII một số nghiệp đoàn thợ thủ công ra đời, để bảo vệ lẫn nhau trong hoạt động nghề nghiệp họ đã thành lập nên các loại quỹ tương trợ để giúp nhau(ở nước Anh đã thành lập hội "bằng hữu" để giúp đỡ các hội viên khi bị ốm đau hau tai nạn nghề nghiệp). Từ sau chiến tranh thế giới thứ II, BHXH lan rộng ra nhiều nước trên thế giới, phát triển rất phong phú, đa dạng và có nhiều thay đổi bổ sung. BHXH ngày càng có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, là một trong các trung tâm chú ý của nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế.Theo Công ước Giơnever - 1952 của Tổ chức Lao động Quốc tế(TLO) đã xác định BHXH gồm 9 chế độ sau: - Chăm sóc y tế. - Trợ cấp ốm đau. - Trợ cấp thất nghiệp. - Trợ cấp tuổi già. - Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. - Trợ cấp gia đình. - Trợ cấp thai sản. - Trợ cấp khi tàn phế. - Trợ cấp cho người còn sống ( trợ cấp mất người nuôi dưỡng). Nhưng trên thực tế không phải nước nào cũng thực hiện được toàn bộ 9 chế độ trên và không phải nước nào cũng có phạm vi, đối tượng nguồn hình thành quỹ giống nhau. Có nghĩa là việc thực hiện BHXH ở những nước khác nhau thì khác nhau tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng nước và hoàn cảnh cụ thể của mỗi giai đoạn phát triển mà mỗi nước có những hình thức áp dụng khác nhau cho phù hợp. Trên thế giới có 35 nước thực hiện được 9 chế, 37 nước chưa thực hiện được chế độ thứ 3 ( trợ cấp thất nghiệp), 67 nước chưa thực hiện được chế độ thứ 3 và chế độ thứ sáu ( trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp gia đình). TạiViệt Nam dưới chính quyền Pháp thuộc, chúng đã thực hiện BHXH đối với công chức và quân nhân Việt Nam hưởng lương phục vụ trong bộ máy hành chính và quân đội Pháp ở Đông Dương khi họ ốm đau, tuổi già hoặc chết. Còn đối với công nhân Việt Nam việc thực hiện BHXH hết sức khó khăn, gần như chính quyền Pháp không công nhận một quyền lợi nào về BHXH. Công nhân Việt Nam chết, ốm đau, tai nạn trong các nhà máy, đồn điền cao su không được mai táng, chữa bệnh, phụ nữ sinh đẻ vẫn phải làm việc, trẻ em sinh ra yếu ớt không được chăm sóc. Từ khi nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà được thành lập. Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về BHXH.Sắc lệnh 54SL ngày 14\6\1946 ấn định việc cấp hưu bổng cho công chức. Hai sắc lệnh này quy định công chức phải đóng bảo hiểm và trong quỹ hưu bổng có phần đóng thêm của nhà nước . Sắc lệnh 76/SL ngày 20\5\1950 ấn định cụ thể hơn các chế độ trợ cấp hưu trí , thai sản và chăm sóc y tế, tai nạn và tiền tuất đối với công chức. Trong khu vực sản xuất lúc này chưa thành lập quỹ BHXH , Nhưng sắc lệnh 29\SL ngày 12\3\1947 và sắc lệnh 77/SL ngày 22\5\1950 đã ấn định cụ thể hơn các chế độ trợ cấp hưu trí . tai nạn lao động , ốm đau , thai sản , tử tuất đối với công nhân. Sau khi hoà bình lập lại ở miền Bắc , thực hiện hiến pháp năm 1949 Hội đồng chính phủ ban hành điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH đối với công nhân viên chức nhà nước kèm theo nghị định 218/CP ra ngày 27\12\1961 của hội đồng chính phủ quy định như sau: *Chế độ trợ cấp BHXH gồm 6 loại : Trợ cấp ốm đau . Trợ cấp Thai sản. