Để dẫn đến tình trạng trên có nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có một số nguyên nhân chủ yếu mà chúng ta cần chỉ ra. Trên cơ sở đó chúng ta mới có thể tìm ra những biện pháp và phương hướng thích hợp để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước.
Thứ nhất, trình độ xã hội hóa sản xuất ở Việt Nam còn thấp. Thật vậy, ở nước ta nền sản xuất vẫn là sản xuất nhỏ, manh mún, tản mạn, phân công lao đông kém phát triển (70% lao động làm nông nghiệp), kỹ thuật sản xuất chủ yếu ở trình độ thủ công, rất lạc hậu. Trong khoảng 6000 doanh nghiệp nhà nước thì có trên 50% doanh nghiệp vẫn sản xuất thủ công, khu vực ngoài quốc doanh còn lạc hậu hơn nữa. Trình độ người lao động còn rất hạn chế, đội ngũ công nhân có tay nghề cao không nhiều, hơn nữa lại không đồng đều trong cơ cấu tổ chức sản xuất của doanh nghiệp. Từ đó dẫn tới năng suất lao động rất thấp, tích luỹ ít, các doanh nghiệp đều rơi vào tình trạng thiếu vốn để đầu tư và khó có điều kiện đổi mới dây chuyền kỹ thuật công nghệ, đào tạo công nhân lành nghề có khả năng làm chủ công nghệ mới, năng suất lao động không được cải thiện. Khi doanh nghiệp muốn trở thành công ty cổ phần thì phải phát hành cổ phiếu cảu mình, lúc đó cổ phiếu của công ty sẽ kém hấp dẫn các cổ đông. Người có vốn không thể quá mạo hiểm đầu tư vào một công ty làm ăn kém hiệu quả, sức cạnh tranh kém ngay cả trên thị trường nội địa.
26 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1944 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Công ty cổ phần và thị trường chứng khoán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhà nước ở Việt Nam
Vấn đề cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước lần đầu tiên được nêu tại nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương khóa VII (tháng 11/1991) được cụ thể hóa dần trong các Nghị quyết và thông báo tiếp theo của Hội nghị. Đây là một giải đúng đắn để huy động vốn lâu dài cho các doanh nghiệp nhà nước đầu tư chiều sâu. Quá trình thực hiện cổ phần hóa có thể chia thành 2 giai đoạn chính:
ã Giai đoạn thí điểm (1992 - 1995).
Quyết định số 202/CT của Chủ tịch Thủ tướng Chính phủ được ban hành ngày 8/6/1992 về thực hiện thí điểm chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Sau 4 năm thực hiện, nước ta đã chuyển được 5 doanh nghiệp nhà nước thành các công ty cổ phần, bao gồm:
ã Công ty Đại lý Liên hiệp vận chuyển thuộc Bộ Giao thông vận tải(1993).
ã Công ty Cơ điện lạnh thuộc Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh(1993).
ã Xí nghiệp giày Hiệp An thuộc Bộ Công nghiệp(1994).
ã Xí nghiệp chế biến hàng xuất khẩu, thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An(1994).
ã Xí nghiệp chế biến thức ăn gia súc, thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn(1995).
Trong những năm thí điểm cổ phần hóa thì các doanh nghiệp nhà nước đều tập trung về phía Nam, trong đó có 4 doanh nghiệp thuộc địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, 1 doanh nghiệp thuộc đĩa bàn tỉnh Long An.
ã Giai đoạn mở rộng từ năm 1996 đến nay.
Ngày7/5/1996, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 28/CP xác định rõ giá trị doanh nghiệp, chế độ ưu tiên cho người lao động trong doanh nghiệp, giúp Thủ tướng chỉ đạo công tác cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, đồng thời giao nhiệm vụ cho các Bộ, các địa phương hướng dẫn và tổ chức thực hiện công tác này. Đến tháng 9/1998, nước ta đã có 33 doanh nghiệp nhà nước được chuyển thành công ty cổ phần. Tính từ năm 1992 đến năm 1998 thì cả nước mới có 38 doanh nghiệp đã hoàn thành quá trình cổ phần hóa. Ngoài ra, trong năm 1998 còn hơn 178 doanh nghiệp nhà nước đang chuẩn bị triển khai cổ phần hóa ở các bước khác nhau.
