Nội dung của bản yêu sách 8 điểm gồm:
+ Ân xá tất cả các tù chính trị.
+ Cải cách về mặt pháp lý cho người bản sứ.
+ Tự do báo chí, tự do tư tưởng.
+ Tự do lập hội và tự do hội họp.
+ Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do ra nước ngoài.
+ Tự do học tập, mở các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp cho người bản sứ.
+ Thay chế độ sắc lệnh bằng chế độ luật pháp.
+ Phải có đại biểu thường trực người Việt Nam do người bản sứ bầu ra ở bên cạnh Nghị viện Pháp để trình bày nguyện vọng của người bản sứ.
Bản yêu sách không được Hội nghị chú ý đến, nhưng là đòn tiến công đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc đánh thẳng vào đế quốc Pháp. Đó cũng là sự kiện chính trị “gây xáo động trong thế giới thuộc địa” làm thức tỉnh nhân dân Việt Nam và dân tộc các thuộc địa đứng lên đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Và một kết luận quan trọng mà Nguyễn Ái Quốc rút ra là: những lời tuyên bố độc lập tự quyết của bọn đế quốc chỉ là trò bịp bợm.
52 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2323 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cuộc vận động thành lập đảng cộng sản Việt Nam và cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cấp công nhân Việt Nam đã từng bước chứng minh tinh thần cũng như khả năng của giai cấp mình trong cuộc đấu tranh chóng đế quốc và phong kiến tai sai.
Cuộc đấu tranh của công nhân Việt Nam được chia làm hai gai đoạn:
+ Trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất: giai cấp công nhân Việt Nam số lượng ít, hạn chế kinh nghiệm, chưa được giác ngộ ý thức giai cấp nên các hình thức đấu tranh trong giai đoạn này chủ yếu là hoà cùng với phong trào dân tộc, mang tính chất dân tộc đặc thù.
Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam giai đoạn này chủ yếu là tham giai vào các phong trào Cần Vương, các cuộc khởi nghĩa của các sĩ phu yêu nước, các phong trào do giai cấp tư sản kêu gọi và cuộc đấu tranh của nông dân hoặc lẽ tẻ các cuộc đấu tranh đòi tăng lương, cải thiện đời sống, bỏ trốn tập thể, phá giao kèo, đốt láng trại,…Như vậy, cuộc đấu tranh của công nhân Việt Nam không mang tính chất giai cấp mà chủ yếu hoà cùng phong trào dân tộc.
+ Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất: Một số công nhân tham gia chiến tranh trở về đã học tập được kinh nghiệm của công nhân các nước nên đã có bước trưởng thành và các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân ngoài mục đích kinh tế đã bắt đầu xuất hiện ý thức chính trị.
Một số cuộc đấu tranh của công nhân Việt Nam trong giai đoạn này: cuộc bải công của 600 công nhân nhuộm Sài Gòn, cuộc bải công của công nhân nhà máy dệt Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định
Tiêu biểu là cuộc bải công của 1000 công nhân xưởng Ba Son (8-1925) và gắn liền với việc thành lập Công hội đỏ do Tôn Đức Thắng thành lập (không sửa tàu mà thực dân Pháp dùng chở lính sang đàn áp phong trào cách mạng Trung Quốc). Đây là cuộc đấu tranh có tổ chức và lãnh đạo, cuộc đấu tranh không chỉ nhằm mục tiêu kinh tế mà còn nhằm mục đích chính trị thể hiện tinh thần đoàn kết vô sản quốc tế của công nhân Việt Nam. Với tính chất đó cuộc bãi công Ba Son đã đánh dấu cho một bước phát triển mới trong đấu tranh chính trị của giai cấp công nhân Việt Nam - giai cấp công nhân Việt Nam bắt đầu đi vào đấu tranh có tổ chức và mục đích chính trị rõ ràng.
