Mục Lục
I. Về lý luận 4
1. Các khái niệm công cụ 5
1.1. Trẻ em
1.2. Ma túy
1.3. Nghiện ma túy
1.4. Trẻ em nghiện ma túy
2. Tác hại của ma túy 7
2.1. Tác hại đối với cơ thể
2.2. Ảnh hưởng đến bản thân
2.3. Ảnh hưởng đến gia đình
2.4. Ảnh hưởng đến xã hội
3. Nguyên nhân 14
3.1. Nguyên nhân từ phía gia đình
3.2. Nguyên nhân từ xã hội hay hoàn cảnh xung quanh
tác động
3.3. Nguyên nhân từ phía bạn bè cùng lứa tuổi
3.4. Nguyên nhân từ chính những đối tượng nghiện
4. Đặc điểm tâm sinh lý của trẻ nghiện 15
4.1. Về thể chất
4.2. Về tinh thần
4.3. Về đặc điểm tâm sinh lý
5. Phản ứng của xã hội 17
5.1. Phản ứng của Nhà Nước
5.2. Phản ứng của chính quyền địa phương và cộng đồng
5.3. Phản ứng của phía gia đình
6. Các lý thuyết áp dụng 23
6.1. Lý thuyết hệ thống
6.2. Lý thuyết hành vi – nhận thức
6.3. Lý thuyết phát triển của Erikson
6.4. Lý thuyết vai trò
6.5. Lý thuyết học hỏi – tập nhiễm
7. Phân loại trẻ nghiện ma túy 27
7.1. Trẻ sống trong gia đình
7.2. Trẻ lang thang
7.3. Trẻ sống trong các trung tâm giáo dưỡng
8. Mục đích của CTXH 27
9. Vai trò của nhân viên CTXH 28
9.1. Với trẻ sống trong gia đình
9.2. Với trẻ lang thang
9.3. Với trẻ sống trong các trung tâm giáo dưỡng
II. Phần ứng dụng
1. Tổng quan vấn đề 31
2. Trường hợp cụ thể 33
3. Nhu cầu của thân chủ 33
4. Nguồn lực của thân chủ 34
5. Tiến trình CTXH cá nhân 35
5.1. Tiếp cận thân chủ
5.2. Xác định vấn đề
5.3. Thu thập dữ liệu
5.4. Chẩn đoán
5.5. Kế hoạch trị liệu
5.6. Trị liệu
5.7. Lượng giá
III. Kết luận 40
42 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 9499 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Công tác xã hội với trẻ bị nghiện ma túy, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iên còn chịu ảnh hưởng lớn của môi trường bạn bè. Bản chất của mối quan hệ này là dựa trên sự tương hợp về sở thích và hứng thú. Điều này luôn có tác đông hai mặt, nếu các em tiếp xúc với nhóm bạn tốt sẽ có thể học theo bạn những cử chỉ hành vi đẹp, biết giúp đỡ quan tâm đến mọi người. Ngược lại, nếu các em tiếp xúc với nhóm bạn xấu, sẽ học từ bạn bè những hành vi không tốt, như thói vô trách nhiệm, đòi hỏi quá đáng và không chịu nghe lời. Kết quả điều tra cho thấy 100% số người nghiện có nhóm bạn cũng là người nghiện, hoặc có tiền án, tiền sự khác.
3.4. Nguyên nhân từ chính những đối tượng nghiện:
Một số cha mẹ của thanh thiếu niên nghiện ma tuý cho rằng, con cái của họ có thể đã bị bạn bè hay kẻ buôn bán ma tuý ép dùng ma tuý. Tuy nhiên, bọn trẻ lại nói rằng chúng sử dụng ma tuý vì chúng muốn giải sầu, muốn có cảm giác dễ chịu, muốn quên đi những rắc rối của mình và thư giãn. Chúng muốn vui vẻ, thoả mãn trí tò mò, thích mạo hiểm, làm dịu bớt nỗi đau, cảm thấy mình là người lớn, tỏ ra độc lập, muốn thuộc về một nhóm nào đó, hay trông ''hay hay'' thì tham gia thử... Khi đã thử một vài lần sẽ mắc nghiện. Từ những ý tưởng ở bên trong cùng những tác động bên ngoài sẽ là nguyên nhân dẫn đến thanh thiếu niên nghiện ma tuý.
4. Đặc điểm tâm sinh lý của trẻ nghiện.
4.1. Về thể chất:
- Các loại ma túy có thể gây táo bón, tiểu khó nên các em vào phòng vệ sinh lâu hơn bình thường.