Trong hai năm 1996 – 1997, nhờ thực hiện tốt những văn bản pháp qui về triển khai cổ phần hóa do Chính phủ ban hành nên công tác cổ phần hóa đạt được những kết quả khá cao. Số doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa trong hai năm này tăng gấp nhiều lần 3 năm trước và đã đưa tổng số doanh nghiệp nhà chuyển thành công ty cổ phần hoạt động theo luật công ty lên 18 doanh nghiệp. Hầu hết các doanh nghiệp này sau khi chuyển sang công ty cổ phần đều phát triển tốt với chỉ tiêu tăng trưởng hàng năm cao.
Tuy vậy, tiến trình cổ phần hóa diễn ra chậm (chỉ có 18 doanh nghiệp trong 5 năm). Do đó, ngày 29/6/1998, Chính phủ ban hành Nghị định 44/1998/NĐ-CP về chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Chỉ riêng 6 tháng đầu năm 1998 có tới 12 doanh nghiệp nhà nước hoàn thành cổ phần hóa. Trong tháng 7/1998 có ít nhất 5 doanh nghiệp xong cổ phần hóa, đưa tổng số doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo Luật công ty lên bằng tổng số doanh nghiệp được cổ phần hóa trong 5 năm công lại. Đến 1/9/1998, cả nước có 38 doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần hóa. Ngoài ra còn có hơn 90 doanh nghiệp khác đang tiến hành cổ phần hóa ở những giai đoạn khác nhau, trong đó có nhiều công ty sắp hoàn thành; một số doanh nghiệp đang đăng ký tiến hành cổ phần hóa.
2.3. Một số kết quả ban đầu sau khi thực hiên cổ phần hoá các doánh nghiệp nhà nước.
Tính từ năm 1991 đến năm 1998, trong số 38 doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần hóa, có 12 doanh nghiệp đã hoạt động từ một năm trở lên theo Luật công ty. Nói chung, các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa do huy động thêm được vốn để đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ nên năng lực sản xuất kinh doanh, năng suất, hiệu quả và lợi nhuận cao hơn trước: vốn điều lệ (kể cả vốn của Nhà nước) tăng bình quân 19,06%/năm, doanh thu tăng bình quân 46%/năm, lợi nhuận tăng bình quân 44%/năm, các khoản nộp ngân sách tăng bình quân 82%/năm; tỷ suât lợi nhuận năm 1997 trên vốn sở hữu (gồm vốn góp ban đầu và tích luỹ) là 44%[6,126].
Quyền lợi của người lao động trong công ty, đồng thời là các cổ đông gắn liền với quyền lợi của công ty. Số lao động làm việc tại công ty cổ phần tăng bình quân 30%/năm, thu nhập của người lao động tăng bình quân 14,3%/năm; ngoài ra, người lao động trong công ty còn được chia lợi tức trên vốn góp cổ phần từ lợi nhuận sau thuế từ 22 – 24%/năm [6,131]. Phương pháp quản lý, điều hành công ty thay đã được đổi, do đó trách nhiêm của Hội đồng quản trị và giám đốc điều hành cao hơn nhiều, hoạt động của công ty trở nên có tính hiệu quả cụ thể, rõ ràng hơn.
Công ty cổ phần đã tạo điều kiện vho người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp, khai thác và động viên mọi nguồn vốn trong xã hội vào hoạt động kinh doanh, bổ sung cho nguồn thu của Nhà nước. Tính từ năm 1992 đến năm 1997 có 18 doanh nghiệp được cổ phần hóa đem lại cho Nhà nước 37.724 triệu đồng, bao gồm: tiền thu về bán cổ phần 30.207 triệu đồng, phần lợi tức của Nhà nước từ các công ty cổ phần 6.995 triệu đồng, lãi tiền vay mua chịu cổ phần của cán bộ công nhân viên 522 triệu đồng[5,33].
