MỤC LỤC
Lời mở đầu 3
I. Công ty tài chính 4
1. Định nghĩa 4
2. Đặc điểm 4
3. Phân loại 5
3.1. Công ty tài chính bán hàng 5
3.2. Công ty tài chính tiêu dùng 5
3.3. Công ty tài chính doanh nghiệp 6
4. Thực trạng công ty tài chính tại Việt Nam 11
II.Công ty bảo hiểm 12
1. Khái quát về công ty bảo hiểm 12
1.1. Sự cần thiết khách quan của công ty bảo hiểm 12
1.2. Định nghĩa 13
1.3. Phân loại 13
1.4. Đặc trưng doanh nghiệp bảo hiểm 16
1.5. Yêu cầu cần thiết của công ty bảo hiểm. 16
2. Yêu cầu cần thiết của công ty bảo hiểm 17
2.1. Phí bảo hiểm và hợp đồng 17
2.2. Nội dung 18
2.3. Đặc điểm 18
2.4. Nguyên tắc hoạt động 19
3. Thực trạng công ty bảo hiểm tại Việt Nam 21
23 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2789 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Công ty tài chính, công ty bảo hiểm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oài ra các tổ chức này còn đầu tư vào tất cả các loại công cụ trên thị trường tiền tệ nhằm phân tán rủi ro, vừa thu được nhiều lợi nhuận hơn.
Một trong những hạn chế của các công ty tài chính so với các tổ chức ngân hàng là không được làm dịch vụ thanh toán và nhận tiền gửi dưới 1 năm. Các công ty tài chính là trung gian tài chính, cung ứng tín dụng trung và dài hạn. Tuy vậy, các công ty tài chính hiện nay đã khắc phục bằng việc phát triển thêm nhiều sản phẩm dịch vụ mới như dịch vụ nhận ủy thác vốn, nhận ủy thác đầu tư bao thanh toán, thu xếp vốn, ... cho cả ngắn hạn, trung và dài hạn. Những dịch vụ này đã giúp công ty tài chính thực hiện được các dịch vụ khác tương tự như một ngân hàng thương mại.
3.Phân loại
Có 3 loại hình công ty tài chính, đó là: công ty tài chính bán hàng, công ty tài chính tiêu dùng, công ty tài chính doanh nghiệp.
3.1. Công ty tài chính bán hàng
Công ty tài chính bán hàng do các công ty sản xuất, bán hàng và các nhà bán lẻ làm chủ sở hữu và thực hiện các khoản cho vay tài trợ cho khách hàng mua các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của chính công ty mình. Hình thức bán hàng của các công ty tài chính bán hàng là hình thức bán hàng trả góp nhằm đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm của công ty.
Ví dụ: Hệ thống bán lẻ Sears tài trợ khách hàng mua các hàng hóa và dịch vụ tại các cửa hàng của Sears, GM Acceptance Corporations tài trợ cho khách hàng mua ô tô của GM, ...
Công ty tài chính cạnh tranh trực tiếp với ngân hàng về các khoản cho vay mua hàng và thu hút được khá nhiều khách hàng bởi vì thông thường các khoản vay ở các công ty tài chính bán hàng được thực hiện nhanh hơn và tiện lợi hơn ngay tại các địa điểm mua hàng.
3.2 Công ty tài chính tiêu dùng
Công ty tài chính tiêu dùng là các doanh nghiệp riêng biệt, các công ty cổ phần hay do các ngân hàng làm chủ sở hữu ( Citicorp, Owns Person-to-Person Finance Company hoạt động khắp mọi nơi trên thế giới ).
Mục đích của các công ty tài chính tiêu dùng là thực hiện các khoản cho vay cho khách hàng mua các loại hàng hóa cụ thể. Ví dụ như mua các vât dụng gia đình, sửa chửa nhà cửa hay giúp đỡ chi trả các khoản nợ nhỏ.
Hình thức bán hàng của các công ty tài chính tiêu dùng là trả góp định kỳ. Thông thường các công ty này cho các khách hàng không có khả năng vay từ các nguồn khác và định lãi suất cao hơn.