- Mắt thường xuyên đỏ; miệng; gáy, tóc, cổ áo có mùi khét khó ngửi (bồ đà).
- Đồng tử (con ngươi) mắt giãn, mặt rịn mồ hôi, da mặt ửng đỏ.
- Lệ thuộc ma túy về mặt thể chất: người nghiện phải tiếp tục dùng ma túy bằng bất cứ giá nào, bởi vì nếu ngưng ma túy sẽ đưa đến những cơn vật vã do thiếu ma túy, có khi rất trầm trọng.Trong lệ thuộc ma túy về mặt thể chất người ta thường thấy có hiện tượng tăng liều là hiện tượng người dùng ma túy phải tăng liều sử dụng mới có cảm giác sảng khoái giống như lúc đầu.
Thí dụ:heroin gây lệ thuộc thể chất và người
4.2. Về tinh thần:
- Lệ thuộc ma túy về mặt tâm lý:có sự thôi thúc tâm lý mạnh mẽ phải sử dụng thuốc để đạt được những cảm giác dễ chịu do ma túy mang lại. Đây mới chính là sự lệ thuộc nguy hiểm vì cho dù đã được điều trị không còn vật vã người nghiện vẫn dùng ma túy trở lại. Một số ma túy ít gây những cơn vật vã nhưng người dùng vẫn nghiện không bỏ được vì sự lệ thuộc tâm lý này. Ví dụ: cần sa, amphetamine.
- Các em thay đổi giờ giấc sinh hoạt một cách thất thường, hay vắng vì những lý do không chính đáng.
- Thường hay trốn học để rời khỏi trường đi đâu không rõ.
- Các em kết thân với những bạn bè khả nghi có dùng ma túy (gia đình phải nhanh chóng giúp con em thoát khỏi sự dụ dỗ của người đó).
- Tụ tập với bạn thành từng băng nhóm để đua xe lạng lách, chơi bời hư hỏng.
- Bắt đầu tập những hành vi xấu như tập hút thuốc, uống rượu…là những hành vi có thể dẫn đến tập hút, hít thử ma túy.
- Thường xin tiền nhiều nhưng không sử dụng vào lý do chính đáng.
- Sự học hành bê trễ, sa sút, không còn sự linh hoạt tinh khôn.
- Dễ nóng nảy cáu gắt nhất là lúc đang phê.
- Lơ đãng, ngủ gật trong lớp.
- Thức khuya hơn không phải do bận học hay công việc, ngủ dậy muộn hơn.
4.3. Về đặc điểm tâm sinh lý:
- Giờ giấc thất thường, hay rời nhà vào những giờ cố định hoặc tranh cãi, thuyết phục người trong gia đình để được tự do hơn trong giờ giấc sinh hoạt, bước ra khỏi sự quản lý của gia đình.
- Tính tình thay đổi, có những lúc các em hưng phấn, cười nói vô cớ, nói nhiều nhưng câu chuyện cứ lặp đi lặp lại, có lúc lại ủ rũ, uể oải, hay ngáp vắt, ít chịu tiếp xúc với người thân trong gia đình, ít quan tâm đến vệ sinh cá nhân.
- Không giao tiếp với người nhà, trốn vào một góc riêng biệt để lơ mơ, lim dim, tận hưởng cơn ”phê” ma túy.
- Nói nhiều, vui vẻ, hoạt bát, thích âm thanh mạnh. Sau đó trốn vào góc riêng nằm nhắm mắt lim dim, cáu gắt nếu bị quấy rầy.
- Dấu hiệu hủy hoại thân thể : dùng dao, vật bén rạch hoặc dùng đầu thuốc lá đốt cổ tay, khủy tay để lại dấu thẹo.
- Khi thiếu ma túy có thể có dấu hiệu ngáp vặt, chảy nước mắt nước mũi, đau nhức vật vã, bồn chồn sợ hãi, tìm đủ mọi cách để có ma tuý.
5. Phản ứng xã hội:
Trẻ em nghiện ma túy là hành vi lệch chuẩn luôn bị xã hội luôn quan tâm và lên án mạnh mẽ. Lẽ ra ở lứa tuổi này trẻ học tập và vui chơi thì lại lâm vào tệ nạn xã hội. Nguyên nhân của tình trạng này là do hoàn cảnh xã hội, gia đình và ngay trong bản thân trẻ em chưa có định hường đúng đắn.
