LỜI NÓI ĐẦU 1
Phần I: Lý luận chung về bảo hiểm xã hội 3
I/ Sự cần thiết của BHXH 3
1. BHXH trong đời sống kinh tế xã hội của người lao động 3
2. Sự ra đời của BHXH 5
II. Những nội dung cơ bản về BHXH 9
1. Bản chất, chức năng và nhiệm vụ của BHXH 9
2. Quỹ bảo hiểm xã hội 14
3. Hệ thống các chế độ BHXH 20
III. BHXH ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường 23
Phần II: Công tác tổ chức và quản lý thu BHXH tại cơ quan BHXH thị xã Phủ lý – Hà Nam 28
I. Vài nét về cơ quan BHXH thị xã Phủ Lý 28
1. Lịch sử ra đời và quá trình phát triển của cơ quan 28
2. Những đặc điểm kinh tế – xã hội của thị xã ảnh hưởng đến tình hình hoạt động của BHXH 29
II. Công tác tổ chức và quản lý thu BHXH của BHXH Phủ Lý 30
1. Các đối tượng tham gia BHXH 30
2. Công tác tổ chức thu BHXH 32
3. Công tác quản lý thu BHXH 34
4. Thực trạng thu và quản lý thu BHXH trong thời gian qua ở BHXH thị xã Phủ lý 35
5. Những kết quả đạt được trong công tác thu BHXH 39
55 trang |
Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 835 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Công tác tổ chức và quản lý thu BHXH tại cơ quan BHXH thị xã Phủ Lý - Tỉnh Hà Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tài khoản thu BHXH tỉnh mở tại địa phương và số liệu tài khoản của đơn vị sử dụng lao động...
- Hướng dẫn đơn vị sử dụng lao động làm thủ tục cấp sổ BHXH cho người lao động thuộc quyền quản lý của họ.
* Đối với các đơn vị sử dụng lao động đã đăng ký tham gia BHXH và các đơn vị vừa mới tham gia BHXH, các cán bộ chuyên quản lý thu được phân công phải thường xuyên tiếp xúc với họ, làm công tác điều tra cơ bản để nắm chính xác các thông tin cần thiết phục vụ cho công tác thu BHXH gồm:
- Tổng số lao động thực tế đơn vị đã sử dụng, tổng số lao động đã đăng ký tham gia BHXH. Trong tổng số lao động còn lại chưa đăng ký tham gia BHXH có còn ai thuộc diện phải tham gia BHXH bắt buộc mà đơn vị sử dụng lao động chưa đăng ký cho họ không. Nếu còn thì yêu cầu đơn vị phải đăng ký tiếp và nộp BHXH cho họ.
- Tình hình biến động tăng giảm số lao động trong quý.
- Tổng quỹ tiền lương trích nộp BHXH của những người tham gia BHXH.
Từ những thông tin trên xác định số tiền nộp BHXH phải thu hàng tháng đối với đơn vị sử dụng lao động.
Bước 5: Thu và ghi sổ BHXH.
Đây là bước quan trọng nhất trong nghiệp vụ BHXH vì có thu được tiền BHXH vào khoản thu BHXH của BHXH Việt Nam thì quỹ BHXH mới hình thành và tồn tại, việc thu và ghi sổ BHXH cho người lao động được tiến hành ở tất cả các tỉnh, huyện một cách thường xuyên theo trình tự sau:
- Hàng tháng, căn cứ vào danh sách lao động và quỹ tiền lương trích nộp BHXH do các đơn vị sử dụng lao động lập và danh sách lao động điều chỉnh tăng giảm nộp BHXH lập hàng quý, BHXH tỉnh huyện đôn đốc và tổ chức thu BHXH theo mức quy định, chậm nhất là vào kỳ lương cuối cùng trong tháng.
- Chậm nhất là vào ngày 10 tháng đầu quý sau, BHXH tỉnh, huyện cùng các đơn vị sử dụng lao động kiểm tra, lập bảng đối chiếu nộp BHXH của quý trước. Nếu có chênh lệch giữa số đã nộp và số phải nộp thì nộp tiếp vào đầu quý sau (nếu chênh lệch thiếu) hoặc coi như đã nộp trước cho tháng đầu quý sau (nếu chênh lệch thừa).
