Chủ trương cứu nước xuyên suốt trong tư tưởng của Phan Bội Châu, đó là tiến hành đấu tranh bằng con đường bạo động. Lật đổ chính quyền thuộc địa Pháp bằng phương tiện võ trang (quân sự), đối với Phan, là phương cách duy nhất để lấy lại độc lập cho Việt Nam. Tuy nhiên, Phan cho rằng người Việt tự mình không địch nổi người Pháp, do đó phải cậy vào một cường quốc khác. Sở dĩ Phan và các đồng chí trong Duy Tân Hội chọn Nhật Bản để cầu viện vì Nhật là nước "đồng văn đồng chủng" mà lại vừa mới thắng Nga. Sau khi bị nhà đương cuộc Nhật trục xuất khỏi Nhật, Phan chuyển hướng, muốn liên kết với các nước "đồng bệnh" - trước hết là Trung Quốc - chống lại "cường quyền". Tuy nhiên, suốt đời Phan không rời chủ nghĩa Liên Á, tin rằng nếu không có sự giúp đỡ của các nước "đồng văn đồng chủng" như Trung Quốc, Nhật Bản. thì Việt Nam không thể nào lấy lại độc lập.
74 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 10181 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cuộc vận động yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam đầu thế kỉ XX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n để lo việc chung cả nước, lòng quốc dân thế nào thì làm thế ấy" (4).
Bước sang thế kỷ XX đất nước Việt Nam không những cần có độc lập dân tộc, mà phải giàu mạnh, có dân chủ và văn minh. Chính yêu cầu đó của lịch sử đã khẳng định vai trò quan trọng của phong trào Duy tân đổi mới và cải cách. Ông là người phát biểu một cách dõng dạc và rõ ràng nhất những sự hủ bại củ hệ thống quan lại và đưa ra những yêu cầu cải cách hệ thống quan lại và những quan hệ chính trị lúc đương thời. Không những thế, ông còn làm sáng tỏ vấn đề dân quyền về mặt lý thuyết và ra sức cổ vũ tuyên truyền cho sự thực hiện dân chủ và dân quyền trong thực tiễn. Tư tưởng dân chủ và dân quyền của Phan Châu Trinh là một đóng góp to lớn không những cho phong trào đổi mới và cải cách mà cả cho sự phát triển của lịch sử tư tưởng Việt nam đầu thế kỷ XX. Nếu chúng ta nhìn Phan Châu Trinh không phải chỉ thấy chủ nghĩa cải lương của ông mà còn thấy những cống hiến của ông về mặt tư tưởng và thực tiễn như trên đã nói thì chúng ta sẽ có sự đánh giá địa vị của ông trong lịch sử cách mạng Việt Nam một cách khách quan và công bằng hơn trước.
2.2. Về văn hóa
Từ nửa cuối thế kỷ XIX, trong xu thế chung của cả khu vực văn hóa Việt Nam cổ truyền đã và đang phải đối mặt với trào lưu văn hóa phương Tây. Sự thật lịch sử đã chỉ ra rằng ở Việt Nam đã sớm có một dòng tư tưởng canh tân nhận thức được sự cần thiết phải hướng văn hóa của dân tộc tới những giá trị tiến bộ mới lạ của khu vực và của thời đại, đồng thời phải kế thừa bảo lưu những giá trị tốt đẹp đã từng là chỗ dựa cho dân tộc trường tồn phát triển. Khởi đầu là Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Phạm Phú Thứ, Đặng Huy Trứ... Tiếp nối dòng tư tưởng này, nhận thức được vấn đề cấp thiết của dân tộc đầu thế kỷ XX là vấn đề độc lập dân tộc đặt trong hệ luận giải mới là dân chủ, dân quyền là một loại các danh sĩ, đứng đầu phải kể tới Phan Châu Trinh. Do điều kiện khách quan, do hạn chế về tư liệu và phương pháp mà trước đây ít người để ý tới cống hiến của Phan Châu Trinh đối với việc canh tân sáng tạo nền văn hóa dân tộc tại thời điểm ông sông.