Phản ứng xã hội đối với trẻ nghiện ma túy rất khác nhau ở từng môi trường. Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra những chính sách và nhiều văn bản pháp quy làm quy tắc chung để điều hành xã hội. Ở mỗi cấp xã hội luôn đưa ra nhừng chính sách, những quy định để quản lý tình trạng này. Trong mỗi gia đình cũng đã quan tâm đến trẻ em nhiều hơn. Nhưng chính sách và sự quan tâm đó chưa thực sự động bộ nên dẫn đến tình trạng nghiện ma túy ở trẻ em vẫn ngày càng tăng.
Phản ứng của Nhà nước:
- Đảng và nhà nước ta luôn coi ma túy là một tệ nạn xã hội nghiêm trọng. Việc đấu tranh phòng chống tội phạm luôn được chú trong phòng ngừa. Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật, có những chương trình hành động chung. Đối với trẻ em – thế hệ tương lai của đất nước thì việc phòng chống ma túy càng được chú trọng hơn.
- Bộ luật phòng, chống ma túy đã được quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt nam khóa X, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 09 tháng 12 năm 2000. Bộ luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 06 năm 2001.
* Tích cực
-Trong Bộ luật phòng chống ma tuy đã có những quy định rất cụ thể đồi với trẻ nghiện ma túy. Tại điều 29 quy định:
+Người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi dến 18 tuổi đã được cai nghiện tại gia đình, cộng đồng hoặc đã được giáo dục nhiều lần tại xã, phường,thị trấn mà vấn còn nghiện hoặc không có nơi cư trú nhất định thì được vào cơ sở cai nghiện bắt buộc riệng cho họ.
+Người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi tự nguyện hoặc được gia đình làm đơn xin cai nghiện thì được nhận vào cai nghiện tại cơ sở cai nghiện bắt buộc dành riêng cho họ.
- Phòng chống ma túy đã được phân công cho các ban ngành, các cấp lánh đạo. Có sự phân công công việc cụ thể cho từng cấp, từng ngành, từng địa phương. Tạo thành một hệ thống thống nhất từ trung ương đến địa phương. Có sự chỉ đạo và giám sát chặt chẽ của Nhà nước.
- Nhà nước có sự quan tân nhiều hơn trong chiến dịch phòng chống ma túy bằng những chiến dịch hành động cụ thể như: tuyên truyền, mở các trung tâm giáo dục, trung tâm giáo dưỡng...
* Tiêu cực
- Bộ luật phòng chống ma túy đã được bàn hành nhưng những quy định của nhà nước chưa được thực hiện đồng bộ, chưa có sự phối hợp hợp lý giữa các cấp các ngành. Do vậy mà hiệu quả phòng chống chưa cao. Việc sản xuất và tàng trữ chất ma túy vẫn chưa được ngăn chặn có hiệu quả. Trẻ em dễ tiếp xúc với ma túy.
- Công tác cai nghiện đã được đẩy mạnh trong thời gian qua (cả nước có hơn 30 trung tâm cai nghiện) nhưng tỉ lệ tái nghiện vấn còn cao (80%) chứng tỏ trung tâm chưa thực sự hiệu quả trong công tác cai nghiện. Thực tế này xuất phát từ nhiều vấn đề về kỹ thuật, phương tiện, cách chữa trị..nhưng không thể không kể đến những tiêu cực ở các trung tâm. Công tác cai nghiện chưa có hình thức và phương pháp phù hợp với nhận thức, tâm lý cũng như mục đích cai nghiện. Nhận thức của các nghành địa phương về công tác cai nghiện và tái hòa nhập cộng đồng cho người nghiện vẫn chưa thống nhất. Vì vậy chưa có sự phối hợp đồng bộ, chưa có biện pháp giái quyết thích hợp trên từng địa bàn
Phản ứng của chính quyền địa phương và cộng đồng:
- Trong xã hội hiện đại có nhiều chính sách của Đảng và Nhà nước đưa ra để phát huy vai trò của cộng đồng trong việc giúp trẻ nghiện ma túy tái hòa nhập cộng đồng. Mọi người có cách nhìn nhận đúng hơn về tệ nạn ma túy nhưng sự kỳ thị và xã lánh vấn tồn tại. Chính thái độ này đã ảnh hưởng nhiều đến sự gia tăng hay tái hòa nhập cộng đồng của trẻ.
- Tại điều 26. Bộ luật phòng chống ma túy quy định:” Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tổ chức cho người nghiện ma túy, gia đình người nghiện ma túy khai báo về tình trang nghiện ma túy và đăng ký hình thức cai nghiện.”