- Trường hợp các đơn vị sử dụng lao động nộp BHXH chậm hàng tháng thì ngoài việc nộp phạt số tiền chậm trả tính theo mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm ngắn hạn của ngân hàng tại thời điểm truy nộp, còn phải nộp phạt theo quy định tại điều 11 trong Nghị định 38/CP ngày 25/6/1996 của Chính phủ quy định và xử phạt hành chính.
- Căn cứ vào danh sách lao động và quỹ tiền lương trích nộp BHXH, danh sách lao động điều chỉnh tăng giảm mức nộp BHXH và số tiền BHXH các đơn vị sử dụng lao động đã nộp, cơ quan BHXH tiến hành kiểm tra, đối chiếu mức nộp BHXH của từng người lao động trước khi ghi vào sổ BHXH.
Việc cấp sổ BHXH cho từng người lao động được thực hiện thường xuyên 1lần/1năm cho các lao động không thay đổi mức đóng BHXH trong năm. Đối với các trường hợp người lao động có thay đổi mức đóng BHXH hoặc di chuyển nơi làm việc thì phải ghi từng thời điểm, thời gian có sự thay đổi.
Bước 6: Chuyển tiền thu BHXH về cơ quan BHXH cấp trên.
Chỉ khi nào toàn bộ số tiền thu BHXH được chuyển đầu tư vào tài khoản thu BHXH Việt Nam thì lúc đó quá trình thu BHXH mới kết thúc và quỹ BHXH mới thực sự hình thành và có điều kiện để đảm bảo tồn tại và phát triển. Chính vì vậy, BHXH địa phương cần có những biện pháp nhằm tập trung nhanh số thu BHXH đồng thời làm thủ tục chuyển kịp thời số thu BHXH về tài khoản thu của BHXH Việt Nam. Số lần chuyển tiền về BHXH Việt Nam được quy định vào ngày 10,20 và 30 hàng tháng.
Bước 7: Thống kê, tổng hợp số liệu, lập và gửi báo cáo thu BHXH về cơ quan BHXH cấp trên.
Bước này được thực hiện ở tất cả các BHXH tỉnh và huyện một cách thường xuyên và liên tục. Có như vậy thì các số liệu thống kê về công tác thu BHXH do chúng ta cung cấp mới thực sự đảm bảo được chính xác và kịp thời, góp phần phục vụ cho công tác quản lý của BHXH cấp dưới được tốt. Để thực hiện được tốt đòi hỏi các cơ quan BHXH cấp dưới phải tổ chức thu thập thông tin, tổng hợp số liệu về thu BHXH qua đó gửi báo cáo nhanh (10ngày 1 lần), báo cáo hàng tháng, hàng quý cho cơ quan BHXH cấp trên. BHXH Việt Nam là cơ quan cuối cùng tổng hợp số liệu về tình hình thu và quản lý nguồn thu BHXH từ BHXH tỉnh.
3. Hệ thống các chế độ BHXH.
Chế độ Bảo hiểm xã hội là sự cụ thể hóa chính sách BHXH, là hệ thống các quy định cụ thể về đối tượng, phạm vi, điều kiện hưởng, mức hưởng trợ cấp... và nêu rõ sự bố trí, sắp xếp các phương tiện để thực hiện. Những quy định này được luật pháp hoá và thể chế hoá dưới dạng luật hoặc các văn bản pháp luật khác, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của mỗi nước trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, các chế độ BHXH có tính chất pháp lý chặt chẽ với những quy định rõ ràng, chi tiết và dễ hiểu. Vì vậy, có thể chính sách BHXH của một số nước giống nhau, nhưng nội dung các chế độ BHXH thường khác nhau, thậm chí rất khác nhau.
Theo công ước Giơnever số 102 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) thuộc liên hợp quốc tế ký ngày 28/6/1952, BHXH có 9 chế độ sau:
Chăm sóc y tế.
Trợ cấp ốm đau.
Trợ cấp thất nghiệp.
Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
Trợ cấp tuổi già.
Trợ cấp gia đình.
Trợ cấp sinh đẻ.
Trợ cấp khi tàn phế.
Trợ cấp ch người còn sống.