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Trợ cấp hưư trí . Trợ cáp mất sức lao động. Trợ cấpTử tuất. Do mô hình kinh tế thời kỳ bao cấp , nhìn chung 6 chế độ này đã đáp ứng được yêu cầu của người lao động và của xã hội.Góp phần vào việc thực hiện nhiều chính sáchxã hội của đảng và nhà nước. Tuy nhiên khi chuyển sang kinh tế thị trường điều kiện kinh tế của nhà nước đã thay đổi vì vậy nghị định43\CP ra đời ngày 22/6/1993 và nghị định 12\ CP ngày 26\1\1995 đều thống nhất một quan điểm là chỉ thực hiện 5 chế độ và bỏ trợ cấp mất sức lao động (MC) 1.1.3. Tính chất của bảo hiểm xã hội. Bảo hiểm xã hội gắn liền với người đời sống của người lao động, vì vậy nó có một số tính chất cơ bản sau:- Tính tất yếu khách quan trong đời sống xã hội.Trong quá trình lao động sản xuất người lao động có thể gặp phải nhiều biến cố, rủi ro khi đó người sử dụng lao động cũng rơi vào tình cảnh khó khăn không kém như: sản xuất kinh doanh bị gián đoạn, vấn đề tuyển dụng và hợp đồng lao động luôn phải được đặt ra để thay thế v.v... Sản xuất càng phát triển, những rủi ro đối với người lao động và những khó khăn đối với người sử dụng lao động càng nhiều và trở nên phức tạp, dẫn đến mối quan hệ chủ- thợ ngày càng căng thẳng. Để giải quyết vấn đề này, Nhà nước phải đứng ra can thiệp thông qua bảo hiểm xã hội. Và như vậy, bảo hiểm xã hội ra đời hoàn toàn mang tính khách quan trong đời sống kinh tế xã hội của mỗi nước. -Bảo hiểm có tính ngẫu nhiên, phát sinh không đồng đều theo thời gian và không gian. Tính chất này thể hiện rất rõ ở những nội dung cơ bản của bảo hiểm xã hội. Từ thời điểm hình thành và triển khai, đến mức đóng góp của các bên tham gia để hình thành quỹ bảo hiểm xã hội. Từ những rủi ro phát sinh ngẫu nhiên theo thời gian và không gian đến mức trợ cấp bảo hiểm xã hội theo từng chế độ cho người lao động v.v... - Bảo hiểm vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội , đồng thời còn có tính dịch vụ.Tính kinh tế thể hiện rõ nhất là ở chỗ, quỹ bảo hiểm xã hội muốn được hình thành, bảo toàn và tăng trưởng phải có sự đóng góp của các bên tham gia và phải được quản lý chặt chẽ, sử dụng đúng mục đích. Mức đóng góp của các bên phải được tính toán rất cụ thể dựa trên xác suất phát sinh thiệt hại của tập hợp người lao động tham gia bảo hiểm xã hội. Quỹ bảo hiểm xã hội chủ yếu dùng để trợ cấp cho người lao động theo các điều kiện của bảo hiểm xã hội. Thực chất, phần đóng góp của mỗi bên người lao động là không đáng kể, nhưng quyền lợi nhận được là rất lớn khi gặp rủi ro. Đối với người sử dụng lao động việc tham gia đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội là để bảo hiểm cho người lao động mà mình sử dụng. Xét dưới góc độ kinh tế, họ cũng có lợi vì không phải bỏ ra một khoản tiền lớn để trang trải cho những người lao động bị mất hoặc giảm khả năng lao động. Với Nhà nước, bảo hiểm xã hội góp phần làm giảm gánh nặng cho ngân sách, đồng thời quỹ bảo hiểm xã hội còn là nguồn đầu tư đáng kể cho nên kinh tế quốc dân.BHXH là bộ phận chủ yếu của hệ thống đảm bảo xã hội vì vậy tính xã hội của nó thể hiện rất rõ. Xét về lâu dài, mọi người lao động trong xã hội đều có quyền tham gia BHXH. Và ngược lại, BHXH phải có trách nhiệm bảo hiểm cho mọi người lao động và gia đình họ, kể cả khi họ còn đang trong độ tuổi lao động. Tính xã hội của BHXH luôn gắn chặt với tính chất dịch vụ của nó. Khi nền kinh tế – xã hội ngày càng phát triển thì tính dịch vụ và tính xã hội hoá của BHXH cũng ngày càng cao. 1.2. Một số vấn đề cơ bản về quỹ bảo hiểm xã hội . 1.2.1.Khái niệm về quỹ bảo hiểm xã hội Quỹ BHXH là tập hợp đóng góp bằng tiền của các bên tham gia bảo hiểm: người lao động, người sử dụng lao động, Nhà nước nhằm mục đích chi trả cho các chế độ BHXH và đảm bảo hoạt động của hệ thống BHXH.Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách Nhà nước. 1.2.2. Đặc điểm. - Là một quỹ tiền tệ tập trung, giữ vị trí là khâu tài chính trung gian trong hệ thống tài chính quốc gia. Là tổ chức tài chính nằm giao thoa giữa ngân sách Nhà nước với các tổ chức tài chính Nhà nước, tài chính doanh nghiệp và sau đó là tài chính dân cư .