Tóm lại, các doanh nghiệp dã chuyển thành công ty cổ phần đều cho thấy hiệu quả hoạt động kinh doanh tăng rõ rệt. Nhờ hiệu qua được cải thiện nên tăng thêm được việc làm, tăng thu nhập cho cổ đông(trong đó có Nhà nước và người lao động) vừa hưởng mức cổ tức cao, vừa tăng giá trị vốn góp tại công ty. Nhà nước không những tăng trưởng vốn góp, được chia cổ tức mà còn tăng cường được những khoản nộp ngân sách.
3. Một số vấn đề còn tồn tại khi triển khai cổ phần hoá các doanhnghịêp nhà nước ở Việt Nam.
3.1.Một số vấn đề còn tồn tại
Tuy tính khả thi và hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa nói riêng và các doanh nghiệp cổ phần nói chung đã được thực tế chứng minh, nhưng so với mục tiêu chuyển 150 doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần năm 1998 và so với số lượng doanh nghiệp nhà nước không thuộc diện Nhà nước giữ 100% vốn thì quá chậm, hơn nữa lại không đồng đều giữa các ngành, các địa phương. Cho đến năm 1998, cả nước còn 5 bộ, 35 tỉnh, thành phố và 11 Tổng công ty do Tủ tướng Chính phủ thành lập chưa triển khai cổ phần hóa một doanh nghiệp nào.
Việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước vẫn đang dừng lại ở mức độ thử nghiệm mặc dù Nhà nước có khuyến khích động viên các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa thông qua một số ưu đãi về thuế và các điều kiện tài chính khác nhằm làm cho việc cổ phần hóa mang tính chất tự nguyện. Trong khi đó các cấp, các ngành ở trung ương và địa phương chưa quán triệt đầy đủ các quan điểm về cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước. Một số lãnh đạo chính quyền cơ sở lo ngại cổ phần hóa làm mất chủ quyền của Nhà nước, làm mất vai trò kinh tế của quốc doanh, từ đó do dự, chần chừ chưa muốn cổ phần hóa.
Nhà nước chưa có những văn bản đủ tầm cỡ về mặt pháp lý, các văn bản của Nhà nước vẫn chỉ là những Nghị định, Nghị quyết, Thông báo chứ chưa có những văn bản tầm cỡ luật, pháp lệnh về cổ phần hóa. Một số nội dung trong văn bản chỉ đạo chưa rõ ràng, thiếu cụ thể, nhiều vấn đề chưa được khẳng định dứt khoát.
Cho đến năm 1998, nước ta chưa có cơ quan chuyên trách về cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước. Bộ phận chỉ đạo cổ phần hóa ở cả trung ương lẫn địa phương đều kiêm nhiệm nên chưa tập trung vào các công tác chỉ đạo cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, dẫn đến công ciệc cổ phần hóa trở nên chậm trễ, kéo dài. Ban chỉ đạo cổ phần hóa trung ương không đủ thẩm quyền quyết định trực tiệp các đề án, kế hoạch cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước mà chỉ có nhiệm vụ hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc và giám sát các bộ, ngành, địa phương thực hiện cổ phần hóa. Một số chính sách, chế độ cụ thể đối với các doanh nghiệp nhà nước chưa đủ sức hấp dẫn, chưa lôi cuốn các doanh nghiệp hăng hái tiến hành cổ phần hóa.
Huy động vốn của toàn xã hội là mực tiêu của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước nhưng tỷ lệ cổ phần bán ra ngoài xã hội còn quá thấp, các công ty cổ phần hiện nay đại đa số là các công ty cổ phần nội bộ, vì thế thị trường tài chính hiện nay chưa có sự quan tâm của quảng đại quần chúng trong xã hội. Việc tuyên truyền phổ biến chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước chưa được tiến hành sâu rộng trong nhân dân, người lao động trong doanh nghiệp.
Chính vì những lẽ trên mà tiến trình cổ phần hóa ở nước ta trong thời gian qua vẫn còn rất chậm, do đó các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa không nhiều, công ty cổ phần vẫn chưa thể hiện đầy đủ vai trò của mình trong nền kinh tế quốc dân.