Phong trào công nhân từ đầu thế kỷ XX đến năm 1925 đã có bước phát triển mạnh mẽ song nhìn chung còn mang tính chất tự phát, chưa được tổ chức một cách chặt chẽ nên chưa trở thành một lực lượng chính trị độc lập. Từ năm 1926-1919 phong trào công nhân ngày càng phát triển với sự ra đời và hoạt động của “Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên”. Các cuộc đấu tranh của công nhân đã biết kết hợp những khẩu hiệu về kinh tế với những khẩu hiệu chính trị, có sự kết hợp của nhiều ngành, nghề, nhiều địa phương. Trình độ công nhân tăng lên rõ rệt và mang tính tự giác cao.
=> Sự biến đổi của xã hội Việt Nam, sự thất bại của phong trào yêu nước chống đế quốc, phong kiến đã tạo ra những khó khăn, trở ngại, đồng thời cũng khảo nghiệm và mở ra những cơ hội phát triển cho phong trào cách mạng Việt Nam và sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam sau này.
II/ Nguyễn ái quốc tìm đường cứu nước và chuẫn bị thành lập Đảng
Chính sách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp cùng với sự khủng hoảng về đường lối của cách mạng Việt Nam, đòi hỏi lịch sử phải có một con đường cách mạng đúng đắn để giải phóng dân tộc. Nhận thức được ý nghĩa đó, Nguyễn Tất Thành một thanh niên yêu nước Việt Nam đã ra đi tìm con đường đúng đắn và phù hợp với xã hội Việt Nam để cứu nước, cứu dân, giải phóng dân tộc, đem lại cuộc sống ấm no tự do hạnh phúc cho nhân dân.
1/ Quá trình tìm đường cứu nước
Nguyễn ái Quốc tên thật là Nguyễn Sinh Cung, sinh ngày 19.5.1890 tại làng Hoàng Trù - Kim Liên - Nam Đàn - Nghệ An, trong một gia đình nhà nho yêu nước có truyền thống cách mạng, nên Người sớm được tiếp nhận và tiếp nhận một cách sâu sắc về các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình, quê hương, đất nước, thấy được những tấm gương đấu tranh anh dũng của nhân dân ta. Từ đó, giúp Người hình thành một nhân cách, một suy nghĩ, đánh giá, nhận xét một cách sâu sắc những vấn đề xã hội.
Ngay từ khi mới 13 tuổi, Người đã được nghe câu: “Tự do, bình đẳng, bác ái” của cách mạng tư sản Pháp. Người muốn đi xem sự thật ẩn đằng sau của câu tự do, bình đẳng bác ái đó là gì ? Lớn lên, khi nhận xét về con đường đánh Pháp của các vị tiền bối cách mạng, Người cho rằng: Phương pháp của Phan Bội Châu nhờ Nhật đánh Pháp chẳng khác nào “đuổi Hổ cửa trước rước Beo cửa sau”; đối với Phan Chu Trinh thì yêu cầu Pháp cải cách chẳng khác nào “xin giặc rủ lòng thương”. Còn chủ trương của Hoàng Hoa Thám tuy có thực tế nhưng còn mang nặng tư tưởng tiểu nông phong kiến.
Tuy rất khâm phục gương chiến đấu anh dũng của các vị tiền bối cách mạng nhưng Người nhận thấy các con đường đó là không phù hợp và muốn cứu nước, cứu dân là phải tìm hiểu và phải biết được thật sự về những kẻ thống trị mình. Người quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước.
- Ngày 5/6/1911, tại cảng Nhà Rồng Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước.
Khác với các nhà yêu nước trước kia và đương thời, Người đã lựa chọn con đường sang phương Tây - nơi có tư tưởng dân chủ và khoa học phát triển để xem họ làm như thế nào để học tập rồi trở về giúp đỡ đồng bào mình. Việc lựa chọn hướng đi sang phương Tây là quyết định sáng suốt có tính chất bước ngoặt vô cùng quan trọng trong việc lựa chọn hướng đi đúng đắn trên con đường tìm đường cứu nước của Nguyễn ái Quốc.