Sau hơn bốn chục năm kể từ khi thực dân Pháp nổ súng ở Đà Nẵng rồi cường đoạt độc lập tự do của dân tộc, cho tới thời điểm đầu thế kỷ XX, trên thực tế chúng đã đồng thời áp đặt nền văn hóa thực dần lên nền văn hóa cổ truyền của Việt Nam. Văn hóa cổ truyền của dân tộc dường như đứng trước bọn diệt chủng hoặc lai căng, mất gốc. Lịch sử thử thách khắc nghiệt đã sản sinh ra người đứng đầu gió, đó là Phan Châu Trinh. Xuất thân từ gia đình có truyền thống yêu nước, Phan Châu Trinh sớm trăn trở bởi câu hỏi lớn: làm thế nào để đưa dân tránh được hiểm họa ghê gớm đó? Nhờ tiếp xúc nhiều với những người khách trú, những nhà buôn Nhật Bản, và nhất là từ những năm 1902 ông đã được đọc các Tân thư, Tân văn mà trong óc đã nảy nở ra hai vấn đề quan yếu:
Thứ nhất, đó là vấn đề thời đại "mưa Âu, gió Mỹ ", sóng lan tràn thực dân là một tất yếu. Trong hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam và khu vực, việc tiếp nhận văn hóa phương Tây là một xu thế không cưỡng nổi.
Thứ hai, trong quy luật "cường thắng, liệt bại” thì muốn dân tộc khỏi diệt chủng chỉ có cách tự canh tân về mọi mặt của nền văn hóa, tự lực tự cường, vươn lên sánh vai với nước khác trên trường quốc tế một cách chủ động tích cực. Nói cách khác tức là bảo lưu, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc đồng thời tiếp nhận những giá trị văn hóa mới của thời đại để đáp ứng yêu cầu phát triển dân tộc mình. Đi tới được những nhận định ấy đã có thể gọi là bước ngoặt trong tư tưởng so với người cùng thời, nhưng đáng nói hơn là Phan Châu Trinh đã xây dựng thành chủ thuyết Tân dân, và suốt cả đời ông đã tận tâm, tận lực để thổi luồng sinh khí ấy vào quảng đại quần chúng nhân dân, lấy đông đảo quần chúng nhân dân làm đối tượng lĩnh hội và là người thực thi ý tưởng đó (l). Chỉ riêng ở điểm này thôi cũng là bài học quý báu cho chúng ta tin tưởng hơn rằng, công cuộc đồi mới hiện nay đang thuận chiều lịch sử vận động đi lên của dân tộc đã được mở đầu bởi Phan Châu Trinh.
Bấy giờ hiện trạng vô cùng đen tối. Thực dân Pháp với chính sách đồng hóa và ngu dân đã câu kết với thế lực phong kiến phản động làm cho văn hóa cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX vốn suy đồi lại càng hư nát. Chế độ chính trị là sự biểu hiện của văn hóa chính trị chuyên chế hà khắc của phương Đông cộng thêm văn hóa chính trị thực dân dã man, độc đoán, tàn bạo. Nhằm phục vụ quyền lợi của giai cấp thực dân phong kiến, chính quyền thống trị đã đặt ra các chính sách bóc lột, áp chế nhân dân đến cùng cực. Phan Châu Trinh là người dám đứng lên đương đầu với nhà cường quyền đòi cải cách thể chế chính trị. "Thư gửi toàn quyền Beau” của ông là bản cáo trạng tố cáo các quan tham lại nhũng, chính trị hư hại đương thời, đòi hỏi cải cách, thực thi một văn hóa chính trị tiến bộ và nhân đạo hơn, dưới một hình thức công khai trực diện. Do thực sự là những cống hiến xuất sắc của Phan Châu Trinh. Trước ông, đã từng có đòn bút chiêu hàng giặc của Nguyễn Trãi, nhưng sử dụng bút lực để thuyết phục kẻ xâm lược đang nắm quyền uy trên toàn cõi Việt Nam, lôi cuốn đi theo ngọn triều tiến bộ, thì đó là miếng võ lợi hại, có lẽ chỉ có người xuất thân từ con nhà võ như Phan Châu Trinh mới sáng tạo nên.