3.3. Công ty tài chính doanh nghiệp
Công ty tài chính doanh nghiệp cung cấp các hình thức tín dụng chuyên biệt cho các doanh nghiệp bằng các hình thức chính sau đây:
3.3.1. Bao thanh toán (factoring)
Bao thanh toán là một hình thức cấp tín dụng cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua, bán hàng hóa đã được bên bán hàng và bên mua hàng thỏa thuận tại hợp đồng mua bán.
Ví dụ: Một xí nghiệp may mặc có hóa đơn chưa thanh toán từ các cửa hàng bán lẻ đã mua từ xí nghiệp với giá trị 100.000 đôla. Nếu xí nghiệp này cần tiền mặt ngay để mua trang thiết bị, họ có thể bán tài khoản thanh toán này cho công ty tài chính với giá là 90.000 đôla và giao quyền thu lại số nợ 100.000 đôla cho công ty tài chính.
Tiện ích của bao thanh toán:
Đối với doanh nghiệp bán hàng
Cải thiện dòng tiền, tăng khả năng thanh khoản.
Tăng doanh số bán hàng nhờ chính sách bán hàng trả chậm.
Giảm chi phí hành chính, quản lý công nợ.
Có nguồn tài chính mới mà không phụ thuộc vào các khoản vay Ngân hàng, không yêu cầu phải có tài sản bảo đảm
Giảm thiểu nợ xấu, hạn chế rủi ro tín dụng.
Đối với doanh nghiệp mua hàng
Có thể mua hàng theo điều khoản thanh toán trả sau.
Sử dụng tín dụng người bán để tài trợ vốn lưu động.
Cơ hội đàm phán điều khoản mua hàng tốt hơn.
Đơn giản hóa thủ tục thanh toán
3.3.2. Thuê tài chính:
Bên cạnh hình thức bao thanh toán, công ty tài chính còn chuyên môn hóa vào cho thuê trang thiêt bị máy móc ( ví dụ ô tô, xe tải, toa hàng, máy bay, tàu thủy, máy tính ….) mà họ mua về và cho các doanh nghiệp vay trong một khoảng thời gian nào đó.
Phân biệt thuê tài chính và thuê thông thường: Khi doanh nghiệp cần mua sắm trang thiết bị sản xuất có thể sử dụng hình thức thuê tài sản
Thuê tài chính
Thuê thông thường
Thời hạn cho thuê của tài sản tương đối dài so với thời gian hữu dụng của tài sản.
Bên thuê gánh chịu phần lớn rủi ro liên quan đến tài sản.
Thông thường, bên cho thuê có cam kết bán lại tài sản cho bên thuê khi kết thúc hợp đồng.
Hiện giá của các khoản tiền chi trả tiền thuê gần bằng với giá trị của tài sản thuê.
Thời hạn cho thuê ngắn so với thời gian hữu dụng của tài sản.
Bên cho thuê gánh chịu phần lớn rủi ro liên quan đến tài sản.
Không có cam kết bán lại tài sản.
Hiện giá của các khoản chi trả thuê thông thường thấp hơn nhiều so với giá trị của tài sản thuê.
Yêu cầu của việc thuê tài chính: Một giao dịch được gọi là thuê tài chính phải thỏa mãn một trong các điều kiện sau:
Khi kết thúc hợp đồng cho thuê theo hợp đồng, bên thuê phải chuyển quyền sở hữu tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo sự thỏa thuận của hai bên.
Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được quyền ưu tiên mua tài sản thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản thuê tại thời điểm mua lại
Thời hạn cho thuê một loại tài sản ít nhất phải bằng 60% thời gian cần thiết để khấu hao tài sản thuê.
Tổng số tiển thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính, ít nhất phải tương đương với giá trị tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng.
→ Do đó cho thuê tài chính thực ra là một hình thức cấp tín dụng. Khi một hợp đồng thuê tài chính được kí kết, đồng nghĩa với việc doanh nghiệp được cấp một khoản vốn. Khoản vốn này có được là do doanh nghiệp không phải bỏ tiền ra mua tài sản mà cẫn có tài sản sử dụng lâu dài cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì đáng lẽ ra, có thể doanh nghiệp đã phải đi vay một số vốn tương đương giá trị tài sản trong hợp đồng thuê trả cho công ty cho thuê tài chính bao gồm cả vốn gốc và lãi.