Nhưng trên thực tế không phải nước nào cũng thực hiện được toàn bộ 9 chế độ trên và không phải nước cào cũng có phạm vi, đối tượng hình thành quỹ... giống nhau. Có nghĩa là việc thực hiện BHXH ở những nước khác nhau thì khác nhau tuỳ theo điều kiện cụ thể cuả từng nước và hoàn cảnh cụ thể của mỗi giai đoạn phát triển mà mỗi nước có những hình thức áp dụng khác nhau cho phù hợp.
Trên thế giới có 35 nước thực hiện 9 chế độ, 37 nước chưa thực hiện được chế độ thứ 3 (trợ cấp thất nghiệp), 67 nước chưa thực hiện được chế độ thứ 3 và thứ 6 (trợ cấp thất nghiệp và trợ cấp gia đình).
ở Việt Nam dưới chính quyền Pháp thuộc, chúng đã thực hiện BHXH đối với công chức và quân nhân Việt Nam hưởng lương phục vụ trong bộ máy hành chính và quân đội Pháp ở Đông Dương khi họ ốm đau, tuổi già hoặc chết.
Còn đối với công nhân Việt Nam, việc thực hiện BHXH hết sức khó khăn, gần như chính quyền Pháp không công nhận một quyền lợi nào về BHXH. Công nhân Việt Nam chết, ốm đau, tai nạn trong các nhà máy, đồn điền cao su... không được mai táng, chữa bệnh, phụ nữ sinh đẻ vẫn phải làm việc, trẻ em sinh ra yếu ớt không được chăm sóc.
Từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà được thành lập, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về BHXH. Sắc lệnh 54/SL ngày 14/6/1946 ấn định việc cấp hưu bổng cho công chức. Sắc lệnh này quy định công chức phải đóng hưu liễm và trong quỹ hưu bổng có phần đóng thêm của Nhà nước. Sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950 đã ấn định cụ thể hơn các chế độ trợ cấp hưu trí, thai sản, chăm sóc y tế, tai nạn và tiền tuất đối với viên chức. Trong khu vực sản xuất, lúc này chưa thành lập quỹ BHXH, nhưng sắc lệnh 29/SL ngày 12/3/1947 và sắc lệnh 77/SL ngày 22/5/1950 đã ấn định cụ thể các chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hưu trí, tử tuất đối với công nhân.
Sau khi hoà bình lập lại ở miền Bắc, thực hiện hiến Pháp năm 1949, Hội đồng Chính phủ ban hành Điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH đối với công nhân, viên chức nhà nước kèm theo Nghị định 218/CP ra đời ngày 27/12/1961 của Hội đồng Chính phủ quy định như sau: Chế độ trợ cấp BHXH gồm 6 loại:
Trợ cấp ốm đau.
Trợ cấp thai sản.
Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
Trợ cấp mất sức lao động.
Trợ cấp hưu trí.
Trợ cấp tử tuất.
Do một thời kỳ dài bao cấp 6 chế độ này nhìn chung đã đáp ứng được yêu cầu của xã hội và người lao động, góp phần tích cực vào việc thực hiện nhiều chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, khi chuyển sang cơ chế thị trường điều kiện kinh tế của Nhà nước đã thay đổi hẳn vì vậy Nghị định 43/CP ra đời ngày 22/6/1993 và Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 đều thống nhất một quan điểm là BHXH chỉ thực hiện 5 chế độ và bỏ chế độ trợ cấp mất sức lao động.
Hiện nay, mức sống của dân cư toàn thế giới nói chung và từng nước nói riêng ngày càng được nâng cao do sự phát triển kinh tế xã hội ở mỗi quốc gia. Bởi vậy, ngày càng có nhiều nước quan tâm nghiên cứu và áp dụng hệ thống BHXH. Tính đến nay đã có trên 160 nước thực hiện chế độ BHXH.
Bảng1: Số nước thực hiện các chế độ BHXH trên thế giới.
ĐVT: nước
Năm
Chỉ tiêu
1940
1949
1958
1967
1977
1983
BHXH nói chung.
57
58
80
120
129
140
Chế độ trợ cấp tuổi già, tàn tật,tử tuất.
33
44
58
82
114
130
Chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản.
57
36
59
65
72
85
Chế độ trợ cấp TNLĐ và BNN.
24
57
77
117
129
136
Chế độ trợ cấp thất nghiệp.
21
22
26
34
38
40
(Nguồn: Chương trình BHXH thế giới).