Có thể nói suốt trong mấy chục năm, ông đã không ngừng học hỏi kiến thức văn hóa, chính trị mới mé của Tây phương, nhưng với ý thức chủ động chỉ tiếp thu chọn lọc những cái gì phù hợp với điều kiện của đất nước vào lúc đó. Thiết tha yêu nước và một lòng một dạ vì dân vì nước, Phan Châu Trinh đã biết kế thừa bài học "gậy ông đập lưng ông" khi ông dựa vào chiêu bài “khai hóa văn minh" để đòi chính quyền bảo hộ "mau mau đổi lại chính sách, kén dùng người hiện tại, giao cho quyền bính, đãi người cho có lễ độ, đối xử với người cho thành thật, rồi cùng nhau tìm cách hưng lợi trừ hại, mở cái con đường nuôi sống cho dân nghèo, cho thân sĩ có quyền nghị luận tụ do... mở nhà báo để thấu rõ dân tình, minh thưởng phạt để thanh trừ lại tệ, những việc cần thiết như đổi pháp luật, bỏ khoa cử, mở nhà học, đều lần lượt cải lương"(2). Ở những yêu sách mà ông đặt ra, ta thấy những nội dung đấu tranh rất mới lạ so với trước. Có thể nói, với con mắt quan sát đặc biệt của mình Phan Châu Trinh đã nhìn thấy tình thế khẩn cấp nước sôi lửa bỏng phải đổi mới toàn diện chính trị - kinh tế - văn hóa xã hội Việt Nam. Hiểu đó là những bước canh tân khó khăn, vì chưa quen thuộc đối với nhận thức, thói quen, phong cách sinh sống của người mình, nên ông đã kiên tâm, bền chí để đưa ý thức này đến với quần chúng. Trên một nghìn năm trước, lối tư duy kinh tế phong kiến "trọng nông, ức thương", coi thường kỹ nghệ đã lạm suy yếu kinh tế của đất nước. Phan Châu Trinh đặt ra chương trình tự lập các hội trong cây, dệt vải, hội buôn, các cơ sớ sản xuất hàng hóa và buôn bán hàng nội hóa nhằm khôi phục và chấn hưng thực nghiệp. Tư tưởng và hành động của ông không chỉ là những lời tuyên truyền, kêu gọi mà thật sự đã để lại những kinh nghiệm điển hình rất sinh động. Tại tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Thuận, Nghệ An, Hà Nội có rất nhiều hội hợp cổ, hợp quần, hùn vốn để phát triển "quốc thương", lợi nước ích nhà" làm thay đổi mạnh mẽ các quan điểm lạc hậu về kinh tế. Đến bây giờ, những khuyến cáo dân nước phải bỏ lối học kiếm danh, học để làm quan và mau mau phải học lấy tinh thông một nghề vẫn còn có giá trị:
“Người ta trọng có tài có nghiệp
Kẻ không nghề cả kiếp khó hèn
Loài người đã không tài không nghiệp
Phải sinh ra nhiều kiếp gian nan,
Đua chen dối trá muôn vàn
Gà bầy đá lẫn, cá đàn cán nhau...
Hỡi những người chí cả thương quê
Mau mau đi học lấy nghề...
Dẫu rằng thợ mộc thợ rèn
Tài hay trí tốt tiếng khen vang rền...(3)
Như ta đã biết, sở dĩ ông và các đồng chí của mình "phất cao cờ tân dân, trống thực nghiệp" được mạnh và sớm là do biết phát huy truyền thống phát triển công thương, giao tiếp với bên ngoài rộng rãi của đất Hội An – Đà Nẵng. Nơi đây có đủ các điều kiện để cây công thương bén rễ, phát triển nhanh chóng. Phan Châu Trinh không chỉ hô hào, cổ động, bản thân ông lúc bị đày ở Côn Đảo cũng tự mày mò học nghề làm đòi mồi rất khéo, khi sang Pháp ông tự học nghề làm ảnh và đã truyền nghề này cho Nguyễn ái Quốc. Tuy chưa đi tới những nhận thức về tính quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng, nhưng ông đã nhìn thấy sức mạnh phục hưng độc lập dân tộc là phụ thuộc vào sức mạnh của chấn hưng thực nghiệp, nâng cao tiềm lực kinh tài cho đất nước.