*Tích cực
- Chính quyền địa phương và cộng đồng đã có sự nhận thức mức độ nghiêp trọng của vấn đề nghiện ma túy, nhất là khi nhóm người ngày càng có xu hướng trẻ hóa.Từ đó họ đưa ra cho mình những chương trình hành động của riêng mình. Khu vực nào có sự tuyên truyền và giáo dục tốt đã giảm tỉ lệ nghiện ma túy. Cộng đồng cùng chung tay giảm thiểu tác hại của nó gây ra.
- Nhận thức của người dân đã được nâng cao. Người dân có sự hiểu biết về ma túy để tự bảo vệ mình và người thân, tham gia vào hoạt động xã hội tích cực. Những phương tiện thông tin đại chúng luôn tích cực tuyên truyền, vận động và cung cấp những kiến thức về tệ nạn ma túy. Trong mỗi cộng đồng, địa phương luôn đưa ra chương trình hoạt động phòng chống ma túy của riêng mình.
*Tiêu cực
- Môi trường xã hội không lành mạnh vẫn còn tồn tại. Chính quyền địa phương, nhà trường và cộng đồng chưa phát huy hết được vai trò của mình. Vấn còn sự quản lý lỏng lẻo, sự thiếu quantaam đúng mức dến thế hệ tương lai.
- Chưa tạo được mối quan hệ đồng bộ giữa nhà trường và gia đình để có cách giáo dục trẻ tốt hơn. Có sự giám sát và phát hiện kịp thời khi trẻ có xu hướng không tốt. Đưa ra phương thức giáo dục hợp lý hướng trẻ vào những hoạt động xã hội lành mạnh.
- Khi có trẻ nghiện ma túy tai cộng đồng vẫn còn sự kỳ thị nhất định.Những dư luận xã hôi và Quan niệm của họ đã làm cho sự khó hòa nhập xã hội của trẻ khi quay vê địa phượng.
- Xã hôi nước ta vẫn chưa có những sân chơi lành mạnh cho trẻ. Trẻ thiếu những sân chơi thể thao, những câu lạc bộ vui chơi. Trẻ em dành thời gian vao chơi game, chát, rượu chè…
- Theo lý thuyết xã hội hóa, vai trò của nhóm bạn đồng trang lưa đong s vai trò rất quan trọng trong sự phát triển nhân cách của tre. Bản chất của mối quan hệ này dựa trên sự tương hợp về sở thích và hứng thú. Điều nay luôn tác đọng hai mặt, nếu trẻ tiếp xúc với nhóm bạn tốt sẽ tiếp thu những cử chỉ, hành vi đẹp, còn tiếp xúc với nhóm bạn xấu sẽ tiếp thu những hành vi xấu.
Phản ứng của gia đình:
Điều 26, luật phòng chống ma túy quy định: Gia đình người nghiện ma túy có trách nhiệm:
a, Khai báo với ủy ban cấp xã về người nghiên ma túy trong gia đình
mình và đăng ký hình thức cai nghiện cho người đo.
b, Động viên giúp đỡ và quản lý người nghiện ma túy tại gia đình, cai
nghiện ma túy tại cộng đồng theo sự hướng dẫn, giám sát của cán bộ y tế và
cán bộ cấp xã.
c, Theo dõi, giám sát, ngăn chặn người nghiện ma túy sử dụng chất ma
túy hoặc có hành vi gây mất trật tự và an toàn xã hội.
d, Hỗ trợ cơ quan có thẩm quyền đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện
và đóng góp kinh phí cai nghiện theo quy định của pháp luật.
- Ở Việt Nam, tệ nam ma túy đã và đang làm đau đầu các bậc phụ huynh trong các gia đình. Mạng lưới phân bổ ma túy đã đi vào từng ngõ hẻm, trường học, công viên, các nơi vui chơi giải trí…ở thành thị và lan dần đến vùng nông thôn.
- Gia đình là nơi trẻ sinh ra và lớn lên, vì vậy môi trường cuộc sống gia đình đã có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển tâm lý cũng như nhân cách của trẻ. Những đứa trẻ có mối quan hệ phức tạp như ly hôn, ly thân…có xu hường nghiện cao hơn. Những gia đình có điều kiện khác giả mà nuông chiều thái quá để cho con em mình có diều kiện giao du và chơi bời quá chớn rất dễ bị nghiện. Sự buông lỏng quản lý, sự nuông chiều thái quá hay sự không quan tâm là những nguyên nhân chính dẫn đến trẻ tiếp cận với ma túy và trở thành kẻ nghiện ma túy.