Đại đa số các nước đều tổ chức BHXH cho người cao tuổi, người tàn tật và thân nhân người bị tai nạn, chỉ có khoảng 1/4 nước trong số nước áp dụng BHXH thực hiện trợ cấp thất nghiệp, chế độ này thường được thấy ở những nước công nghiệp và có nền kinh tế thị trường phát triển.
III. BHXH ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường.
Sau khi thành lập chính quyền dân chủ nhân dân và trong suốt thời kỳ kháng chiến, mặc dù hoàn cảnh khó khăn nhưng Đảng và Nhà nước luôn quan tâm chăm sóc đời sống cho người lao động. Riêng đối với công nhân viên chức ngoài việc ban hành các chế độ tiền lương, Chính phủ đã ban hành các chế độ phụ cấp, trợ cấp xã hội như: chế độ đãi ngộ khi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, già yếu, chế độ trợ cấp gia đình khi công nhân viên chức chết...
Các chế độ đó đã có tác dụng giải quyết được một phần những khó khăn trong đời sống sinh hoạt của công nhân viên chức và gia đình họ cũng có thêm niềm tin vào Đảng, Chính phủ, làm cho mọi người an tâm phấn khởi đẩy mạnh sản xuất và công tác tốt. Nhưng các chế độ nói trên vì ban hành sau hoà bình năm 1945 nên tính chất hoàn thiện, đầy đủ chưa có. Tuỳ theo sự đòi hỏi của tình hình thực tế, tuỳ theo từng thời gian và ngành hoạt động trong điều kiện nền kinh tế còn trong thời kỳ khôi phục, bước đầu phát triển nên mới nhằm giải quyết những vấn đề trước mắt, do đó BHXH có tính chất toàn diện và lâu dài.
Trải qua một thời kỳ dài đến nay BHXH Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường đã có nhiều sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển. Sự sửa đổi bổ sung đó được thể hiện thông qua việc ban hành các Nghị định và các chế độ mà thể hiện thông qua việc ban hành các Nghị định và các chế độ mà thể hiện rõ nhất là Nghị định 12/CP ngày 26/1/1996, trong đó, các chế độ BHXH được quy định lại với 5 chế độ:
1/ Trợ cấp ốm đau: người lao động là người tạo ra sản phẩm cho xã hội, là động lực chính thúc đẩy xã hội phát triển, vì vậy, khi họ ốm đau phải được xét trợ cấp BHXH trong thời gian ốm đau, mức trợ cấp phụ thuộc vào 3 yếu tố:
- Tình trạng sức khoẻ và thời gian công tác.
- Tiền lương thực tế đang làm.
- Phụ thuộc vào ngành nghề công tác của người đó.
2/ Trợ cấp thai sản: lao động nữ chiếm quá một nửa lực lượng lao động xã hội. Họ không chỉ tạo ra sản phẩm vật chất mà còn tạo ra nhiều sản phẩm tinh thần cho xã hội, vì vậy, khi họ sinh đẻ phải được nghỉ ngơi an dưỡng và nuôi con, họ phải được xét trợ cấp BHXH thay vì tiền lương trong thời gian nghỉ đẻ, mức lương được hưởng trợ cấp thông thường là bằng mức tiền lương và phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện kinh tế xã hội của quốc gia đó.
3/ Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp: Người lao động không may bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, Nhà nước cơ quan doanh nghiệp phải có trách nhiệm xét trợ cấp bảo hiểm cho họ để họ tiếp tục ổn định và duy trì cuộc sống, mức độ trợ cấp phụ thuộc vào 4 yếu tố:
- Tình trạng thương tật và sức khoẻ thông qua giám định y khoa.
- Tiền lương thực tế.
- Thời gian làm việc.
- Ngành nghề công tác của người đó.
4/ Trợ cấp hưu trí: người lao động khi hết tuổi lao động họ phải được nghỉ ngơi an dưỡng, khi đó có một số nhu cầu không những giảm đi mà còn tăng lên, vì vậy, họ vẫn phải được xét trợ cấp BHXH dưới hình thức tiền hưu trí, mức trợ cấp phụ thuộc vào 5 yếu tố:
- Tiền lương thực tế bình quân một số năm trước khi nghỉ hưu.
- Phụ thuộc vào thời gian công tác.
- Phụ thuộc vào mức đóng BHXH.