Các hình thức của thuê tài chính:
Thuê trực tiếp: Máy móc, trang thiết bị do chinh doanh nghiệp lựa chọn và thỏa thuận với công ty cho thuê để mua tài sản đúng nhãn hàng mình cần.
Hình thức bán và thuê lại ( Sale and lease-back): Khá phổ biến trong lĩnh vực bất động sản, công ty cho thuê tài chính sẽ mua tài sản của doanh nghiệp, trả cho doanh nghiệp một khoản tiền mặt rồi cho doanh nghiệp thuê lại tài sản đó.
Thuê tài sản mua bằng vốn vay ( Leverage leases): Trong hình thức này có sự tham gia của 3 bên: bên đi thuê, bên cho thuê và nhà cho vay. Ở đây, nghĩa vụ của doanh nghiệp đi thuê không thay đổi, chỉ khác là doanh nghiệp cho thuê đã sử dụng hợp đồng cho thuê để thế chấp cho nhà cho vay nhằm đảm bảo cho một khoản vay nào đó.
Lợi ích của doanh nghiệp từ hình thức cho thuê tài chính
Thông thường đối với các tài sản vốn vay trung và dài hạn, các ngân hàng thương mại đều đòi hỏi tài sản đảm bảo ( thế chấp hoặc cầm cố ) và chỉ cho vay tối đa 80% tổng chi phí thực hiện dự án, nhưng với công ty cho thuê tài chính, doanh nghiệp chẳng những không cần phải thế chấp tài sản hay kí quỹ đảm bảo mà còn có thể được cung cấp 100% vốn đầu tư. Lãi suất hoàn toàn dựa vào thỏa thuận của 2 bên.
Kênh tín dụng này cũng cho phép doanh nghiệp hoàn toàn chủ động trong việc lựa chọn thiết bị, máy móc, nhà cung cấp, mẫu mã, chủng loại phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp mình.
Ngoài ra, nếu doanh nghiệp đã lỡ mua đầu tư tài sản mà thiếu vốn lưu động thì vẫn có thể bán lại cho công ty cho thuê tài chính và đi thuê lại. Như vậy doanh nghiệp vừa có tài sản để sử dụng, vừa có vốn để phục vụ chohoạt động kinh doanh.
Kết thúc thời hạn cho thuê, doanh nghiệp được quyền ưu tiên mua lại tài sản với giá trị danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản tại thời điểm mua lại.
Một lợi ích vô cùng quan trọng của hình thức cho thuê tài chính là đó là lợi ích được hưởng từ tấm chắn thuế. Tài sản cho thuê vẫn thuộc quyền sở hữu của công ty cho thuê nên công ty vẫn có quyền khấu hao tài sản đó, làm giảm thuế thu nhập phải nộp. Mặt khác, bên đi thuê phải trả chi phí thuê, chi phí đó được khấu trừ trước thuế nên cũng được giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp. Như vậy, cả 2 doanh nghiệp đều được hưởng lợi ích trong việc nộp thuế doanh nghiệp.
Danh mục cho thuê tài chính
Danh mục hồ sơ mà các công ty thuê tài chính yêu cầu là khá giống nhau, chỉ khác biệt ở một vài hồ sơ.
Hồ sơ pháp lí doanh nghiệp: 1 bộ
Biên bản quyết định của Hội đồng Quản trị, Hội đồng Tư vấn, chủ doanh nghiệp về việc thuê tài chính ( bản chính ).
Giấy đề nghị thuê tài chính và phương án thuê tài chính: 1 bộ.
Bản thỏa thuận với nhà cung ứng tài sản kèm các tài liệu về tài sản thuê.
Biên bản xác nhận về việc lựa chọn nhà cung cấp ( theo mẫu ).
Tài liệu liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp ( bản chính ): 1 bộ.
Báo cáo tài chính liên quan đến tình hình hoạt động 2 năm gần nhất, quý gần nhất.
Các tài liệu chứng minh năng lực tài chính khác.