- Đối với trẻ nghiện ma túy thì phản ứng của gia đình đóng vai trò rất quan trọng. Gia đình sẽ làm nền tảng giáo dục cho trẻ quay về với cuộc sống, hòa nhập xã hội và phát huy vai trò của mình. Nhưng đây cũng chính là nới đẩy trẻ quay về con đường cũ. Xã hội hiện nay đang có những phản ứng tích cực và tiêu cưc.
*Tích cực
- Gia đình chính là nơi giáo dục và bảo vệ trẻ em tốt nhất. Theo tâm lý học phát triển, giai đoạn này gia đình đóng vai trò quan trọng. Gia đình không chỉ cung cấp cho trẻ về vật chất mà còn là chỗ dựa tinh thần.Cha mẹ là tấm gương sáng cho con học tập. Ngay từ khi còn nhỏ, các bậc phụ huynh đã có những cách định hướng cho trẻ.
- Biện pháp cai nghiện cho trẻ bị nghiện ma túy sẽ được đưa vào những trung tâm riệng biêt. Vai trò và sự hỗ trợ từ gia đình lúc này là vô cùng quan trọng. Trẻ em được sự quan tâm chăm sóc và giúp trẻ cai nghiện sẽ dễ dàng hơn. Khi gia đình trở thành môi trường giáo dục bằng tình thương yêu sẽ hiệu quả nhất.
- Sự nhận thức về tệ nạn ma túy của gia đình đã được nâng cao. Những kiến thức về ma túy và cách phòng chống đã được phổ biến hiện nay. Gia đình có trẻ nghiện ma túy cũng dễ dàng có được những kiến thức để cai nghiện cho trẻ và hôc trợ tâm lý cho trẻ.
- Gia đình cũng nhận được nhiều sự giúp đỡ từ môi trường bên ngoài để chăm sóc và giáo dục trẻ nghiện ma túy. Chính quyền địa phương luôn có chính sách hỗ trợ gia đình và tạo khả năng tiếp cận với các nguồn lực từ bên ngoài để hỗ trợ cho trẻ. Môi trường bạn bè người thân cũng đồng tình cùng chia sẻ. đây là điều kiện thuạn lợi cho trẻ trở lại hòa nhập xã hội sau khi cai nghiện.
*Tiêu cực
- Trong xã hội hiện đại gia đình dần mất chức năng của mình. Trước đây trẻ chủ yếu học tập và sống trong nội bộ gia đình thì trong cuộc sống hiện đại thì đã dẩy trẻ em ra ngoài xã hội rất sớm. Đy là nguyên nhân quan trọng dẫn trẻ lâm vào nghiện ma túy.
- Nhiều gia đình coi nhẹ việc quản lý, giáo dục con cái. Khi con em sa ngã họ phó mặc cho xã hội thậm chí là ruồng bỏ, né tránh trách nhiệm.mạt khác do quá nuông chiều con, nhiều gia đình khi phát hiện con em mình bị nghiện lại bao che, dung túng, giấu diễm. thậm chí có gia đình khi dến thăm con em đang cai nghiện tại trung tâm giáo dục 5-6, trong những quả cam, quả xoài mang theo…còn kèm vài tép heroin cho con đỡ nhớ.
- Gia đình có trẻ nghiện ma túy luôn lâm vào cảnh hoang mang và chịu nghiều áp lực từ bên ngoài xã hội. khi biết con mình bị nghiện thường la máng con cái, trách than cho số phận của mình. Khi định kiến xã hội cón qua nặng nề với người nghiện ma túy thì áp lực của cha mẹ ngày càng nặng nề “ ra đường không dám nhìn ai”
Tóm lại: Phản ứng của xã hội đối với trẻ nghiện ma túy rất khác nhau. Trong xã hôi hiên nay đây là vấn đề đã được Đảng và Nhà nước, chính quyền địa phương, cộng đồng và gia đình quan tâm. Đã đưa ra nhiều biện pháp phòng chống tệ nạn này và khắc phục hậu quả. Nhưng bên cạnh đó còn nhiều bất cập cần quan tâm hơn nữa dến trẻ em nghiện ma túy dể giẩm bớt tình trạng này và tái hòa nhập cho trẻ.
Các lý thuyết áp dụng:
Các lý thuyết là hệ thống các công cụ để nhân viên công tác xã hội áp dụng vào việc giải quyết vấn đề cho thân chủ một cách khoa học và có hiệu quả. ở phần này chúng tôi áp dụng lý thuyết hệ thống, lý thuyết phát triển, lý thuyết nhận thức- hành vi. Ngoài ra còn có lý thuyết vai trò, lý thuyết học hỏi, tập nhiễm xã hội.