- Nguyễn ái Quốc đã trải qua nhiều nghề khác nhau để được đến nhiều nơi trên thế giới khảo nghiệm và học tập.
Trong thời gian này, có thể khái quát về việc ra đi tìm đường cứu của Nguyễn ái Quốc bằng các câu hỏi sau:
Tại sao ra đi ? Đi đâu ? Đi làm gì ? Đó là ra đi tìm hiểu về thực chất chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa tư bản, Người nhận thấy ngay trong lòng xã hội tư bản nhiều phụ nữ còn sống trong cảnh nghèo khổ và Người nói: Tại sao người Pháp không “khai hóa” đồng bào của mình trước khi họ đi “khai hóa” chúng ta, đến Mỹ, nơi được coi là thiên đường của sự tự do nhưng Người cũng nhận thấy được sự áp bức.
Do đó, khi đứng trước Thần tự do, Người nghĩ “ánh sáng trên đầu Thần tự do tỏa rộng khắp trời xanh, còn dưới chân Thần tự do thì người da đen đang bị chà đạp. Bao giờ người da đen được bình đẳng với người da trắng? Bao giờ có sự bình đẳng giữa các dân tộc? Bao giờ người phụ nữ được bình đẳng với - nam giới. (dẫn theo nhà sử học Mỹ Stensơn).
Sau một thời gian nghiên cứu thực tế cuộc sống của nhân dân lao động ở một số nước đế quốc phát triển cao như: Anh, Pháp, Mỹ Người rút ra nhận xét: Trên thế giới này, ở đâu bọn đế quốc, thực dân đều độc ác, ở đâu những người lao động cũng đều bị bóc lột, áp bức dã man. Trên thế giới này con người có nhiều màu da khác nhau, những chung quy chỉ có hai hạng người: hạng người bị bóc lột và hạng người bóc lột.
- Ngoài ra Người còn nghiên cứu các cuộc cách mạng điển hình như : cách mạng tư sản Pháp và cách mạng tư sản Mỹ, Người nhận thấy: “Cách mạng Pháp cũng như cách mạng Mỹ nghĩa là cách mạng tư bản, cách mạng không đến nơi, tiếng cộng hoà và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công - nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa, cách mạng đã bốn lần rồi mà nay công nông Pháp hẳn còn phải mưu cầu cách mạng lần nữa, mới hòng thoát khỏi vòng áp bức”.(Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 1995, Tập 2,Tr. 279).
=> Như vậy, CNĐQ, CNTD là nguồn gốc của mọi đau khổ của GCCN, của nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa.
- Năm 1917, Nguyễn ái Quốc trở lại Pháp và chọn Paris làm nơi dừng chân để hoạt động và nghiên cứu.
Giữa lúc cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất sắp kết thúc, Nguyễn ái Quốc từ Anh trở lại Pháp. Tại đây, Người tham gia các hoạt động xã hội và có điều kiện để nghiên cứu kỷ hơn về cuộc cách mạng tư sản Pháp (1789) và Công xã Paris. Tại đây Người đã thành lập ra “Hội người Việt Nam yêu nước” nhằm tập hợp và đoàn kết Việt Kiều tại Pháp.
Cũng trong thời gian này, một sự kiện chấn động thế giới đã diễn ra, 11/1917 cách mạng tháng Mười Nga nổ ra và thành công. Thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Mười đã mở ra một thời đại mới và một xu hướng phát triển mới cho nhân loại.
Cùng với việc nghiên cứu các cuộc cách mạng tư sản, Nguyễn ái Quốc bắt đầu nghiên cứu về cách mạng tháng Mười qua sách báo và thông tin đại chúng. Với khẩu hiệu “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”, cách mạng vô sản đã mở ra một con đường gải phóng cho các dân tộc thuộc địa.
Với tư duy độc lập, nhạy bén Nguyễn ái Quốc đã thấy được ở cuộc cách mạng này “một luồn sinh khí mới” trong con đường tìm lối đi cho dân tộc mình.