- Phân phối quỹ BHXH vừa mang tính hoàn trả, vừa mang tính không hoàn trả. Tính không hoàn trả của quỹ BHXH được áp dụng với những người đã tham gia BHXH trong suốt qúa trình lao động nhưng không ốm đau, tai nạn lao động, sinh con. - Sự ra đời, tồn tại và phát triển của BHXH gắn liền với chức năng vốn có của Nhà nước là vì quyền lợi của người lao động chứ không vì mục đích kiếm lời, đồng thời nó cũng phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã hội và điều kiện lịch sử trong từng thời kỳ của mỗi quốc gia. Khi nền kinh tế càng phát triển thì càng có nhiều chế độ BHXH được thực hiện, và bản thân từng chế độ cũng được áp dụng rộng rãi hơn, nhu cầu thoả mãn về BHXH đối với người lao động càng được nâng cao. Mặt khác, khi nền kinh tế phát triển thì mức thu nhập của người lao động càng cao và họ càng có khả năng tham gia vào nhiều chế độ BHXH. - Một mặt, quỹ BHXH mang tính tiêu dùng được thể hiện thông qua mục tiêu, mục đích của nó là chi trả cho các chế độ BHXH. Nhưng mặt khác nó lại mang tính dự trữ vì thông thường, khi người lao động đóng góp vào quỹ BHXH thì họ không được quỹ này chi trả ngay khi gặp rủi ro mà phải có đủ thời gian dự bị. - Hoạt động của quỹ BHXH đặt ra yêu cầu và hình thành tất yếu chế độ tiết kiệm bắt buộc của xã hội và người lao động dành cho ốm đau, hưu trí. Đó cũng là quá trình phân phối lại thu nhập của cá nhân và cộng đồng. 2.3.Nguồn quỹ bảo hiểm xã hội. Quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách Nhà nước.Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ các nguồn sau đây: - Người sử dụng lao động đóng góp. - Người lao động đóng góp. - Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm. -Người tự nguyện tham gia BHXH đóng. - Các nguồn thu khác( như cá nhân và các tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi do đầu tư phần quỹ nhàn rỗi ...). Trong nền kinh tế hàng hoá, trách nhiệm tham gia đóng góp BHXH cho người lao động được phân chia cho cả người sử dụng lao động và người lao động trên cơ sở quan hệ lao động. Điều này không phải là sự phân chia rủi ro, mà là lợi ích giữa hai bên. Về phía người sử dụng lao động, sự đóng góp một phần BHXH cho người lao động sẽ tránh được thiệt hại kinh tế do phải chi ra một khoản tiền lớn khi có rủi ro xảy ra đối với người lao động mà mình thuê mướn. Đồng thời nó còn góp phần giảm bớt tình trạng tranh chấp, kiến tạo được mối quan hệ tốt đẹp giữa chủ – thợ. Về phía người lao động, sự đóng góp một phần để BHXH cho mình vừa biểu hiện sự tự gánh chịu trực tiếp rủi ro của chính mình, vừa có ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi một cách chặt chẽ.Mối quan hệ chủ – thợ trong BHXH thực chất là mối quan hệ lợi ích. Vì thế, cũng như nhiều lĩnh vực khác trong quan hệ lao động, BHXH không thể thiếu được sự tham gia đóng góp của Nhà nước. Trước hết các luật lệ của Nhà nước về BHXH là những chuẩn mực pháp lý mà cả người lao động và người sử dụng lao động đều phải tuân theo, những tranh chấp chủ thợ trong lĩnh vực BHXH có cơ sở vững chắc để giải quyết. Ngoài ra, bằng nhiều hình thức khác nhau, Nhà nước không chỉ tham gia đóng góp và hỗ trợ thêm cho quỹ BHXH, mà còn trở thành chỗ dựa để đảm bảo cho hoạt động BHXH chắc chắn và ổn định.Phần lớn các nước trên thế giới, quỹ BHXH đều được hình thành từ các nguồn nêu trên. Tuy nhiên, phương thức đóng góp và mức đóng góp của các bên tham gia BHXH có khác nhau. Về phương thức đóng góp BHXH của người lao động và người sử dụng lao động hiện vẫn còn hai quan điểm. - Quan điểm thứ nhất cho rằng, phải căn cứ vào mức lương