2.2.Phân tích một số nguyên nhân chủ yếu.
Để dẫn đến tình trạng trên có nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có một số nguyên nhân chủ yếu mà chúng ta cần chỉ ra. Trên cơ sở đó chúng ta mới có thể tìm ra những biện pháp và phương hướng thích hợp để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước.
Thứ nhất, trình độ xã hội hóa sản xuất ở Việt Nam còn thấp. Thật vậy, ở nước ta nền sản xuất vẫn là sản xuất nhỏ, manh mún, tản mạn, phân công lao đông kém phát triển (70% lao động làm nông nghiệp), kỹ thuật sản xuất chủ yếu ở trình độ thủ công, rất lạc hậu. Trong khoảng 6000 doanh nghiệp nhà nước thì có trên 50% doanh nghiệp vẫn sản xuất thủ công, khu vực ngoài quốc doanh còn lạc hậu hơn nữa. Trình độ người lao động còn rất hạn chế, đội ngũ công nhân có tay nghề cao không nhiều, hơn nữa lại không đồng đều trong cơ cấu tổ chức sản xuất của doanh nghiệp. Từ đó dẫn tới năng suất lao động rất thấp, tích luỹ ít, các doanh nghiệp đều rơi vào tình trạng thiếu vốn để đầu tư và khó có điều kiện đổi mới dây chuyền kỹ thuật công nghệ, đào tạo công nhân lành nghề có khả năng làm chủ công nghệ mới, năng suất lao động không được cải thiện. Khi doanh nghiệp muốn trở thành công ty cổ phần thì phải phát hành cổ phiếu cảu mình, lúc đó cổ phiếu của công ty sẽ kém hấp dẫn các cổ đông. Người có vốn không thể quá mạo hiểm đầu tư vào một công ty làm ăn kém hiệu quả, sức cạnh tranh kém ngay cả trên thị trường nội địa.
Mặt khác, trình độ sản xuất thấp và năng suất lao động thấp cũng là nguyên nhân của thu nhập người lao động thấp. Vì thế khả năng tích luỹ để tái sản xuất mở rộng rất hạn hẹp, số người có tiền đầu tư mua cổ phiếu không nhiều. Hơn nữa, nước ta, do ảnh hưởng của lối sống trong cơ chế bao cấp, những người có thu nhập cao thường tích luỹ dưới dạng mua sắm cácđồ vật có giá trị như: đất đai, nhà cửa, xe cộ, vàng bạc... ít có thói quen tích luỹ theo cách mua cổ phiếu, trái phiếu...
Cuối cùng là phía doanh nghiệp khó phát hành cổ phiếu do hoạt động sản xuất kinh doah kém hiệu quả, còn đông đảo các tầng lớp dân cư lại không có nhiều tiền để đầu tư vào cổ phiếu do thu nhập thấp.
Thứ hai, trong những năm qua, sự thiếu vắng của thị trường chứng khoán là một nguyên nhân quan trọng cản trở quá trình hình thành các công ty cổ phần ở nước ta. Sự chuyển đổi nền kinh tế sang kinh tế thị trường kéo theo nhiều thị trường mới hình thành và phat triển: thị trường công nghệ, thị trường dịch vụ thông tin, tư vấn pháp lý, tài chính, ngân hàng, kiểm toán, thị trường sức lao động... Công ty cổ phần ra đời tạo tiền đề và đòi hỏi phải có sự ra đời tương ứng của thị trường chứng khoán để trao đổi mau bán cổ phiếu, trái phiếu... nhằm khai thông dòng chảycủa vốn dưới dạng cổ phiếu, trái phiếu của công ty. Nếu không có thị trường chứng khoán thì vốn không được lưu chuyển, bị tắc nghẽn, làm cho các công ty thiếu vốn khó có thể huy động được, từ đó cản trở qua trình hình thành các công ty cổ phần.