Cố Tổng bí thư Lê Duẩn đã nhận xét: “Vượt qua sự hạn chế của chủ nghĩa yêu nước của các sĩ phu và của các nhà cách mạng có xu hướng tư sản đương thời, Hồ Chí Minh đã sớm đến với chủ nghĩa Mác– Lênin và đi theo con đường cách mạng vô sản” (Lê Duẩn - Dưới là cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, tự do, và CNXH, tiến lên giành những thắng lợi mới; Nxb Sự thật, Hà Nội 1972, Tr. 9-10).,
- Năm 1919, Người gia nhập Đảng xã hội Pháp, một đảng tiến bộ đấu tranh chống lại sự áp bức của thực dân Pháp đối với nhân dân các dân tộc thuộc địa.
Việc gia nhập Đảng xã hội Pháp của Nguyễn ái Quốc theo như sau này khi Người kể lại là hoàn toàn chưa có ý thức chính trị mà đơn giản chỉ vì Đảng xã hội Pháp đấu tranh cho người dân thuộc địa.
Đảng xã hội Pháp là một Đảng chính trị có quan điểm, đường lối đấu tranh tiến bộ, gia nhập vào đảng Nguyễn ái Quốc có điều kiện tham gia hoạt động thực tiễn và đồng thời cũng là để thu thập tin tức từ trong nước gửi sang. Như vậy, gia nhập đảng Người vừa có thể có điều kiện tốt hơn để hoạt động mà còn nắm được tình hình trong nước, từ đó giúp cho việc tuyên truyền tố cáo tội ác của thực dân Pháp.
Tháng 3.1919, Quốc tế cộng sản được thành lập ở Matxcơva, sự ra đời của quốc tế cộng sản là một bước ngoặt cho phong trào cách mạng thế giới và đặc biệt là phong trào giải phóng dân tộc.
Sau khi chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc, tháng 6/1919, nhân cuộc họp của các nước thắng trận tại Vecxay, thay mặt cho những người Việt Nam yêu nước tại Pháp Nguyễn ái Quốc gửi tối Hội nghị bảng yêu sách đòi thực dân Pháp thực hiện các quỳền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam.
Nội dung của bản yêu sách 8 điểm gồm:
+ Ân xá tất cả các tù chính trị.
+ Cải cách về mặt pháp lý cho người bản sứ.
+ Tự do báo chí, tự do tư tưởng.
+ Tự do lập hội và tự do hội họp.
+ Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do ra nước ngoài.
+ Tự do học tập, mở các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp cho người bản sứ.
+ Thay chế độ sắc lệnh bằng chế độ luật pháp.
+ Phải có đại biểu thường trực người Việt Nam do người bản sứ bầu ra ở bên cạnh Nghị viện Pháp để trình bày nguyện vọng của người bản sứ.
Bản yêu sách không được Hội nghị chú ý đến, nhưng là đòn tiến công đầu tiên của Nguyễn ái Quốc đánh thẳng vào đế quốc Pháp. Đó cũng là sự kiện chính trị “gây xáo động trong thế giới thuộc địa” làm thức tỉnh nhân dân Việt Nam và dân tộc các thuộc địa đứng lên đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Và một kết luận quan trọng mà Nguyễn ái Quốc rút ra là: những lời tuyên bố độc lập tự quyết của bọn đế quốc chỉ là trò bịp bợm.
Trong bản yêu sách Nguyễn ái Quốc chỉ đề cập đế những yêu cầu tối thiểu và cấp thiết nhưng cũng không được Hội nghị đáp ứng, mặc dù Uyn Xơn (người nêu ra “dân tộc tự quyết”) cũng có mặt tại Hội nghị. Từ đó Người rút ra một kết luận quan trọng: Muốn được độc lập và tự do thực sự, các dân tộc bị áp bức phải trông cậy trước hết vào lực lượng của bản thân mình, người Việt Nam phải tự giải phóng lấy mình.