- Phụ thuộc vào ngành nghề công tác và độ tuổi khi nghỉ hưu.
- Phụ thuộc vào tuổi thọ bình quân của quốc gia.
Tuy vậy, mức được hưởng lương thấp nhất phải bằng mức sống tối thiểu của quốc gia đó.
5/ Trợ cấp tử tuất: người lao động không may bị chết, Nhà nước và cơ quan doanh nghiệp phải có trách nhiệm còn sống trong gia đình họ: bố mẹ già không nơi nương tựa, con cái chưa đến tuổi trưởng thành, mức được hưởng phụ thuộc vào 3 yếu tố:
- Toàn bộ chi phí mai táng chôn cất hồi hương.
- Hoàn cảnh thực tế gia đình người lao động.
- Tiền lương của người lao động trước khi bị chết.
Tuy vậy, mức được hưởng cao nhất không vượt quá tiền lương thực tế đang làm trước khi bị chết.
Từ khi bắt đầu hoạt động đến nay, BHXH vừa tiến hành sửa đổi cho phù hợp với từng thời kỳ, vừa tiến hành thực hiện các chế độ BHXH rất nhiều khó khăn, nhất là việc chồng chéo khi thực hiện chế độ BHXH. Nói chung thực trạng BHXH Việt Nam từ trước đến nay thể hiện qua các mặt sau:
a) Đối tượng BHXH:
ở Việt Nam, cũng như đại đa số các nước trên thế giới mới chỉ thực hiện được ở những người lao động làm công ăn lương. Đặc biệt những nước mới tiến hành triển khai BHXH, đối tượng làm công ăn lương bao giờ cũng được hưởng lương trước khi nền kinh tế phát triển, trình độ dân trí ngày càng nâng cao, các quốc gia mới triển khai ở tất cả các đối tượng lao động.
Từ khi Nhà nước ta thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế và thấy rõ được vai trò của các thành phần kinh tế khác, nhất là kinh tế tư nhân và kinh tế cá thể thì Nhà nước mới cho phép mở rộng đối tượng BHXH cho mọi người lao động theo Nghị định 43/CP và Nghị định 12/CP để đảm bảo công bằng cho người lao động. Theo Nghị định 43/CP và Nghị định 12/CP thì đối tượng BHXH là người lao động và người có nhu cầu về việc làm, tuy nhiên, việc thực hiện BHXH cho người có nhu cầu đến nay vẫn chưa được triển khai thực hiện.
b) Mức lương BHXH.
Trong chiến tranh, các chế độ BHXH mang tính chất cấp phát bình quân không căn cứ vào mức đóng góp cũng như tiền lương. Dần dần chế độ trợ cấp về BHXH được sửa đổi, cụ thể là chế độ BHXH căn cứ vào mức đóng góp tiền lương của người lao động, mức lương trợ cấp BHXH luôn luôn thấp hơn tiền lương khi đang làm việc nhưng phải đảm bảo một mức sinh hoạt tối thiểu. Mức đãi ngộ cho mỗi người dựa theo nguyên tắc '' hưởng theo lao động...'' có phân biệt tuỳ theo cống hiến, thành tích, thời gian công tác nhiều hay ít và có ưu đãi với những người làm các công việc có tính chất độc hại, đặc biệt nặng nhọc...
Mức đãi ngộ cao hay thấp, phạm vi thi hành rộng hay hẹp tuỳ thuộc vào tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của nước ta trong từng thời kỳ. Các mức hưởng BHXH của từng chế độ đều ghi rõ trong các Nghị định, thông tư và văn bản hướng dẫn thực hiện.
c) Mức đóng góp.
Trợ cấp BHXH và thực hiện trích nộp BHXH gắn trực tiếp và rất chặt chẽ với tiền lương cá nhân và quỹ tiền lương của các đơn vị, tổ chức. Tuy nhiên, ở nước ta từ năm 1926 đến 1987 quỹ BHXH được hình thành từ 2 nguồn:
- Các xí nghiệp sản xuất vật chất đóng góp từ 4,7% so với tổng quỹ lương của xí nghiệp.