Thời gian qua(), nước ta đã có một trung tâm giao dịch chứng khoán ở quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có 5 công ty được niêm yết cổ phiếu tại trung tâm này. Đây là những bước đi đầu tiên để hình thành và phát tiển hệ thống thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Sự ra đời của trung tâm giao dịch chứng khoán sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty cổ phần được thành lập và phát triển.
Thứ ba, Việt Nam thiếu môi trường pháp luật, kiểm toán để hình thành công ty cổ phần. Luật Công ty ra đời tạo cơ sở pháp lý cho sự ra đời của công ty cổ phần, tuy nhiên nhiều thể chế pháp lý, các chính sách khác nhau liên quan đến công ty cổ phần như: các qui chế về chế độ công khai tài chính, về viêc huy động vốn đối với nước ngoài, về tiêu chuẩn tối thiêu bắt buộc mỗi cá nhân phải có để được bầu vào Hội đồng quản trị, về quyền hạn và trách nhiệm của các quản trị viên, về số lượng cổ phiếu mà mỗi thành viến sáng lập bắt buộc phải mua, các qui chế và giải pháp bảo đảm việc quản lý và giám sát việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu của công ty cổ phần đều còn bỏ ngỏ hoặc thiếu đồng bộ. Mặt khác, Luật thương mại, Luật kiểm toán, Luật chứng khoán vẫn chưa được ban hành hoặc mới ban hành gần đây. Chế đọ kiểm toán bắt buộc chưa được pháp luậtqui định cụ thể, cho nên các bảng tổng kết tài sản cảu công ty thiếu sức thuyết phục đối với các nhà đầu tư. Những chậm trễ và thiếu hụt trên đã gây những trở ngại không nhỏ cho tiến trình cổ phần hóa ở nước ta.
Thứ tư, tư tưởng và tâm lý của đại bộ phận người Việt Nam chưa quen với hình thứcđầu tư bằng cổ phiếu, trái phiếu, có tâm lý e ngại sợ chệch hướng Xã hội chủ nghĩa. Tâm lý này bắt nguồn từ việc đồng nhất hình thức kinh tế công ty cổ phần với chủ nghĩa tư bản của đông đảo công chúng nước ta do công ty cổ phần ra đời và phát triển trong nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa.
Bên cạnh đó, do tồn tại lâu trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp nên người dân không quen với tâm lý làm giàu và không giám chấp nhận mạo hiểm để đầu tư cho cổ phiếu, trái phiếu. Các thông tin về chủ trương cổ phần hóa các doanh nghiêp nhà nước, về việc sử dụng các hình thức kinh tế tư bản chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ, kết quả của những doanh nghiệp đã cổ phần hóa chưa được phổ biên sâu rộng trong nhân dân và người lao động trong các doanh nghiệp.
Thứ năm, môi trường kinh tế chưa thật sự bình đẳng, chưa tạo được mặt bằng cơ chế chính sách cho các thành phần kinh tế cùng cạnh tranh và phát triển. Nước ta chưa có văn bản pháp lý có tầm luật hoặc pháp lệnh về cổ phần hóa cũng như chưa có bộ máy tổ chức được giao đầy đủ quyền và nghĩa vụ tương xứng để thay mặt Nhà nước thực hiện nhiệm vụ cổ phần hóa, do đó phần lớn các doanh nghiêp không muốn cổ phần hóa. Việc xác định giá trị doanh nghiệp có nhiều quan điểm khác nhau, không thống nhất dẫn đến tình trạng có tới hai hội đồng định giá nên cồng kềnh, tốn kém nhưng lại không có một cơ quan chịu trách nhiệm chính.
II. giải pháp góp phần thúc đẩy quá trình cổ phần hóa -ý nghĩa của việc nghiên cứu công ty cổ phần và quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam.
1. Mục tiêu, phương hướng cổ phần hóa ở nước ta.
Muốn cổ phần hóa thì chúng ta cần phải chỉ ra những mục tiêu của việc cổ phần hóa. Nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 19/6/1998 nêu rõ:
ã Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế, xã hội trong và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ tạo viêc làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức mạnh cạnh tranh, thay đổi cơ cấu doanh nghiệp nhà nước.