- Tháng 7.1920, Nguyễn ái Quốc đọc được “Bản Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đế thuộc địa” (đăng trên Báo Nhân đạo của Đảng xã hội Pháp) của Lênin, được trình bày trong Đại hội II của Quốc tế cộng sản.
Luận cương đã chỉ ra nhiều vấn đề nhưng chung quy có các nội dung quan trọng sau:
- Quyền bình đẳng thực sự giữa các dân tộc, đặt vấn đề dân tộc đi đôi với vấn đề thuộc địa.
- Nhiệm vụ các Đảng Cộng sản ở chính quốc phải ủng hộ một cách tích cực nhất phong trào cách mạng giải phóng dân tộc thuộc đia và phụ thuộc. Đồng thời Lênin cũng đặt ra cho những người cách mạng ở xứ thuộc địa và phụ thuộc là phải đoàn kết chặt chẽ với nhân dân các nước đi áp bức mình.
- Nhiệm vụ giải phóng dân tộc phải gắn liền với các nhiệm vụ chống các lực lượng phản động trong xứ mình.
- Cách mạng giải phóng dân tộc phải đi theo con đường cách mạng vô sản (con đường cách mạng Thánh Mười Nga)....
Ngoài ra Lênin cũng vạch trần sự lừa bịp của giai cấp tư sản về nền dân chủ tư sản, về hòa ước Vecxây, những chiêu bài dối trá, thường thấy trong các Đảng thuộc Quốc tế II lúc đó. Đặc biệt, Lênin đã chỉ ra con đường giải phóng cho các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc, cho các nước chậm phát triển…
Như vậy, Nguyễn ái Quốc đã tìm thấy ở Luận cương những lời giải đáp đầy thuyết phục cái cần thiết nhất cho Người và cho cả đồng bào bị đọa đầy đau khổ của Người là: con đường tự giải phóng, con đường giành độc lập cho Tổ quốc, tự do cho đồng bào.
Người khẳng định “Muốn cứu nước giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản” (Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 9, Nxb CTQG, Hà Nội 2002, Tr. 314).
Và chỉ có CNXH, CNCS mới giải phóng được các dân tộc lại bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ.
=> Bản Luận cương là một bước ngoặt cho sự chuyển biến sâu sắc con đường cách mạng của Người, sau này Người viết: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta ” từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ III”” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, Nxb CTQG, Hà Nội 2002, Tr. 127).
- Tháng 12.1920, tại Đại hội của Đảng xã hội Pháp, Nguyễn ái Quốc bỏ phiếu tán thành việc giai nhập Quốc tế III, thành lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành người cộng sản đầu tiên của Việt Nam.
Tháng 12.1920 tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng xã hội Pháp họp tại Tua, trong Đại hội đã diễn ra quá trình tranh luận về quốc tế II, quốc tế III, quốc tế hai rưởi. Đâu là quốc tế ủng hộ và giúp đở công cuộc giải phóng dân của các dân tộc thuộc địa. Quốc tế III (Quốc tế cộng sản) đã trả lời cho câu hỏi đó. Cuộc tranh luận đi đến phải giải quyết bằng lá phiếu, Người đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập quốc tế III của Đảng xã hội Pháp và sau đó cùng với các đảng viên khác thành lập ra Đảng Cộng sản Pháp.
Sự kiện này đã đánh dấu sự chuyển biến về tư tưởng chính trị của Nguyễn ái Quốc, là bước quyết định trong đời hoạt động cách mạng của Người - bước ngoặt chuyển biến từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa cộng sản, từ một chiến sĩ giải phóng dân tộc chưa có khuynh hướng rõ ràng thành một chiến sĩ giải phóng dân tộc theo chủ nghĩa cộng sản. Và Nguyễn ái Quốc đã trở thành người Cộng sản Việt Nam đầu tiên.
=> Đến đây con đường cứu nước của Nguyễn ái Quốc đã được xác định đó là: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đó là con đường cứu nước đúng đắn nhất vì nó đáp ứng được yêu cầu khách quan của lịch sử và phù hợp với điều kiện của xã hội Việt Nam.