Tài liệu liên quan đến tài sản thuê
3.3.3. Thuê vận hành
Thời hạn ngắn, công ty cho thuê đảm bảo sửa chữa, bảo trì cho máy móc, thiết bị. Đây là hình thức cho thuê hoạt động, tức là cho thuê có thời hạn tài sản ) và sẽ trả lại bên cho thuê khi kết thúc thời gian thuê tài sản. Bên cho thuê giữ quyền sở hữu tài sản và nhận tiền cho thuê theo hợp đồng đã thỏa thuận.
Các công ty thuê tài chính muốn thực hiện nghiệp vụ này phải đáp ứng những điều kiện như: có nhu cầu hoạt động cho thuê vận hành, có thời gian hoạt động tối thiểu 2 năm, kinh doanh có lãi, tỉ lệ nợ quá hạn tại thời điểm cuối quý trước không dưới 5%, không vi phạm các quy định an toàn khi hoạt động, phải đảm bảo các điều kiện cơ sở vật chất để phục vụ cho thuê ( kho hàng, bến bãi, bảo dưỡng khi cho thuê, ... ). Hợp đồng cho thuê vận hành không ràng buộc việc mua bán tài sản cho thuê giữa bên thuê và bên cho thuê.
3.3.4. Khác biệt giữa thuê tài chính và thuê vận hành
Trong trường hợp cho thuê tài chính thông thường bên thuê có quyền yêu cầu bên cho thuê chuyển quyền sở hữu cho mình khi thời hạn hợp đồng kết thúc, nhưng thuê vận hành thì không.
Mặc dù cả 2 trường hợp quyền sở hữu tài sản đều thuộc về bên cho thuê trong thời hạn hợp đồng cho thuê nhưng bên thuê vẫn có quyền khấu hao tài sản trong trường hợp thuê tài chính, đối với thuê vận hành thì bên cho thuê khấu hao.
Trách nhiệm bảo dưỡng, bảo trì tài sản trong 2 trường hợp khác nhau: thuê tài chính thì thuộc về bên thuê, thuê vận hành lại thuộc về bên cho thuê
4. Tình hình các công ty tài chính tại Việt Nam
Hiện nay ở Việt Nam có một số công ty tài chính như: PVFC – tổng công ty tài chính cổ phần dầu khí Việt Nam, Hafic_ công ty tài chính cổ phần Handico…hai công ty tài chính 100% vốn nước ngoài đầu tiên: công ty tài chính Prudential của tập đoàn Prudential và công ty tài chính SG của tập đoàn Société Générale
Việc thành lập thêm các công ty tài chính sẽ góp phần tạo thêm 1 kênh dẫn vốn cho nền kinh tế, đáp ứng được nhu cầu vay vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, phục vụ kịp thời nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng cá nhân- một lĩnh vực mà các tổ chức tín dụng vừa qua chưa đáp ứng được.
Tại Việt Nam hiện nay, thị trường chung của các tổ chức tín dụng phi ngân hàng vẫn đang trong giai đoạn “tự phát” là chính. Số lượng ít, quy mô nhỏ, cùng với những rắc rối trong thủ tục hành chính, ... đã ngăn cản các công ty tài chính nhỏ lẻ vượt qua được các ngân hàng trong các dịch vụ bán lẻ. Một nguyên nhân khác nữa cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của các công ty tài chính là phần lớn đều trực thuộc các tập đoàn kinh tế của nhà nước, hay các tổng công ty dưới Bộ. Nhắc tới các công ty tài chính, giới đầu tư vẫn chỉ quen 2 cái tên Prudential Việt Nam và công ty Việt_Sài Gòn. Những công ty này khác với các công ty tài chính còn lại, hầu hết đều thuộc Nhà nước quản lý.
Nền kinh tế Việt Nam tiếp tục phát triển nhanh và ổn định. Việc hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực của Việt Nam đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ, điều này sẽ khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước tìm kiếm các lĩnh vực đầu tư hiệu quả, trong đó có mô hình hoạt động của công ty tài chính
Công ty bảo hiểm
Khái quát về công ty bảo hiểm
Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm
Trong cuộc sống cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày dù luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng chúng ta luôn phải đối mặt với những rủi ro bất ngờ. Các rủi ro đó có thể do nhiều nguyên nhân như: thiên tai, biến động của khoa học công nghệ, môi trường xã hội, ... nhưng chúng đều mang lại cho chúng ta những tổn thất lớn cả về tinh thần và vật chất. Khi rủi ro xảy ra, để bảo vệ bản thân, chúng ta cần có một tổ chức đứng ra ổn định tài chính, hạn chế tổn thất, đó chính là các công ty bảo hiểm.