- Phần còn lại do ngân sách Nhà nước đài thọ. Từ năm 1988 đến 1993 thì tỷ lệ đóng góp của xí nghiệp tăng 15% và người lao động vẫn không phải đóng góp vào quỹ BHXH. Cơ chế này không xác định rõ mối quan hệ tài chính của chính sách BHXH, không thể hiện được trách nhiệm của người lao động trong việc tự bảo hiểm đồng thời còn là một gánh nặng cho ngân sách. Vì vậy trong cơ chế mới theo Nghị định 12/CP mức đóng góp được quy định ở điều 36 như sau:
(1) Người sử dụng lao động đóng góp bằng 15% so với tổng quỹ lương của đơn vị, trong đó, 10% để chi trả các chế độ hưu trí, tử tuất và 5% để chi trả các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
(2) Người lao động đóng góp bằng 5% tiền lương tháng để chi trả các chế độ hưu trí, tử tuất.
(3) Nhà nước hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động.
(4) Các nguồn thu khác.
d) Chế độ quản lý.
Quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ độc lập thuộc ngân sách Nhà nước. Việc quản lý quỹ qua các giai đoạn như sau: Trước đây do Bộ lao động - thương binh và xã hội thu và quản lý 8% để chi 3 chế độ là hưu trí, mất sức lao động và mất người nuôi dưỡng. Còn Tổng liên đoàn lao động Việt Nam thu 5% để chi 3 chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hay bệnh nghề nghiệp.
Hiện nay hai nhánh đã sát nhập thành một tổ chức BHXH Việt Nam. BHXH Việt Nam được đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ, sự quản lý của các cơ quan Nhà nước có liên quan, nhằm giúp cho Chính phủ thực hiện tốt các chế độ, chính sách đối với người lao động. BHXH Việt Nam là cơ quan hạch toán thu chi độc lập, tuy nhiên trong bước đầu hoạt động, Nhà nước cần phải ủng hộ và giúp đỡ đầu tư về mọi mặt.
Phần II: Công tác tổ chức và quản lý thu BHXH tại cơ quan BHXH thị xã Phủ Lý- Hà Nam.
I. Vài nét về cơ quan BHXH thị xã Phủ Lý.
1. Lịch sử ra đời và quá trình phát triển của cơ quan.
Bảo hiểm xã hội Việt Nam được thành lập theo Nghị định số 19/CP ngày 16/2/1995 của Chính phủ, ngày 16/2 cũng là ngày truyền thống của ngành BHXH Việt Nam.
BHXH thị xã Hà Nam (nay là BHXH thị xã Phủ Lý) cùng với BHXH các huyện, thành phố Nam Định tỉnh Nam Hà được thành lập theo Quyết định số
83/QĐ-TCCB ngày 1/8/1995 của tổng giám đốc BHXH Việt Nam.
Sau 6 năm hoạt động, công tác, thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao mặc dù còn gặp nhiều khó khăn song BHXH thị xã đã phấn đấu vươn lên, khắc phục những khó khăn đó là: những tháng, năm đầu mới được thành lập, cán bộ công chức vừa thiếu, vừa yếu, vừa chưa có kinh nghiệm trong công tác BHXH. Cơ sở vật chất, trụ sở làm việc thiếu thốn, tạm bợ, cho đến nay cũng chưa có chỗ làm việc ổn định. Bên cạnh những khó khăn thì cũng có những thuận lợi cơ bản, BHXH là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước; BHXH vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính chính trị, xã hội sâu sắc. Chính vì vậy mà Đảng và Nhà nước rất quan tâm. Bộ chính trị trung ương Đảng đã chỉ thị số 15/CT-TW ngày 26/5/1997 về tăng cường lãnh đạo thực hiện các chế độ BHXH.
BHXH được cấp uỷ Đảng và chính quyền các cấp quan tâm ngay từ ngày đầu tỉnh Hà Nam mới được tái lập. Thường vụ tỉnh uỷ đã có chỉ thị số 11/CT-TW về tăng cường lãnh đạo thực hiện các chính sách BHXH.
Với khoảng thời gian đó, BHXH thị xã Phủ Lý dần dần từng bước được tăng cường đủ số lượng cán bộ, công chức. Cán bộ công chức được đi đào tạo và đào tạo lại, tích luỹ kinh nghiệm trong quá trình công tác, từng bước khắc phục những khó khăn. Có sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của chi bộ Đảng, BHXH thị xã cùng nhau đoàn kết phấn đấu thực hiện nhiệm vụ chính trị, thực hiện nhiệm vụ chỉ tiêu kế hoạch năm sau cao hơn năm trước.