=> Cái mà Người tìm thấy đó là: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đừơng nào khác là làm cách mạng vô sản đi theo con đường của Lênin và cách mạng tháng Mười Nga.
Tóm lại, đường lối cứu nước của Nguyến ái Quốc bao gồm những luận điểm sau:
+ Phải bằng con đường cách mạng.
+ Cách mạng thuộc địa phải quan hệ mật thiết cách mạng chính quốc.
+ Giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng xã hội, đem lại hạnh phúc cho con người.
+ Phải có lực lượng toàn dân tham gia.
+ Phải có Đảng cách mạng lãnh đạo.
2/ Nguyễn ái Quốc chuẩn bị thành lập Đảng
Ngay từ khi trở thành người cộng sản Nguyễn ái Quốc đã tích cực nghiên cứu chủ nghĩa Mác, hoạt động trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đặc biệt chú trọng đến cách mạng thuộc địa và xúc tiến việc truyền bá chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam, chuẩn bị các tiền đề về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập một chính đảng cách mạng tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam.
a/ Về chính trị, tư tưởng
Trước hết, Người nghiên cứu, tiếp thu lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, truyền bá lý luận đó thông qua suy nghĩ, vận dùng cho sát hợp với hoàn cảnh các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam.
- Năm 1921, nhờ sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn ái Quốc cùng một số chiến sĩ cộng sản ở một số nước thuộc địa của Pháp lập ra “Hội liên hiệp thuộc địa”, nhằm tập hợp, đoàn kết các dân tộc thuộc địa chống chủ nghĩa đế quốc Pháp và hội xuất bản tờ báo “Người cùng khổ” (Le Paria) để tuyên truyền tố cáo tội ác của thực dân Pháp.
Trong thời gian này Người đã viết nhiều bài cho báo Người cùng khổ, báo Nhân đạo của Đảng Cộng sản Pháp, báo Đời sống công nhân của Tổng liên đoàn lao động Pháp. Thông qua các bài báo này, Người tố cáo tộ ác của thực dân Pháp và sự phản động của chế độ thực dân đối với thuộc địa. Cũng qua đó Nguyễn ái Quốc đã khơi dậy niền tin, tinh thần đấu tranh anh dũng chống áp bức của nhân dân lao động.
Mục đích của hội là: “làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một liên minh phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản” (HCM: Toàn tập, Nxb CTQG, 2002, t2, tr 124) .
- Năm 1922, Ban nghiên cứu thuộc địa được thành lập, Nguyễn ái Quốc được cử làm trưởng tiểu ban nghiên cứu về vấn đề Đông Dương.
Cuối năm 1921, tại Đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Pháp, họp ở Macxây, Nguyễn ái Quốc trình bài dự thảo nghị quyết về “Chủ nghĩa cộng sản và các thuộc địa” và kiến nghị thành lập Ban nghiên cứu thuộc địa trực thuộc uỷ ban trung ương Đảng Cộng sản Pháp. Kiến nghị đó đã được địa hội chấp nhận và năm 1922 Ban nghiên cứu thuộc địa được thành lập.
Ban nghiên cứu thuộc địa được thành lập tạo điều kiện thuận lợi cho Đảng Cộng sản Pháp nắm bắt tình hình, đặc điểm của các thuộc địa Pháp từ đó có cơ sở giúp đỡ cho phong trào đấu tranh chông thực dân Pháp của nhân dân thuộc địa.
- Tháng 6.1923, Nguyễn ái Quốc đến Mátxcơva tham dự Hội nghị Quốc tế nông dân và học tập nghiên cứu kinh nghiêm cách mạng tháng Mười và chủ nghĩa Lênin.
Trong hội nghị quốc tế nông dân Nguyễn ái Quốc đã trình bài tham luận bàn về vấn đên nông dân ở các nước thuộc địa, Người chỉ rõ: Nông dân bị áp bức, bóc lột nặng nề, nạn đói luôn xãy ra, sự câm phẩn ngày càng lên cáo.