Từ góc độ giá trị văn hóa của đời sống kinh tế, Phan Chu Trinh đã quan niệm rằng phát triển của đất nước phải dựa trên cơ sở chú trọng đẩy mạnh các ngành công thương, đồng thời cải tạo nghề nông, khai đất đai đưa vào sản xuất các nông sản hàng hóa xuất khẩu. Xu hướng này đã khôn khéo lựa chiều, dựa vào các chính sách khai thác thuộc địa của thực dân để đề xướng ra các yêu sách. Trong chủ kiến này ông cô tính đến khả năng vận động được nhôm chính khách Pháp có cảm tình và muốn thực dân khai hóa thuộc địa. Tuy vậy, ý đồ này đã vấp phải sự phản ứng của bọn thực dân tàn bạo. Cả phong trào Duy tâm rầm rộ, cũng như chính những người khởi xướng nó đã bị dìm vào máu lửa. Đó là điều Phan Chu Trinh đã không tính đen. Nói đến tấm gương canh tân văn hóa nước nhà của Phan Chu Trinh phải nói ngay đến những đóng góp về giáo dục. Ngay từ những năm 1902 ông đã thấy tệ hại của lối giáo dục phong kiến cũ. Ông cho rằng muốn khôi phục quốc hồn thì phải sửa đổi phép thi, thay đổi nền giáo dục cũ bằng nền giáo dục lấy kiến thức thực dụng làm nội dung, dạy con người nắm được tri thức cần thiết cho đời sống dân sinh. Ông cực lực phản đối lối học từ chương bát cổ, sáo rỗng, hình thức làm suy đổi tâm trí của người dân nước. Đối với nền Nho học cuối mùa, ông lên án thẳng thừng:
"Trách những kẻ sư nho dạy bảo
Việc nhân tâm thế đạo làm ngơ
Bắt đầu đã dạy văn thơ
Ngũ ngôn bát cổ lờ mờ nghĩa đen
Mong cho biết đua chen danh lợi
Tìm những đường hủ bại mà đi
Sao không biện biệt thị phi
Sao không chỉ trỏ đường kia nẻo này” (4).
Ông đã nhiều lần đòi chính phủ bảo hộ bỏ lối thi cũ, mở mang trường học, dạy kiến thức mới cho người dân Việt. ông kêu gọi người trong nước: "Đồng bào ơi! chi cho bằng học?". Ông không quản khó khăn vất vả vào Nam, ra Bắc để khuếch trương mở rộng các trường dân lập, riêng ở tỉnh Quảng Nam đã mở được tới 40 trường. ông viết văn thơ cổ động cho tân học, tài liệu ở các trường nghĩa thục chủ yếu là Tồn thủ, Tân văn và các văn bản do ông và các đồng chí trước tác. Trong đó tác phẩm “Tình quốc hồn ca" nổi bật những tư tướng giáo dục mới. Có thể nói ông là người đầu tiên xây dựng một nền giáo đục mới chú trọng nội dung thực tiễn đáp ứng cho nhu cầu phát triển và canh tân đất nước, không chỉ dừng ở tư tưởng mà xây dựng các điển hình theo định hướng canh tân ấy một cách có hiệu quả trong thực tế.