Định nghĩa công ty bảo hiểm
Các công ty bảo hiểm là các trung gian tài chính thực hiện chi trả cho các sự kiện không mong đợi xảy ra (với khoản phí hay với giá cả nhất định), được thành lập, tổ chức và hoạt động theo quy định của luật kinh doanh bảo hiểm và các quy định khác của pháp luật có liên quan đến kinh doanh bảo hiểm, tái bảo hiểm.
Phân loại công ty bảo hiểm
Có 2 cách phân chia:
Bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm tài sản
Công ty bảo hiểm nhân thọ: Công ty bảo hiểm nhân thọ phát hành bảo hiểm chủ yếu cho cái chết của người chủ sở hữu bảo hiểm, cam kết chi trả một lần hay nhiều lần cho người hưởng quyền lợi bảo hiểm.
Phần lớn công việc kinh doanh của bảo hiểm nhân thọ là cung cấp các sản phẩm dịch vụ bảo hiểm liên quan đến quỹ hưu trí và sức khỏe.
Công ty bảo hiểm tài sản và tai nạn: Bảo hiểm cho một loạt các sự kiên không định trước khác nhau liên quan đến tài sản.Ví dụ như:
Mất mát, hư hỏng tài sản
Mất hay thiệt hại khả năng tạo thu nhập của tài sản
Thiệt hại hay thương tật gây ra cho chủ thể thứ ba
Thiệt hại hay thương tật do tai nạn nghề nghiệp
Điểm khác biệt chủ chốt giữa công ty bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm tài sản là mức độ khó khăn trong việc quyết định chi trả cho người giữ hợp đồng bảo hiểm hay không và nếu có thì chi trả bao nhiêu và như thế nào: Đối với bảo hiểm nhân thọ thì phương diện xác suất thống kê rủi ro là tương đối dễ dàng. Việc tính toán xác định qui mô và thời hạn nghĩa vụ của cá công ty bảo hiểm tài sản là khó hơn do tính ngẫu nhiên thất thường của các sự kiện rủi ro, thiên tai ...
Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm thương mại
Bảo hiểm xã hội: Là nhu cầu khách quan của người lao động, nó đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ gặp phải những sự kiện bảo hiểm làm giảm hoặc mất khả khả năng lao động nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ.
Theo khuyến nghị của tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã nêu trong công ước số 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ, hệ thống các chế độ BHXH bao gồm:
Chăm sóc y tế
Trợ cấp đau ốm
Trợ cấp thất nghiệp
Trợ cấp tuổi già
Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
Trợ cấp gia đình
Trợ cấp sinh đẻ
Trợ cấp khi tàn phế
Trợ cấp cho người còn sống (trợ cấp mất người nuôi dưỡng).
Tùy theo điều kiện kinh tế -xã hội mà mỗi nước thực hiện các chế độ khác nhau nhưng phải tối thiểu 3 chế độ. Trong đó, ít nhất phải có một trong 5 chế độ sau: 3, 4, 5, 8, 9.
Bảo hiểm y tế: được tách ra từ chế độ “chi phí y tế” trong hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội. Ngày nay, bảo hiểm y tế phát triển mạnh mẽ để đáp ứng nhu cầu khám và chữa bệnh của mọi thành viên trong xã hội nên nó không chỉ dừng lại ở lực lượng lao động mà mở rộng đến mọi đối tượng có nhu cầu dưới hình thức tự nguyện.
Căn cứ vào mức độ thanh toán chi phí khám chữa bệnh cho người có thẻ BHYT, BHYT được phân ra:
BHYT trọn gói: là phương thức BHYT trong đó cơ quan BHYT sẽ chịu trách nhiệm về mọi chi phí y tế thuộc phạm vi BHYT cho người được BHYT.