“Sự nổi dậy của nông dân bản xứ đã chín muồi. Trong nhiều nước thuộc địa, họ đã vài lần nổi dậy, nhưng lần nào cũng bị dìm trong máu. Nếu hiện nay nông dân vẫn còn ở trong tình trạng tiêu cực, thì nguyên nhân là do họ còn thiếu tổ chức, thiếu người lãnh đạo. Quốc tế cộng sản cần phải giúp đỡ họ tổ chức họ lại, cần phải cung cấp cán bộ lãnh đạo cho họ và chỉ cho họ con đường đi tới cách mạng giải pgóng”. (HCM: Toàn tập, Nxb CTQG, 2002, t10, tr 289) .
Theo Nguyễn ái Quốc, nông dân là lực lượng cách mạng vô cùng to lớn, vấn đề là làm sao tổ chức và lãnh đạo được họ.
Cũng trong thời gian này, Người đã viết nhiều bài cho báo Sự Thật của Đảng Cộng sản Liên Xô và tạp chí Thư Tín của Quốc tế cộng sản.
- Năm 1924, Nguyễn ái Quốc tham dự Đại hội V Quốc tế cộng sản, và các Đại hội Quốc tế khác. Tại đây, Người đã đề cập tới vấn đề mối quan hệ cách mạng chính quốc và cách mạng thuộc địa.
Người thẳng thắn phê bình một số Đảng Cộng sản ở các nước tư bản chủ nghĩa đã coi nhẹ vấn đề thuộc địa, chưa biết kết hợp phong trào cách mạng ở chính quốc và cách mạng ở các nước thuộc để thành lập một mặt trận đấu tranh chung chống chủ nghĩa đế quốc.
Đây là vấn đề đột phá có tính lý luận của Nguyễn ái Quốc trong vấn đề cách mạng giải phóng dân tộc.
Người vạch rõ , dưới chế độ thống trị của CNDQ, giai cấp công nhân và nhân dân lao động các nước thuộc địa bị áp bức bóc lột vô cùng tàn bạo và bị tàn sát dã man.
Người viết: “CNTB là một con đỉa hai vòi, một vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một vòi bám vào giai cấp vô sản ở các nước thuộc địa. Nếu muốn giất con vật ấy thì người ta phải đồng thời cắt cả hai vời. Nếu người ta chỉ cắt một vài thôi, thì cái vòi còn lại kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản, con vật đó vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại tiếp tục mọc ra”(Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 1, Nxb CTQG, Hà Nội 1995, Tr.298 ).
Sự kết hợp đó hoàn toàn khách quan và cũng chỉ có thế cách mạng mới mong giành được thắng lợi trọn vẹn.
- Tháng 11.1924, Nguyễn ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc), tại đây Người cùng các nhà cách mạng các nước thành lập “Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức”.
Với nhiệm vụ xây dựng phong trào, đào tạo áchủ nghĩa bộ cho các nước trong khu vực và cũng để có điều kiện tiếp cận với phong trào cách mạng trong nước. Đồng thời cũng tỏ rõ ý định về nước của Người.
Trong thư gửi các bạn cùng hoạt động ở Pháp trước khi rời nước Pháp năm 1923, Nguyễn ái Quốc viết: “ Đối với tôi câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập”. (Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 1, Nxb CTQG, Hà Nội 1995, Tr.192). Nhưng do hoàn cảnh lịch sử mà vào thời điểm này Người chưa thể về nước được.
- Tháng 6.1925, Nguyễn ái Quốc thành lập “Hội Việt Nam cách mạng thanh niên”, với cơ quan tuyên truyền của Hội là Báo Thanh niên. Đồng thời cũng trong thời gian này tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” được xuất bản.