Lý thuyết hệ thống:
Lý thuyết này nói lên mối liên kết tất yếu trong mạng xã hội giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với nhóm và ngược lại bởi vì các cá nhân không tồn tại một mình riêng lẻ mà phụ thuộc vào những hệ thống trong môi trường xã hội trực tiếp của họ như môi trường gia đình, nhà trường, nhóm bạn bè, cơ sở y tế… vì vậy công tác xã hội chú ý tới những hệ thống như vậy để giúp đỡ các cá nhân, nhóm có vấn đề.
Sử dụng lý thuyết hệ thống nhằm:
Hiểu được thân chủ tốt hơn, biết được những gì tác động vào thân chủ.
Giúp thân chủ tiếp cận và sử dụng các hệ thống mà họ đang có.
Tạo dựng mối liên hệ giữa cá nhân với nhóm có vấn đề với các hệ thống hỗ trợ.
Giúp thân chủ xác định được nhiệm vụ cuộc sống, xóa bỏ rào cản của cuộc sống và có cuộc sống hạnh phúc (tạo ra sự an sinh xã hội).
Lý thuyết nhận thức – hành vi:
Lý thuyết này quan tâm đến sự thay đổi nhận thức, giúp thân chủ biết được mình đang nhận thức sai vấn đề, cùng với nhận thức thay đổi thông qua đó thay đổi hành vi sai lệch của mình.
Lý thuyết này nhằm giảm những nhận thức và những hành vi không mong muốn, tăng nhận thức, hành vi mong muốn bằng các hình thức thưởng phạt.
Lý thuyết phát triển của Erikson:
Lý thuyết này xem xét ảnh hưởng của văn hóa xã hội tới sự phát triển nhân cách của trẻ. Tìm hiểu tâm, sinh lý lứa tuổi từ đó nhận biết được những gì dẫn đến vấn đề của trẻ và đưa ra những biện pháp giúp đỡ phù hợp.
Lý thuyết vai trò:
Vai trò thể hiện sự mong đợi của mọi người vào bản thân, vào địa vị của mình. Áp dụng lý thuyết này nhằm giúp thân chủ thấy được vai trò của mình đối với bản thân, gia đình và xã hội, qua đó mà thân chủ cố gắng thực hiện tốt vai trò của mình.
Thuyết học hỏi – tập nhiễm:
Giúp thân chủ biết được hành vi của mình là do ảnh hưởng của lối sống, văn hóa hoặc do dụ dỗ, lôi kéo dẫn đến thói quen hoặc hành vi đó.
Phân loại trẻ nghiện:
Trẻ sống trong gia đình.
Trẻ được sống cùng với bố mẹ nhưng lại không nhận được sự quan tâm đúng mức của cha mẹ. Họ mải mê với chuyện làm kinh tế, không quan tâm đến nhu cầu đời sống của các em, lơ là, buông lỏng các mối quan hệ bạn bè và hành vi ứng xử. Hoặc có gia đình lại giáo dục con cái quá nghiêm khắc, gây áp lực tâm lí khiến các em tìm đến ma túy để giải tỏa. Sự mâu thuẫn xung đột của cha mẹ khiến tâm lí các em chán nản, không có cơ chế phòng vệ những cám dỗ .
Trẻ sống trong gia đình thường được phát hiện hành vi nghiện sớm và nhận được sự can thiệp các dịch vụ hỗ trợ từ cả gia đình và xã hội. Đồng thời đặc điểm của đối tượng này giúp nhân viên CTXH dễ tiếp cận và giải quyết.
Trẻ lang thang.
Đây là đối tượng rất phức tạp về hoàn cảnh. Trẻ do nhu cầu cuộc sống hoặc thiết chế gia đình tan vỡ khiến các em phải lang thang kiếm sống. Trẻ sống trong môi trường phức tạp, tệ nạn xã hội và những nguy hiểm luôn rình rập các em. Do độ tuổi còn nhỏ nên các em thường dễ bị kẻ xấu lợi dụng làm các hành vi phạm pháp như đi đưa hàng, ăn trộm căn cắp…
Trẻ sống trong trung tâm giáo dưỡng.
Các em được đưa vào trung tâm hầu hết là do gia đình hoặc xã hội phát hiện hành vi nghiên ngập hoặc phạm pháp của trẻ. Khi được đưa vào trung tâm giáo dưỡng các em được tiến hành cai nghiện, phục hồi nhân phẩm, trở về với cộng đồng.
Mục đích của CTXH:
- Nhằm giúp trẻs nâng cao năng lực, khả năng ứng phó, khả năng giải quyết các vấn đề của bản thân.