ã Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những người đã góp vốn được làm chủ thực sự; thay đổi phương thức quản lý tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng cường phát triển đất nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế.
Huy động vốn và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn là một trong những điều kiện quan trọng hàng đầu để đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa của đất nước, đó cũng là điều kiện tối quan trọng để nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Để huy động được vốn, doanh nghiệp phải đảm bảo nhiều điều kiện, trong đó khả năng kinh doanh có hiệu quả là điều kiện tiên quyết. Hiện nay, việc nâng cao hiệu quả kinh doanh nằm ở sự gắn bó mật thiết giữa quyền sở hữu với quyền quản lý và sử diụng tài sản của doanh nghiệp, xác định rõ người chủ đích thực của các tài sản đó. Việc huy động thêm vốn từ cổ phần hóa là điều kiện xác lập người chủ một bộ phận tài sản của doanh nghiệp, người chủ ấy cùng vớing đại diện Nhà nước ở doanh nghiệp quản lý và điều hành hoạt động kinh doanh một cách hiệu quả nhất. Nếu không có sự quản lý tốt, vốn huy động được cũng không mang lại hiệu quả mong muốn. Như vậy, mục tiêu hàng đầu của cổ phần hóa là thúc đẩy nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trên cơ sở đảm bảo vai trò làm chủ thực sự của những người chủ sở hữu tài sản.
2. Một số biện pháp nhằm đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước và nâng cao vai trò của công ty cổ phần trong phát triển kinh tế ở Việt Nam
Trước những thực tế về cổ phần hóa ở nước ta trong thời gian qua, để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa và nâng cao vai trò của công ty cổ phần ở nước ta, bài viết nay xin được đưa ra một số biện pháp:
ã Đánh giá cụ thể năng lực hoạt động và hiệu quả kinh tế thực tế của từng doanh nghiệp để có biện pháp chấn chỉnh, tạo điều kiện cần thiết cho các doanh nghiệp chủ động sản xuất kinh doanh. Đặc biệt cần làm lành mạnh tài chính của các doanh nghiệp như: vấn đề vốn, xử lý công nợ dây dưa, đưa vào nề nếp chế độ kế toán, kiểm toán và công khai tài chính doanh nghiệp
Đối với các doanh nghiệp nhà nước cần giữ lại thì Nhà nước phải đầu tư vốn và kiểm soát chặt chẽ hoạt động của doanh nghiệp. Có thể cho phép các doanh nghiệp này phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu đặc biệt để huy động vốn cho hoạt động kinh doanh, đổi mới công nghệ, thiết bị và đầu tư chiều sâu. Còn đối với các doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả, không thể cổ phần hóa được thì Nhà nước cần phải kiên quyết giải thể hoặc sát nhập.
Đối với các doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả và có khả năng phát triển thì Nhà nước cần xúc tiến cổ phần hóa. Tuỳ theo tính chất và khả năng thu hút vốn của từng doanh nghiệp mà quy định tỷ lệ cổ phiếu Nhà nước cần nắm giữ. Vốn cổ phần của Nhà nước chỉ nên mang tính hỗ trợ chứ không nên vì mục đích khống chế hay quản lý doanh nghiệp.
ã Nước ta cần thành lập một cơ quan chuyên trách về công tác cổ phần hóa được tổ chức thống nhất từ trung ương đến địa phương để quản lý và theo dõi các doanh nghiệp được đưa ra cổ phần hóa. Các doanh nghiệp sau khi được các cơ quan chủ quan đưa vào thuộc diện phải cổ phần hóa được chuyển sang cho cơ quan chuyên trách về công tác cổ phần hóa quản lý. Cơ quan này có trách nhiệm thúc đẩy các doanh nghiệp nhanh chóng cổ phần hóa (từ việc xác định lại giá trị doanh nghiệp cho đến việc xây dựng các dự án, phương án cũng như tiến trình làm công tác cổ phần hóa, chỉ đạo và giúp đỡ hoạt động của các doanh nghiệp) cho đến khi các doanh nghiệp này tiến hành đại hội cổ đông lần thứ nhất.