Hội Việt Nam cách mạng thanh niên là bước chuẩn bị có ý nghĩa quyết định cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thông qua hội chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá trực tiếp vào Việt Nam, hội có cơ sở và ảnh hưởng rộng rãi trong nước nhất là trong phong trào công nhân làm cho phong trào công nhân phát triển cả về số lượng và chất lượng. Ngoài ra hội còn ảnh hưởng rộng đối với phong trào nông dân vì Cương lĩnh của hội đề cập tới vấn đề ruộng đất của nông dân và các tầng lớp tiểu tư sản, trí thức.
Bằng những dẫn chứng cụ thể sinh động, tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” tố cáo trước dư luận Pháp và nhân dân thế giới những tội ác tài trời của thực dân Pháp đối với thuộc địa. Tác phẩm chỉ ra chủ nghĩa đế quốc là ke thù chung của giai cấp công nhân ở chính quốc và nhân dân lao động thuộc địa. Tác phẩm còn khẳng định nhân dân các nước thuộc địa có sức mạnh cách mạng to lớn, khi mà sức mạnh đó được tập hợp lại thì chủ nghĩa đế quốc sẽ bị đánh bại. Bản án chế độ thực dân Pháp đã vạch trần bản chất phản động của đế quốc Pháp đối với thuộc địa, từ đó thức tỉnh tinh thần dân tộc, hướng nhân dân các nư[chính sách thuộc địa tới con đường giải phóng dân tộc của thời đại cách mạng vô sản
Nhân dân ta, trước hết là tiểu tư sản, trí thức tiến bộ nhờ tác phẩm đó và các bài viết khác của Nguyễn ái Quốc trong thời kỳ này mà hướng tới con đường cách mạng của Người để đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam.
- Năm 1927, những bài giảng của Nguyễn ái Quốc cho các lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu được tập hợp thành sách “Đường kách mệnh”. Trong tác phẩm, Nguyễn ái Quốc đã vạch ra những phương hướng cơ bản về chiến lược, sách lược của cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Đường kách mệnh đã trực tiếp chuẩn bị về tư tưởng chính trị cho việc thành lập chính Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam.
Tác phẩm “Đường cách mệnh” là tập hợp các bài giảng của Nguyễn ái Quốc tại các lớp huấn luyện chính trị từ đầu năm 1925 đến 4/1927. Trong khoảng thời gian này đã có 200 học viên theo học.
Đường kách mệnh khẳng định trước hết phải hiểu cách mạng là gì ?, tại sao phải làm cách mạng ?. Đường kách mệnh đã giới thiệu tính chất và kinh nghiệm cách mạng Mỹ, cách mạng Pháp, cách mạng tháng Mười Nga và khẳng định rằng chỉ có cách mạng tháng Mười Nga là triệt để nhất, vì thế cách mạng Việt Nam cần phải đi theo con đường cách mạng của học thuyết Mác - Lênin mới thành công.
Đường kách mệnh nhấn mạnh tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc; lực lượng cách mạng bao gồm “sỹ, nông, công, thương”, trong đó công nông là “chủ cách mạng”, là “gốc cách mạng ”, còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ… là bầu bạn cách mạng của công nông.
Đường kách mệnh chỉ rõ cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, vì vậy phải tổ chức, động viên lãnh đạo đông đảo quần chúng đánh đổ áp bức, xiềng xích.
Đường kách mệnh còn chỉ ra là cách mạng Việt Nam là bộ phận của cách mạng thế giới, cần được sự giúp đỡ của quốc tế. Cách mạng vô sản ở chính quốc và cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa có mối quan hệ thúc đẩy lẫn nhau và cách mạng thuộc địa có thể nổ ra và thành công trước cách mạng chính quốc.
Đường kách mệnh khẳng định: muốn cách mạng thắng lợi trước hết phải có đảng cách mạng. Đảng có vững cách mạng mới thành công…Đảng phải có chủ nghĩa làm cốt … “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chủ nghĩa cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin” (HCM: Toàn tập, 2002, t2, tr 257).
=> Đường kách mệnh đã trực tiếp chuẩn bị về tư tưởng chính trị cho việc thành lập chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam.
b/ Về tổ chức
Trong quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, Nguyễn ái Quốc đã thành lập
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bai giang1.doc