cá nhân và quỹ lương của cơ quan, doanh nghiệp. - Quan điểm thứ hai lại nêu lên, phải căn cứ vào mức thu nhập cơ bản của người lao động được cân đối chung trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân để xác định mức đóng góp. Về mức đóng góp BHXH, một số nước quy định người sử dụng lao động phải chịu toàn bộ chi phí cho chế độ tai nạn lao động, Chính phủ trả chi phí y tế và trợ cấp gia đình, các chế độ còn lại cả người lao động và người sử dụng lao động cùng đóng góp mỗi bên một phần bằng nhau. Một số nước khác lại quy định, Chính phủ bù thiếu cho quỹ BHXH hoặc chịu toàn bộ chi phí Quản lý BHXH v.v... ở nước ta, từ năm 1962 đến năm 1987, quỹ BHXH chỉ được hình thành từ hai nguồn: các xí nghiệp sản xuất vật chất đóng góp 4,7% quỹ lương của xí nghiệp, phần còn lại do ngân sách Nhà nước đài thọ. Thực chất là không tồn tại quỹ BHXH độc lập. Từ năm1988 đến nay, các đơn vị sản xuất kinh doanh đóng góp 15% quỹ lương của đơn vị. Sau khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, Chính phủ đã ban hành Nghị định 43/CP ngay 22/06/1993 và Điều lệ BHXH Việt Nam ban hành kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995. Trong các văn bản này đều quy định quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn sau đây: - Người sử dụng lao động đóng bằng 15% so với tổng quỹ tiền lương của những người tham gia BHXH trong đơn vị. Trong đó 10% để chi trả các chế độ hưu trí, tử tuất và 5% để chi các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. - Người lao động đóng bằng 5% tiền lương tháng để chi các chế độ hưu trí và tử tuất.- Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động. - Các nguồn khác.Mức đóng góp BHXH thực chất là phí BHXH. Phí BHXH là yếu tố quyết định sự cân đối thu chi quỹ BHXH. Vì vậy, quỹ này phải được tính toán một cách khoa học. Trong thực tế, việc tính phí BHXH là một nghiệp vụ chuyên sâu của BHXH và người ta thường sử dụng các phương pháp toán học khác nhau để xác định. Khi tính phí BHXH, có thể có những căn cứ tính toán khác nhau: - Dựa vào tiền lương và thang lương để xác định mức trợ cấp BHXH, từ đó có cơ sở xác định mức phí đóng. - Quy định mức phí BHXH trước rồi từ đó mới xác định mức hưởng.- Dựa vào nhu cầu khách quan của người lao động để xác định mức hưởng, rồi từ mức hưởng BHXH này có thể xác định được mức phí phải đóng. - Mặc dù chỉ thuần tuý mang tính kỹ thuật nhưng xác định phí BHXH lại khá phức tạp vì nó liên quan đến cả người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Liên quan đến khả năng cân đối thu nhập của người lao động và điều kiện phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên, khi xác định phí BHXH vẫn phải đảm bảo các nguyên tắc : cân bằng thu chi , lấy số đông bù số ít và có dự phòng. Mức phí xác định phải được cân đối với mức hưởng, với nhu cầu BHXH và điều chỉnh sao cho tối ưu nhất. Phí BHXH được xác định theo công thức: P= f1+f2+f3 Trong đó: P: Phí BHXH. f1: phí thuần tuý trợ cấp BHXH. f2: phí dự phòng. f3: phí quản lý (Phí thuần tuý trợ cấp BHXH cho cả các chế độ ngăn hạn và dài hạn) Đối với các chế độ BHXH ngắn hạn việc đóng và hưởng BHXH xảy ra trong thời gian ngắn( thường là 1 năm) như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động nhẹ ... Vì vậy, số đóng góp BHXH phải đủ cho số phát sinh chi trả trong năm. Đối với chế độ BHXH dài hạn như: hưu trí , trợ cấp mất người nuôi dưỡng, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp nặng v.v... quá trình đóng và quá trình hưởng BHXH tương đối độc lập với nhau và diễn ra trong khoảng thời gian nhất định. Cho nên sự cân bằng giữa đóng góp và hưởng BHXH phải được