2. Những đặc điểm kinh tế- xã hội của thị xã ảnh hưởng đến tình hình hoạt động của BHXH:
Sau khi được thành lập, BHXH đã nhanh chóng triển khai thực hiện các nghiệp vụ BHXH được giao theo Điều lệ BHXH quy định và tiếp nhận bàn giao theo Nghị đinh 19/CP ngày 16/2/1995 của Chính phủ. Ngay sau khi điều lệ BHXH được ban hành kèm theo Nghị định 12/CP của Chính phủ ngày 26/1/1995, UBND thị xã Phủ Lý đã chủ động triển khai nội dung Nghị định và Điều lệ đến các cấp, các ngành thuộc thị xã nhằm quán triệt nội dung, tinh thần điều lệ BHXH trước khi quán triệt đến cơ sở. Đây là một điều thuận lợi cho BHXH thị xã trong việc triển khai thực hiện các nghiệp vụ BHXH của mình.
Từ khi thành lập, cơ quan chịu trách nhiệm quản lý chi trả lương hưu trợ cấp BHXH và thực hiện chi trả trợ cấp TBXH do Chính phủ yêu cầu đến hết ngày 31/12/1997. Sau đó chi trả chế độ của đối tượng chính sách bàn giao lại cho ngành lao động TBXH tự chi trả quản lý.
Cùng với những mặt thuận lợi đó, BHXH thị xã cũng còn gặp nhiều bất cập, đó là sự chia tách tỉnh Hà Nam và tỉnh Nam Định đã có gây khó khăn trong việc quản lý và tổ chức công tác BHXH. Do địa phận thị xã đa phần là thuộc ngoại thị, do đó việc hiểu biết và nhu cầu về BHXH vẫn chưa được thông thái. Với lại, cùng với việc thành lập tỉnh, bộ máy tổ chức vẫn chưa được ổn định, các công trình xây dựng mới bắt đầu xây lên, các đơn vị tham gia BHXH chưa được quyết toán đầy đủ, việc đóng BHXH cũng rất chậm trễ. Hơn thế nữa, đến năm 2000, BHXH Phủ Lý có nhiều biến động. Quý I đồng chí giám đốc được nghỉ chế độ; Quý IV: tiếp nhận đối tượng thuộc 4 xã: Châu Sơn, Phù Vân, Lam Hạ, Liêm Chung sát nhập về thị xã theo Nghị định 53 của Chinh phủ. Cũng từ sự biến động đó mà làm cho công tác BHXH có sự bận rộn hơn trong việc điều hành các công việc. Công việc bộn bề song được sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên của thị uỷ, HĐND, UBND thị xã Phủ Lý, BHXH Phủ Lý đã phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ kế hoạch. Và cùng với sự phát triển của nền kinh tế, thị xã Phủ Lý sẽ càng phải cố gắng hơn trong việc điều hành bộ máy tổ chức, góp phần giúp cho việc BHXH ngày càng hoàn thiện và phát triển.
II. Công tác tổ chức và quản lý thu BHXH của BHXH Phủ Lý.
1. Các đối tượng tham gia BHXH
Trước đây ở Việt Nam, BHXH chỉ được áp dụng cho công nhân viên chức Nhà nước, các đối tượng khác không được quan tâm. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, các thành phần kinh tế đều được Nhà nước coi trọng, thêm vào đó, Điều lệ BHXH ra đời nhằm hoàn thiện hơn hệ thống BHXH Việt Nam thì đối tượng áp dụng BHXH cũng được mở rộng ra trong toàn bộ nền kinh tế, trong đó có địa bàn thị xã Phủ Lý.
Theo điều lệ BHXH của Chính phủ quy định thì đối tượng áp dụng bắt tham gia BHXH bao gồm:
- Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước;
- Người lao động Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu chế xuất, khu công nghiệp, trong các cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế mà cộng hoà XHCN Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác.
- Người lao động làm việc trong các tổ chức kinh doanh dịch vụ thuộc cơ quan hành chính, sự nghiệp, cơ quan Đảng, đoàn thể.
- Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp, các tổ chức dịch vụ thuộc lực lượng vũ trang.
- Người giữ chức vụ dân cử, bầu cử làm việc trong các cơ quan quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể từ trung ương đến cấp huyện.