BHYT trọn gói trừ các đại phẫu thuật: là phương thức BHYT trong đó cơ quan BHYT sẽ chịu trách nhiệm về mọi chi phí y tế thuộc phạm vi BHYT cho người được BHYT, trừ các chi phí cho các cuộc đại phẫu thuật.
BHYT thông thường: là phương thức BHYT trong đó trách nhiệm của cơ quan BHYT được giới hạn tương xứng với trách nhiệm và nghĩa vụ của người được BHYT.
Bảo hiểm thất nghiệp: cũng được tách ra từ bảo hiểm xã hội do sự phát triển của nền kinh tế và lực lượng lao động xã hội. Bảo hiểm thất nghiệp phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động, do đó, giải quyết bảo hiểm thất nghiệp liên quan đến trách nhiệm của xã hội, của người sử dụng lao động và cả người lao động.
Điều kiện để được hưởng trợ cấp thất nghiệp:
Người tham gia bảo hiểm phải nộp phí bảo hiểm trong một thời gian nhất định.
Thất nghiệp không phải do lỗi của người lao động.
Phải đăng kí thất nghiệp, đăng kí tìm kiếm việc làm tại cơ quan lao động có thẩm quyền do nhà nước qui định.
Phải sẵn sàng làm việc.
Có sổ BHTN để chứng nhận có tham gia đóng phí BHTN đủ thời hạn qui định.
Bảo hiểm thương mại: là loại hình bảo hiểm kinh doanh, kết hợp giữa hoạt động kinh doanh và quản lí các rủi ro. Hoạt động của bảo hiểm thương mại chịu chi phối bởi pháp luật, nhất là luật kinh doanh bảo hiểm, các điều ước quốc tế và tập quán quốc tế.
Phân loại BHTM thường căn cứ vào 3 tiêu thức chủ yếu sau:
Theo hình thức tham gia: gồm bảo hiểm tự nguyện và bảo hiểm bắt buộc.
Theo kĩ thuật bảo hiểm: gồm bảo hiểm theo kĩ thuật phân chia cả bảo hiểm theo kĩ thuật tổn tích.
Theo đối tượng được bảo hiểm: gồm bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm dân sự và bảo hiểm con người.
Đặc trưng doanh nghiệp bảo hiểm
Thứ nhất: doanh nghiệp bảo hiểm là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tài chính, chủ yếu thường xuyên và mang tính nghề nghiệp là kinh doanh bảo hiểm. Tính đặc thù của kinh doanh bảo hiểm được thể hiện:
Đây là dịch vụ tài chính đặc biệt, hoạt động kinh doanh trên những rủi ro. Sản phẩm của bảo hiểm là vô hình, đảm bảo về mặt tài chính trước rủi ro cho người được bảo hiểm.
Chu kỳ kinh doanh bảo hiểm là chu kỳ đảo ngược, tức là sản phẩm được bán ra trước khi doanh thu được thực hiện, sau đó mới phát sinh chi phí.
Thứ hai: doanh nghiệp bảo hiểm được tổ chức, thành lập và hoạt động theo các quy định của luật kinh doanh bảo hiểm và các quy định khác của pháp luật.
Thứ ba: doanh nghiệp bảo hiểm chịu sự quản lý trực tiếp của Bộ Tài Chính.
Để quản lý hoạt động kinh doanh bảo hiểm hầu hết các quốc gia trên thế giới đều giao cho một cơ quan quản lý nhà nước nhất định. Đây là đặc điềm giúp phân biệt doanh nghiệp bảo hiểm với doanh nghiệp khác trong nền kinh tế.
Yêu cầu cần thiết của công ty bảo hiểm
Về mặt kỹ thuật: Doanh nghiệp bảo hiểm phải tổ chức tốt việc thống kê, lựa chọn rủi ro, tính phí bảo hiểm, giải quyết các khiếu nại khi có xảy ra sự kiện bảo hiểm
Về mặt pháp lý: Doanh nghiệp bảo hiểm phải được thành lập và vận động đúng theo quy định của luật pháp địa phương hoặc quốc gia mà doanh nghiệp hoạt động kinh doanh.