dàn trải trong cả thời kỳ dài. Vì thế, ngoài phí thuần tuý phải có phí dự phòng để đảm bảo quỹ BHXH có dự trữ đủ lớn. 1.2.4.Mục đích sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội Quỹ bảo hiểm xã hội bao gồm 3 bộ phận: - Phí thuần. - Phí quản lý. - Phí dự trữ. Như vậy, quỹ bảo hiểm xã hội được sử dụng cho 3 mục đích: chi trả cho các chế độ bảo hiểm xã hội, chi cho việc quản lý hệ thống bảo hiểm xã hội và chi trích lập quỹ dự phòng cho những trường hợp tổn thất lớn. Trong cơ cấu chi bảo hiểm xã hội thì chi cho các chế độ bảo hiểm xã hội là rất lớn và chiếm đa phần lớn nguồn quỹ này vì đây là mục tiêu cơ bản nhất của bảo hiểm xã hội: đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động, đảm bảo ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị, tổ chức. Thực tế cho thấy việc chi trả cho các chế độ bảo hiểm xã hội diễn ra thường xuyên và liên tục với số lượng lớn trên phạm vi rất rộng. Một trong những khoản chi thường xuyên là chi lương hưu cho những người đã nghỉ công tác; và chi trả trợ cấp hàng tháng cho thân nhân của người lao động khi họ đã qua đời. Nguồn chi thứ hai trong bảo hiểm xã hội là chi cho việc quản lý nghiệp vụ bảo hiểm xã hội. Đây là nguồn chi không lớn trong cơ cấu chi bảo hiểm xã hội nhưng nó cũng là một khoản chi ngày càng lớn. Bởi vì các chế độ bảo hiểm xã hội ngày càng được mở rộng để đáp ứng các nhu cầu ngày càng cao của người lao động, do đó đội ngũ cán bộ phục vụ bảo hiểm xã hội ngày càng nhiều dẫn đến chi lương cán bộ ngày càng lớn. Mặt khác, xã hội càng phát triển thì nhu cầu về điều kiện làm việc ngày càng tăng. Vì vậy, chi phí cho việc xây dựng cơ bản , mua sắm máy móc, trang thiết bị văn phòng ngày càng tăng lên. Mục đích thứ ba của quỹ bảo hiểm xã hội là chi dự trữ. Thực chất đây là quá trình tích luỹ trong quá trình sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội. Định kỳ hàng tháng (quý, năm) cơ quan bảo hiểm xã hội tiến hành giữ lại một phần quỹ của mình để thành lập nên quỹ dự trữ bảo hiểm xã hội. Quỹ này chỉ được sử dụng trong trường hợp nhu cầu chi trả lớn dẫn đến thâm hụt quỹ bảo hiểm xã hội hoặc trong lúc đồng tiền mất giá. 1.3.Nội dung của công tác thu. 1.3.1. Đối tượng đóng bảo hiểm xã hội Theo quy định về quản lý thu BHXH thuộc hệ thống BHXH Việt Nam (ban hành kèm theo Quyết định số 177/BHXH ngày 30 tháng 12 năm 1996 của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam ) đối tượng thu BHXH là người sử dụng lao động và người lao động (kể cả người lao động được cử đi học, đi thực tập, điều dưỡng, công tác ở trong, ngoài nước vẫn thuộc danh sách trả lương hoặc tiền công của cơ quan và đơn vị) làm việc trong các cơ quan, đơn vị, tổ chức sau đây: - Các doanh nghiệp Nhà nước. - Các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên. - Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu vực chế xuất, khu công nghiệp. - Các tổ chức kinh doanh, dịch vụ thuộc cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng, Đoàn thể. - Các cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc tổ chức Quốc tế tại Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia có quy định khác. - Các đơn vị sự nghiệp gán thu bù chi, đơn vị sự nghiệp hưởng nguồn thu bằng viện trợ nước ngoài( kể cả viện trợ của tổ chức phi Chính phủ) để trả lương cho công nhân viên chức trong đơn vị. -Các cơ quan quản lý Nhà nước, cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng, Đoàn thể, hội quần chúng, dân cử, từ Trung ương đến cấp huyện. Ngoài ra, còn chú ý một số trường hợp sau: - Cán bộ, chiến sĩ thuộc lực lượng vũ trang được cử sang làm việc tại các doanh nghiệp, liên