- Giúp trẻ hiểu biết tác hại nguy hiểm của ma túy đối với thể chất, tinh thần của trẻ cũng như tác động đến gia đình và xã hội.
- Giúp trẻ tiếp cận được với các nguồn lực hỗ trợ, các dịch vụ xã hội để cải thiện chất lượng cuộc sống. Như các chính sách hỗ trợ cuộc sống cho người cai nghiện, hay các công ước về quyền trẻ em.
- Bên cạnh đó cũng là sự nâng cao kiến thức cho các bậc phụ huynh trong việc giáo dục con cái để chúng nhận thức được những tác hại của các chất gây nghiện và tránh xa chúng. Làm cho phụ huynh hiểu cách giáo dục như thế nào là tốt và phù hợp cho con cái của mình.
- CTXH với trẻ em nghiện ma túy còn huy động được sức mạnh của cộng đồng và toàn xã hội trong việc hỗ trợ trẻ hoà nhập với xã hội, với những trò vui chơi giải trí lành mạnh, để trẻ phát triển nhân cách hoàn thiện nhất. Thay đổi dần cách nhìn nhân và định kiến về trẻ nghiện của cộng đồng. Xem các em là nạn nhân chứ không phải tội phạm.
Vai trò của nhân viên CTXH:
Trẻ sống trong gia đình.
Hoàn cảnh của các em thường là sống trong gia đình có cha hoặc mẹ thậm chí là có cả cha lẫn mẹ nhưng không nhận được sự quan tâm chăm sóc nên đã dẫn đến hành vi nghiện ma túy. Hoặc do cha mẹ quá nuông chiều, không quản lí chặt chẽ con cái, tạo thói quen tiêu tiền hoang phí, đồng thời lại bị bạn bè, kẻ xấu lợi dung lôi kéo. Hậu quả là dẫn đến bị nghiện.
Nhân viên CTXH cần tìm hiểu, nhận diện vấn đề mà cá nhân đó đang gặp phải. Họ sẽ cung cấp thông tin cho cá nhân đó chứ không đặt vấn đề là trẻ phải thay đổi vì trong giai đoạn này bản thân trẻ nghiện có thể có thái độ phản đối hoặc lảng tránh. Đặc biệt hầu hết tâm lí của các em ở độ tuổi này thường có sự xung đột rất lớn, thích thể hiện cái tôi và cá tính, không thích làm theo sự dạy bảo của người khác. Nên sự khéo léo của nhân viên Công tác xã hội là phải hướng cho trẻ mục đích mà mình muốn.
Tìm ra những ưu điểm và thế mạnh của trẻ kết hợp với việc động viên, khuyến khích trẻ nói về những lợi ích khi thay đổi hành vi lạm dụng chất gây nghiện.
Người nhân viên cần cung cấp cho trẻ biết những tác hại của chất gây nghiện và hậu quả của nó. Giảm bớt áp lực tâm lý và tạo cảm giác thoải mái cho các em. Vì khi bị xem là người nghiện các em có tâm lí rất tự ti, ngại tiếp xúc với xung quanh, điều đó sẽ gây trở ngại cho người thực hành công tác xã hội. Điều quan trọng là phải gây dựng được lòng tin ở trẻ để việc trị liệu được hiệu quả.
Kết hợp với gia đình, bạn bè, nhà trường và các tổ chức y tế chăm sóc sức khỏe để đưa ra những biện pháp giúp đỡ trẻ cai nghiện và tránh tái nghiện. Trẻ sống trong gia đình có 1 nguồn lực rất quan trọng đó là gia đình và nhà trường. Không thể khẳng định hoàn toàn rằng các em nghiện do bố mẹ, thầy cô gây nên. Nhưng họ cũng cần chịu 1 phần trách nhiệm để trong việc cai nghiện và tránh tái nghiện cho các em. Cần nhìn nhận lại cách giáo dục trong gia đình và nhà trường cho thật hợp lí. Đó không phải là 1 nền giáo dục lơ là hay là quá cưỡng ép.
Trẻ em lang thang
Đây là nhóm đối tượng khó tiếp cận và trị liệu đối với nhân viện công tác xã hội, vì hoàn cảnh phức tạp khó phát hiện vấn đề và thu thập thông tin. Chỗ ở không cố định rất khó trong việc trị liệu Hoàn cảnh của nhóm trẻ em lang thang chủ yếu là không nơi nương tựa. Các em phải tự mình kiếm sống và thường tụ tập thành những nhóm nhỏ để nương tựa vào nhau. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến hành vi lạm dụng chất gây nghiện song chủ yếu là do bị lợi dụng hay không có sự quan tâm của người thân. Các em sống trong môi trường này thường có nguy cơ dẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật, trộm cắp, thường bị lợi dụng hoặc nguy hiểm hơn là liên quan đến tính mạng.