Về mặt kinh doanh: Doanh nghiệp bảo hiểm phải được tổ chức thành một bộ máy hoàn chỉnh để có thể vận hành, gồm các bộ phận chức năng như : quản lý, nghiệp vụ, kinh doanh, tài chính, kế toán, hành chính nhân sự…
Về mặt tài chính: Doanh nghiệp bảo hiểm tập trung huy động vốn từ số đông khách hàng nên phải có sự đảm bảo về mặt tài chính (ký quỹ, quỹ dự phòng, vốn chủ sở hữu, hiệu quả đầu tư …) để hoạt động và tạo sự tin tưởng đối với khách hàng. Những yêu cầu về tài chính phải được giám sát chặt chẽ bởi các cơ quan quản lý nhà nước.
Nội dung, đặc điểm, nguyên tắc hoạt động của công ty bảo hiểm
Hợp đồng và phí bảo hiểm
Hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng có đảm bảo luật pháp trong đó người giữ hợp đồng hay người được bảo hiểm đóng các khoản phí nhất định (phí bảo hiểm) để các công ty bảo hiểm chi trả một khoản tiền bảo đảm cho các trường hợp rủi ro cụ thể trong tương lai. Công ty bảo hiểm đồng ý chi trả cho những rủi ro của người được bảo hiểm. Quá trình chấp nhận bảo hiểm bao gồm những đánh giá cẩn thận các điều kiện của người xin bảo hiểm.
Khi công ty chấp nhận hợp đồng bảo hiểm, thì hợp đồng bảo hiểm trở thành tài sản cho người được bảo hiểm và là khoản nghĩa vụ đối với công ty bảo hiểm. Phí bảo hiểm có thể chi trả cho công ty một lần hay nhiều lần.
Nội dung hoạt động
Kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh tái bảo hiểm
Trong kinh doanh bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm được quyền chủ động bán bảo hiểm dưới các hình thức sau: trực tiếp; thông qua các đại lý bảo hiểm, môi giới bảo hiểm; thông qua đấu thầu; các hình thức khác phù hợp với quy định của pháp luật.
Trong kinh doanh tái bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm có quyền nhượng chuyển một phần trách nhiệm đã nhận bảo hiểm cho một hay nhiều doanh nghiệp bảo hiểm khác nhưng không được nhượng toàn bộ trách nhiệm bảo hiểm đã nhận trong một hợp đồng bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm khác để hưởng hoa hồng tái bảo hiểm.
Quản lý quỹ và đầu tư vốn
Quản lý quỹ:
Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp bảo hiểm phải luôn duy trì mức vốn điều lệ đã đóng góp không thấp hơn mức vốn pháp định đã quy định.
Trích lập quỹ dự phòng nghiệp vụ: là khoản tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm phải trích lập nhằm mục đích thanh toán cho những trách nhiệm bảo hiểm đã được xác định trước và phát sinh từ các hợp đồng bảo hiểm đã giao kết.
Đầu tư vốn:
Nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm bao gồm : vốn điều lệ, quỹ dự trữ bắt buộc, quỹ dự trữ tự nguyện, các khoản lãi những năm trước chưa sử dụng và các quỹ được sử dụng để đầu tư hình thành từ lợi tức để lại của doanh nghiệp, nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm.
Doanh nghiệp bảo hiểm được thực hiện các hoạt động khác như : đề phòng, hạn chế rủi ro, tổn thất; giám định tổn thất; đại lý giám định tổn thất, xét giải quyết bồi thường, yêu cầu người thứ ba bồi hoàn và các hoạt động khác theo quy định của pháp luật.
Đặc điểm
Đối tượng kinh doanh đa dạng
Bảo hiểm tài sản: BH ô tô, xe máy, BH máy bay, BH tàu thủy, BH vận chuyển hàng hóa nội địa và xuất nhập khẩu, BH đầu máy và toa xe, BH tài sản cá nhân và doanh nghiệp, BH tín dụng.