kết, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hưởng lương của tổ chức này cũng thuộc đối tượng nộp bảo hiểm xã hội. - Người lao động đã được đăng ký hợp đồng lao động nhưng trong thời gian đầu đang được học nghề, tập nghề, thử việc để sau đó làm việc cho người sử dụng lao động thì người lao động và người sử dụng lao động phải đóng bảo hiểm xã hội ngay từ khi ký hợp đồng lao động. + Trường hợp các cơ quan, đơn vị, tổ kinh tế bị giải thể, sáp nhập, phá sản, chuyển quyền sở hữu, cổ phần hoá đều phải đóng đủ BHXH theo các quy định hiện hành của Nhà nước. + Trường hợp một người lao động ký kết hợp đồng lao động ở nhiều nơi với nhiều chủ sử dụng lao động khác nhau thì chỉ đóng BHXH ở một nơi ; nơi nào quản lý lao động chính thì phải đóng BHXH và đăng ký cấp sổ BHXH cho người đó; hoặc do người lao động chọn đơn vị đóng BHXH cho mình thông qua hợp đồng lao động khi ký kết. + Cán bộ công tác tại phường, xã hưởng sinh hoạt phí. * Các đối tượng chưa hoặc không thu BHXH : + Những người lao động làm việc theo hình thức hợp đồng theo vụ, việc có thời hạn dưới 3 tháng sau đó kết thúc không ký lại hợp đồng hoặc làm những công việc có tính chất tạm thời khác đã được tính gộp tiền BHXH trong tiền lương, tiền công. + Lao động tự do, người sử dụng lao động không quản lý về mặt nhân sự, điều kiện và phương tiện làm việc tự nguyện tham gia. + Người lao động đang nghỉ hưởng chế độ BHXH như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động. + Người lao động đã nghỉ hưu, mất sức lao động, nghỉ hưởng trợ cấp 1 lần đã quá độ tuổi lao động nhưng vẫn tiếp tục hợp đồng lao động. 1.3.2. Tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội. Tiền lương là cấp bậc, chức vụ, hợp đồng và các khoản phụ cấp( phụ cấp chức vụ, phụ cấp khu vực, phụ cấp đắt đỏ, phụ cấp thâm niên, phụ cấp tái cử, hệ số bảo lưu nếu có) của từng người. Các khoản phụ cấp ngoài quy định trên không thuộc diện phải đóng BHXH và cũng không được đóng để tính vào tiền lương hưởng BHXH. Đối với đơn vị sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả thấp, tiền lương tháng trả cho người lao động không đủ mức lương cấp bậc, chức vụ của từng người để đăng ký đóng BHXH thì được đóng BHXH theo mức tiền lương đơn vị thực trả cho người lao động, nhưng mức đóng cho từng người không được thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Đối với người lao động đi làm việc có thời gian ở nước ngoài theo quy định tại Thông tư số 05/LB-TBXH ngày 16 tháng 01 năm 1996 của Liên Bộ Tài chính - Lao động Thương binh Xã hội kể từ tháng 01 năm 1996 tổ chức hợp tác đưa người đi làm việc ở nước ngoài hàng tháng phải đóng 15% của 2 lần mức lương tối thiểu do Chính phủ Việt Nam quy định trong từng thời kỳ. Theo Thông tư 17/TT - LĐTBXH ngày 24 tháng 01 năm 1997 thì đối với người lao động đã có quá trình tham gia đóng bảo hiểm xã hội thì mức đóng bảo hiểm xã hội trước khi ra nước ngoài làm việc bao gồm: Tiền lương cấp bậc, chức vụ, hợp đồng, hệ số chênh lệch bảo lưu và các khoản phụ cấp chức vụ, phụ cấp khu vực, phụ cấp đắt đỏ( nếu có). Đối với lao động tham gia bắt buộc ở trong nước hoặc người đã có thời gian làm việc và đóng bảo hiểm xã hội ở trong nước nhưng thời gian làm việc và đóng bảo hiểm xã hội ở trong nước đã được giải quyết chế độ ở thì mức đóng bảo hiểm xã hội hàng tháng bằng 15% của 2 lần mức lương tối thiểu của công nhân viên chức Nhà nước. 1.3.4. Cách xác định tổng quỹ tiền lương. Cộng tiền lương làm căn c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCông tác thu bảo hiểm xã hội ở bảo hiểm xã hội quận Ba Đình , thực trạng và giải pháp.doc
Tài liệu liên quan