ã Để bảo đảm cho việc phát hành cổ phiếu được an toàn, bảo vệ quyền lợi của các nha đầu tư, cần phải có các tổ chức tài chính mạnh đứng ra bảo lãnh cho việc phát hành chứng khoán của các doanh nghiệp. Các tổ chức này hoạt động như các công ty chứng khoán. Có cơ chế tài chính bắt buộc khi phát hành chứng khoán, các công ty phải được bảo lãnh, đảm bảo cho việc thanh toán và thanh khoản của các chứng khoán này.
ã Nước ta cần đẩy mạnh và mở rộng hoạt động của trung tâm giao dịch chứng khoán, không ngừng cải thiện nhằm tạo ra một thị trường chứng khoán tập trung, có tổ chức hợp lý, được quản lý thống nhất. Việc này đóng vai trò quan trọng vì nó đưa hoạt động chứng khoán ra đại chúng, công chúng đầu tư có thể tham gia một cách rộng rãi.
ã Tăng cường hiệu lực thực thi pháp luật và bổ sung sửa đổi, tiếp tục ban hành các luật cần thiết, theo hướng đảm bảo quyền , lợi ích và trách nhiệm của công dân, các tổ chức kinh tế xã hội đối với tài sản và sở hữu của mình. Lưu ý xem xét ban hành Luật cổ phần hóa để tạo cơ sở pháp lý và sự đồng thuận xã hội cho quá trình này, kèm theo đó có thể xem xét hình thành các thể chế hỗ trợ cho quá trình này(chẳng hạn lập quỹ đầu tư chung, thiết lập ngân hàng bảo hiểm cổ phần hóa...), ưu tiên bán cổ phần cho người lao động lam việc trong các doanh nghiệp được cổ phần hóa, các hiệp hội quần chúng...
3. ý nghiã của việc nghiên cứu công ty cổ phần.
3.1. ý nghĩa lý luận.
Như vậy, công ty cổ phần đã có lịch sử ra đời và phát triển từ rất lâu nhưng nó vẫn là hình thức kinh tế mới đối với Việt Nam trong thời kỳ chuyển đổi sang kinh tế thị trường. Chính vì thế chúng ta cần nghiên cứu để hiểu rõ nó. Công ty cổ phần ra đời đầu tiên trong nền kinh tế tư bản, gắn liền với quá trình tích tụ tập trung tư bản và nền đại công nghiệp cơ khí. Sự ra đời của công ty cổ phần không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của bất cứ tổ chức hay cá nhân nào mà là do đòi hỏi của sự phát triển của nền kinh tế thị trường, đây là một quá trình tất yếu khách quan phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Cũng như các quá trình kinh tế khác, sự ra đời của công ty cổ phần đòi hỏi phải có một số điều kiện quan trọng làm tiền đề: sự phát triển của các loại thị trường, trong đó thị trường vốn có vai trò quan trọng, sự phát triển của quan hệ tín dụng, sự tích tụ - tập trung tư bản và xã hội hóa tư bản ngày càng cao, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật...
Công ty cổ phần ra đời đã giải quyết được vấn đề huy động vốn trong nền kinh tế thị trường. Từ đó nó thúc đẩy nhanh hơn nữa quá trình tập trung tư bản, làm xuất hiện những xí nghiệp lớn mà không một tư bản riêng lẻ nào có thể đảm đương nổi. Ngày nay hình thức công ty cổ phần không còn bị bó hẹp trong phạm vi một quốc gia nữa mà qui mô của nó là toàn cầu (công ty GMC của Mĩ năm 1992 có doanh số là 132 tỷ USD, sử dụng 876 ngàn lao động, 136 chi nhánh ở hơn 100 nước trên thế giới[3,356]. Công ty cổ phần với sự xã hội hóa sở hữu đã đối lập với các xí nghiệp tư bản tư nhân.
3.2. ý nghĩa thực tiễn.