Khác biệt với sự mạnh dạn khi phân tích phê phán những tệ nạn của nền giáo dục khoa cử cũ, ông hết sức trân trọng bảo vệ những giá trị nhân đạo gần với tư tưởng dân chủ của phương Tây trong di sản Nho học. Cũng ở điểm này trước đây có ý kiến cho rằng về văn bản ông vẫn là nhà nho và rốt cuộc vẫn đứng trên lập trường Nho giáo bảo thủ. Ngày nay khi có hiện tượng tăng trưởng và phát triển nhanh chóng ở các nước vốn có truyền thống Nho học, có ý kiến cho rằng có lẽ phải tính đến vai trò tích cực của Nho học đối với các nước đó, và tới với cả chúng ta. Khi ta thấy Phan Chu Trinh dẫn nhiêu lần những tư tưởng "dân vi quý", "quân dân tịnh trọng" hoặc cho rằng đối với phẩm chất cá nhân thì các phạm trù Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín vẫn rất đáng quý, thì chắc rằng không phải ông cổ hủ mà rõ ràng giữa truyền thống và cách tân là một sự kế thừa biện chứng. Ta hãy đọc "Đã gọi là người thì phải có nhân, nghĩa là, trí, tín, cần, kiệm. Nhân là có lòng thương người, nghĩa là làm việc phải, lễ và ăn ở có lễ độ, trí để làm việc cho đúng, tín là nói với ai cũng giữ lời cho người ta tin mình, mới làm được việc, cần là làm việc phải siêng năng, kiệm là ăn ở trong lúc no để đành lúc đói, lúc có để dành lúc không... Người có đạo đức tức là người đã ở trọn đạo làm người vậy, đạo đức đã như thế thì không có mới có cũ có đông có tây nào nữa, nghĩa là nhất thiêt đời nào, người nào cũng phải gia đạo đức ấy mới là người trọn vẹn"(5). Giá trị nhân loại của phẩm cách đạo đức con người đã được Phan Chu Trinh nhận xét khách quan, chứng tỏ so với đương thời ông đạt được tầm nhìn bao quát rộng rãi. Là người cô nhân cách cao thượng, khẳng khái, Phan Chu Trinh đặc biệt chú trọng những nét văn hóa của phong cách sống, phong tục tập quán, thói quen tâm lý của người dân Việt. Qua lang kính phân tích sắc sao của ông những đặc điểm khả thủ như đặc tính kiên cường, bất khuất, thương nước yêu nòi, ý chí độc lập tự chủ đã được ông đúc rút, hy vọng làm bài học cho người sau. Bên cạnh đó, tác phong tự phán xét, tự phản tư qua so sánh đối chiếu với nền văn hóa phương Tây ở các điểm này, dũng cảm nhìn thẳng sự thật, chỉ ra những khiếm khuyết của người dân Việt quả là một đóng góp đặc sắc, rất riêng của cụ Tây Hồ. Bản thân cụ cũng là một tấm gương sắc nét. Trong bức thư gửi cho Nguyễn ái Quốc vào năm 1922 cụ đã thể hiện sự thẳng thắn khi thừa nhận hạn chế lịch sử của thế hệ mình. Có ý kiến trước đây cho rằng, ông đã không tin vào khả năng của người dân, bi quan thất vọng về tiền đồ dân nước khi vạch ra những thói hư tật xấu của người nước mình. Thật ra phải đạt đến một trình độ duy lý cao và phải có được một bản lĩnh vững vàng mới làm nổi những tự phê phán như cụ.
Tuy nhiên, ta đều biết với một danh Nho như cụ thì việc tự tu dưỡng theo chuẩn mực đạo đức Nho giáo là việc thường nhật. Song, ở vào hoàn cảnh ấy, cụ biết vượt bỏ các khuôn mẫu cũ, vươn mình lên theo đòi hỏi của thời đại, tạo lập một phong cách mới, sáng tạo, có thể gọi là "mốt Tây Hồ", rất được hoan nghênh vào thời đó. Phong cách này không phải chỉ dừng lại ở ăn mặc, đầu tóc, giầy dép, nón mu, mà nó ở tầm sâu hơn. Nó không chỉ là tự phê phán lề thói tập tục cổ hủ mà đã bước dâu xác lập phong cách mới mang màu sắc tiến bộ, văn minh, nhân đạo. Con người xông xáo băng ngàn vượt bể Đông độ, Tây du, hô hào diễn thuyết, lập hội nông, hội thương, hội học, làm đủ mọi nghề, thật sự là hình mẫu đặc sắc cho phong cách mới.