Bảo hiểm con người: BH nhân thọ, BH tai nạn lao động, BH tai nạn hành khách, BH tai nạn học sinh, sinh viên…
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự: BH trách nhiệm dân sự lái xe cơ giới, BH trách nhiệm dân sự chủ tàu, BH trách nhiệm dân sự chủ hãng hàng không…
Bảo hiểm là ngành kinh doanh có nguồn vốn lớn
Hiện các công ty bảo hiểm đang quản lý một lượng lớn nguồn vốn. Nguồn vốn này các Công ty bảo hiểm có nhu cầu đầu tư dài hạn, đầu tư vào các dự án có mức độ mạo hiểm nhằm thu lợi nhuận.
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm phải có dự phòng bảo hiểm
Doanh nghiệp phải luôn duy trì khả năng thanh toán trong suốt qua trình hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Khi có nguy cơ mất khả năng thanh toán, doanh nghiệp phải chủ động thực hiện ngay các biện pháp tự khôi phục khả năng thanh toán, đồng thời báo cáo Bộ Tài chính về thực trạng tài chính, nguyên nhân dẫn đến nguy cơ mất khả năng thanh toán và phương án khôi phục. Nếu không khôi phục được khả năng thanh toán, doanh nghiệp sẽ bị đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt.
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm vừa hợp tác vừa cạnh tranh
Doanh nghiệp bảo hiểm làm quen với hội nhập hợp tác quốc tế và tạo ra sự cạnh tranh để doanh nghiệp bảo hiểm tự nâng cao năng lực cạnh tranh của mình nhằm đem lại lợi ích tốt hơn cho người tham gia bảo hiểm.
Trong quá trình phát triển thì các doanh nghiệp bảo hiểm cần phải hợp tác để đưa đến thống nhất và đòi hỏi cạnh tranh lành mạnh.
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm phải tuân theo các quy định của pháp luật và các điều ước quốc tế có liên quan
Để các DN bảo hiểm hoạt động có hiệu quả trong nền kinh tế thị trường cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật và các điều ước quốc tế có liên quan đến hoạt động bảo hiểm.
2.4. Nguyên tắc hoạt động
Nguyên tắc chỉ bảo hiểm sự rủi ro, không bảo hiểm sự chắc chắn: chỉ bảo hiểm một sự rủi ro xảy ra bất ngờ, ngẫu nhiên ngoài ý muốn con người chứ không bảo hiểm một cái chắc chắn xảy ra.
Nguyên tắc trung thực tuyệt đối: Tất cả các giao dịch kinh doanh cần được thực hiện trên cơ sở tin cậy lẫn nhau, trung thực tuyệt đối.
Nguyên tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm: Quyền lợi có thể được bảo hiểm là lợi ích hoặc quyền lợi liên quan, gắn liền hay phụ thuộc vào sự an toàn hay không an toàn của đối tượng bảo hiểm.
Nguyên tắc bồi thường: Theo nguyên tắc bồi thường, khi có tổn thất xảy ra, người bảo hiểm phải bồi thường như thế nào đó để đảm bảo cho người được bảo hiểm có vi trí tài chính như trước khi có tổn thất xảy ra, không hơn không kém.
Nguyên tắc thế quyền: Theo nguyên tắc thế quyền, người bảo hiểm sau khi bồi thường cho người được bảo hiểm, có quyền thay mặt người được bảo hiểm để đòi người thứ 3 trách nhiệm bồi thường cho mình.
Nguyên tắc lấy số đông bù số ít: Dựa trên cơ sở nghiên cứu về quy luật số lớn, người ta có thể xác định được mức độ thiệt hại bình quân cho những khoảng thời gian nhất định. Số người tham gia bảo hiểm càng đông thì khả năng bù đắp rủi ro càng lớn, độ an toàn càng cao và ngược lại.
Thực trạng công ty bảo hiểm tại Việt Nam
Thị trường bảo hiểm ở nước ta trong những năm gần đây rất sôi động và đa dạng. Một số công ty bảo hiểm điển hình tại Việt Nam hiện nay như: Tập đoàn tài chính bảo hiểm Bảo Việt, Tổng công ty cổ phần Bảo Minh, Công ty bảo hiểm AIA, Công ty TNHH bảo hiểm Prudential Việt Nam, Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex……………………Số lượng công ty hoạt động kinh doanh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Công ty tài chính công ty bảo hiểm.doc