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới nền kinh tế cần phải thay đổi hình thức tổ chức doanh nghiệp vì cơ chế kế hoạch hóa tập trung đã làm sơ cứng các doanh nghiệp nhà nước, làm các doanh nghiệp này không rõ ai là chủ đích thực, từ đó hiệu quả kinh doanh kém. Công ty cổ phần là hình thức tổ chức kinh doanh phù hợp với kinh tế thị trường và cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước là chủ trương đúng đắn để giải quyết vấn đề này, nhất là khi nước ta đã hội tụ đầy đủ những điều kiện để công ty cổ phần ra đời và phát triển.
Đến nay, số doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa ở nước ta không nhiều nhưng những kết quả mà chúng đạt được đã chứng tỏ công ty cổ phần có vai trò không nhỏ trong nền kinh tế nước ta, quan trọng nhất là nó đã tạo ra cơ hội thu hút vốn đầu tư từ nhiều nguồn khác nhau, thay đổi công nghệ và nâng cao hiệu quả kinh tế cho các doanh nghiệp Việt Nam. Công ty cổ phần đã tạo động lực mới cho người lao động phát huy năng lực trong sản xuất thông qua thu nhập từ tiền công và lợi tức cổ phần, qua đó góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước đã được bắt đầu từ năm 1991 nhưng tốc độ cổ phần hóa vẫn chậm. Vấn đề này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau, song để giải quyết chúng thì cần sự đóng góp của tất cả các cá nhân, các thành phần kinh tế và nhà nước. Mặt khác, cần thiết phải tuyên truyền sâu rộng trong xã hội về cổ phần hóa, để mọi người hiểu được cổ phần hóa không phải là tư nhân hóa và công ty cổ phần tồn tại và phát triển ở Việt Nam là khách quan. Có như vậy chúng ta mới có cơ sở để đẩy mạnh hơn nữa quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước.
4. Vai trò của công ty cổ phần và cổ phần hoá các doanh nhà nước ở nước ta hiên nay.
Các công ty cổ phần, trong đó chủ yếu là các công ty được hình thành từ cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước đã có vai trò không nhỏ trong sự nghiệp đổi mới nền kinh tế nước ta. Cổ phần hóa đã đáp ứng phần nào những yêu cầu bức thiết của công cuộc cải cách doanh nghiệp nhà nước đòi hỏi, giải toả những khó khăn trong ngân sách Chính phủ, khuyến khích người lao động đống góp tích cực và có trách nhiệm sức lực, trí tuệ của họ cho hoạt động sản suất kinh doanh của doanh nghiệp.
Công ty cổ phần ra đời và phát triển đã tháo gỡ khó khăn cho ngân sách nhà nước, đồng thời huy động được nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội. Những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đang trong thời kỳ chuyển đổi mạnh mẽ, việc đảm bảo nền tài chính quốc gia vững mạnh là yêu cầu cực kỳ bức thiết. Ngân sách nhà nước không chỉ cần được phân bổ một cách hợp lý, có lợi cho việc tái cơ cấu nền kinh tế quốc dân mà tài sản nhà nước cũng cần được sử dụng nhằm mang lại hiệu quả đầu tư tối đa. Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước đã giúp chính phủ giải quyết phần nào những đòi hỏi trên. Chính phủ không những có thể điều tiết hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bằng cách khống chế số cổ phiếu bán ra hoặc những biện pháp khác mà còn được hưởng cổ tức từ kết quả kinh doanh của công ty. Tài sản của doanh nghiệp nhà nước nhờ cổ phần hóa thu hồi lại sẽ được phân bố cho những dự án quốc gia giàu tính khả thi hoặc đầu tư vào những ngành mang lại nhiều lợi ích kinh tế, xã hội quan trọng nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững, phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Hơn nữa, các công ty cổ phần dưới quền điều hành của chủ nhân mới, với động lực mới trong quản lý doanh nghiệp, phương hướng hoạt động thay đổi theo hướng lấy hiệu quả kinh doanh làm mục tiêu, không ngừng củng cố sức mạnh cạnh tranh, các doanh nghiệp sẽ huy động thêm nhiều nguồn vốn nhà rỗi từ nhiều tầng lớp trong xã hội. Thực tế đã
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 72855 (2).DOC