Trước hết nhân viên Công tác xã hội cần tìm hiểu về tình trạng hiện có của nhóm trẻ. Những em sống lang thang có hoàn cảnh phức tạp, nên việc tìm hiểu vấn đề các của đối tượng là hết sức khó khăn. Hơn nữa trẻ lang thang sống trong môi trường có nhiều yếu tố xấu cản trở việc giúp đỡ của nhân viên CTXH do vậy người làm công tác xã hội cần xác định đâu là động lực và đâu là trở lực cho việc cai nghiện của thân chủ.
Trẻ lang thang chủ yếu không được sự quan tâm chăm sóc của gia đình và nhà trường, các em thiệt thòi rất nhiều trong việc đáp ứng nhu cầu của mình nên chúng ta động viên các em trong nhóm nói lên những suy nghĩ của bản thân. Những ước muốn và khả năng của mình để phát huy tiềm năng từ chính thân chủ.
Thuyết phục động viên trẻ tham gia vào các nhóm đồng đẳng, các trung tâm cai nghiện. Thông qua nhóm đồng đẳng các em có thể hiểu được hoàn cảnh của nhau để từ đó có thể giúp nhau trong việc cai nghiện. Đó cũng là biện pháp
Liên hệ với các trung tâm cai nghiện, các tổ chức giúp đỡ trẻ có môi trường sống an toàn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc cai nghiện.
Như vậy, vai trò của nhân viên CTXH đối với cá nhân,nhóm trẻ lang thang không chỉ là việc tìm hiểu vấn đề trẻ gặp phải mà còn biết động viên khuyến khích trẻ thay đổi. Đồng thời người nhân viên phải thường xuyên đánh giá quá trình giúp đỡ để thấy được sự chuyển biến của các em từ đó có thể đưa ra những biện pháp giúp đỡ nhằm đạt hiệu quả tốt nhất.
Trẻ sống trong trung tâm giáo dưỡng.
Trẻ em sống trong trung tâm có thuận lợi hơn các nhóm trẻ khác vì được sự quan tâm của gia đình và đội ngũ y bác sĩ, trước tiên chúng ta cần tìm hiểu những vấn đề các em gặp trở ngại khi vào đây, tổn thương về tâm lí, tinh thần...
Trò chuyện, bằng những dẫn chứng cụ thể làm cho các em nhận biết rõ tác hại của ma túy và những hiểm họa về ma túy trong xã hội hiện nay. Từ đó việc tham gia cai nghiện của các em trở nên tích cực hơn.
Chúng ta cần nhận thấy nguồn lực quan trọng cần tận dụng khi trị liệu cho trẻ nghiện sống trong trung tâm là gia đình và cán bộ trung tâm. Cần phối hợp cùng gia đình giúp đỡ các em vượt qua gia đoạn khó khăn này. Gia đình sẽ là chỗ dựa rất quan trọng trong việc cai nghiện và chống tái nghiện. Cán bộ trung tâm là những người được đào tạo bài bản và khoa học, lại hay tiếp xúc trực tiếp với các em trong quá trình cai nghiện nên chúng ta cần phối hợp với họ để hiểu rõ vấn đề của thân chủ và những chuyển biến trogn quá trình cai nghiện để có những phương pháp giúp đỡ phù hợp đối với từng giai đoạn.
Còn một vấn đề quan trọng trong quá trình cai nghiện cho trẻ em dó là làm sao để các em được hòa nhập với công đồng khi trở về. Bởi vì cái nhìn của nhiều người trong chúng ta về người nghiện ma túy còn mang định kiến nặng nề. Bị cộng đồng xa lánh là 1 trong những điều khủng khiếp nhất đặc biệt người nghiện đã mang sẵn tâm lí tự ti mặc cảm. Chúng ta phải coi trẻ nghiện là nạn nhân chứ không phải tội phạm.
Gia đình không quan tâm, hoặc quá khắt khe với con cái, người lớn không biết cách làm cha mẹ là yếu tố dẫn tới những hành vi sai trái của tuổi trẻ. Một em đã kết thúc giai đoạn cai nghiện, trở về với gia đình, nhưng bị người cha mắng chửi, rất dễ tái nghiện.
Nếu cộng đồng coi người nghiện ma túy là tộ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Công tác xã hội với trẻ bị nghiện ma túy.doc