- Công chức, viên chức Nhà nước làm việc trong các cơ quan hành chính sự nghiệp; người làm việc trong các cơ quan Đảng, đoàn thể từ trung ương đến cấp huyện; Các đối tượng trên đi học, thực tập, công tác, điều dưỡng trong và ngoài nước mà vẫn hưởng tiền lương hoặc tiền công thì cũng thuộc đối tượng thực hiện BHXH bắt buộc.
Như vậy, đối tượng của BHXH thị xã Phủ Lý cũng như đối tượng BHXH Việt Nam noi chung được mở rộng ra. Điều này là do sự phát triển của nền kinh tế- xã hội mang lại, là một yêu cầu cấp thiết của một nền kinh tế phát triển.
Tuy nhiên trong thực tế, việc huy động, động viên các đối tượng thuộc các doanh nghiệp ngoài kinh tế quốc doanh là rất khó khăn, gặp nhiều cản trở trong thực hiện công việc. Do đó hiện nay, chủ yếu đối tượng vẫn là công nhân viên chức thuộc thành phần kinh tế quốc dân. Đến hết năm 1999 đã có 25 đơn vị tham gia BHXH đăng ký với danh sách là: 1.20 6 lao động cùng với quỹ lương trích nộp BHXH 1.198.738.240đ.
Những năm trước đây, hai nghiệp vụ thu và chi BHXH tách biệt nhau, mức chi BHXH không dựa vào thu BHXH, nhiệm vụ thu chưa đáp ứng được yêu cầu chi trong công tác chi BHXH thường dựa vào ngân sách Nhà nước là chủ yếu. Do đó, đối tượng áp dụng thu BHXH không được quan tâm, chú ý một cách đúng đắn. Sau khi được thành lập, cơ quan BHXH được giao cho nhiệm vụ hạch toán thu chi độc lập. Do đó đối tượng thu phải được giám sát chặt chẽ, đây cũng là một trong những yêu cầu mà nhiệm vụ được giao đặt ra, thêm vào đó, cán bộ BHXH phải đi sát đối tượng. Đây là một lý do làm tăng đối tượng BHXH theo lẽ tự nhiên của nhiệm vụ đặt ra.
Thị xã Phủ Lý là một địa bàn quản lý rộng nhất tỉnh Hà Nam. Trên địa bàn thị xã lại có nhiều cơ quan, đơn vị thuộc các cấp, các ngành đóng trên địa bàn hoạt động. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, việc nhận thức của người lao động ngày càng được nâng cao, trong đó nhận thức của người lao động về BHXH ngày càng hoàn chỉnh hơn. Để đáp ứng với sự phát triển của nền kinh tế- xã hội thì pháp luật Nhà nước ta cũng chặt chẽ,ít kẽ hở hơn. Có thể nói đây là hai lý do thúc đẩy người lao động tham gia đóng BHXH theo hai tính chất là tình nguyện và cưỡng chế của pháp luật.
Trình độ xã hội ngày càng cao, nhu cầu tự bảo vệ mình trong những trường hợp khó khăn trở nên là nhu cầu cấp thiết, thêm vào đó, pháp luật thừa nhận nhu cầu đó không phải do người sử dụng lao động đóng góp. Để thực hiện được quyền lợi đó thì người lao động có trách nhiệm yêu cầu người sử dụng lao động phải đáp ứng nhu cầu đó - nhu cầu BHXH phải thể hiện trong các văn bản hợp đồng lao động mà Nhà nước quy định. Trong kế hoạch thu cho những năm tới, cơ quan BHXH cần có những biện pháp để lôi kéo những đơn vị chưa đăng ký danh sách đóng BHXH trên cơ sở tận thu trong địa bàn thị xã nhằm góp phần giảm bớt gánh nặng cho ngân sách Nhà nước về việc bù đắp cho quỹ BHXH, để ngân sách Nhà nước sử dụng các khoản này vào các công việc đầu tư, kiến thiết đất nước, phát triển một nền kinh tế - xã hội ở mức cao, hoà nhập vào cộng đồng thế giới.
Mức thu BHXH cũng có nhiều thay đổi, trước đây Nhà nước chỉ quy định các doanh nghiệp sản xuất vật chất góp 4,7% so với tổng q
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVV562.doc