Phan Chu Trinh không chỉ say mê hướng tới những giá trị văn hóa mới, ông còn gắn nó vào công cuộc phục hưng độc lập tự do cho dân tộc. Một trong những cống hiến trong việc tiếp tục giá trị yêu nước thương dân là đời sống chính trị - kinh tế - phong tục, tập quán... mang mầu sắc cụ thể của Việt Nam và khẳng định đó là con đường mả dân tộc phải đi qua.
Phan Chu Trinh không chỉ là tấm gương hướng tới các giá trị văn hóa mới mà còn thật sự là một người đi đầu trong lĩnh vực văn học với thể văn chính luận chặt chẽ và khúc chiết. Trong các tác phẩm thơ, đặc biệt là tác phẩm Giai nhân kỳ ngộ, dài gấp hai lần rưỡi Truyện Kiều, trong Tình quốc hồn ca I và II và hàng trăm bài thơ văn khác, công lớn của ông là người đầu tiên sáng tác văn học dưới ánh sáng của tư tưởng canh tân một cách có ý thức rõ rệt. Trong đó, ông không chỉ lột tả hiện trạng bi thảm của đất nước, ngợi ca lịch sử hào hùng, vạch chỉ nguyên nhân mất nước mà còn dành phần lớn nội dung cho đấu tranh kêu gọi cuộc đổi mới toàn diện vãn hóa nước nhà, để đủ sức đi tới, phục hồi độc lập tự chủ. Đó là nét khác biệt đặc sắc ở Phan Chu Trinh.
Để thấy rõ hơn, ta nhìn lại chủ thuyết dân chủ như là một khai phá mạnh bạo, đột phá vào nền văn hóa phong kiến chuyên chế. Theo lập luận của ông, nếu không canh tân văn hóa xã hội Việt Nam thì trước quy luật nghiệt ngã của CNTB đang bành trướng khắp nơi, nước Việt ắt sẽ bị mất, không với ké ngoại bang này thì với ké xâm lược khác.
Thực tế hiện tại, ta đang chịu sự bảo hộ của nước Pháp, vậy thì tranh thủ ngọn cờ khai hóa văn minh của nhà cầm quyền để khuyếch trương nhiệm vụ canh tân đổi mới nhằm "nâng cao dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh" và ông đã dành trọn đời cho sự, nghiệp canh tân văn hóa ấy. Tuy nhiên bọn thực dân cáo già đã tinh ranh nhận ra tính chất nguy hiểm cho sự tổn tại của chế độ thực dân nên đã chặn đứng nẻo đường đi lên mới mê này của dân tộc. Vả lại, xuất thân từ cửa Khổng sân Trình bản thân ông cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc và không tránh khỏi những hạn chế trong nhận thức vả hành động do vậy chủ thuyết dân chủ của ông cũng mới chỉ dừng lại ở việc tiếp thu các ý tưởng mới của các nhà khai sáng Pháp vả các nhà cải lương của Nhật Bản, Trung Quốc, có đối chiếu sửa đồi cho phù hợp với hoàn cảnh thuộc địa của ta. Công cuộc đổi mới hôm nay của chúng ta đang tiếp tục không thể chỉ là việc tiếp thu của người trước mà còn hàng loạt những vấn đề của thời đại, của dân tộc phải có sự nghiên cứu khái quát rộng sâu hơn nữa, mới nâng nền văn hóa của ta lên được. Mặc dù vậy, một đóng góp rất mới của Phan Chu Trinh trong việc tiếp thu có phê phán những giá trị văn hóa mới là ông đã nhìn thấy việc thực hiện cuộc canh tân đất nước phải được từng cá nhân, mỗi người nhận thức lợi quyền và nghĩa vụ và phải có sự thay đổi từ trên xuống dưới, bắt đầu từ việc chính phủ bảo hộ phải mở mang ban bố các quyền dân. ông đã ảo tưởng khi đặt hy vọng vào thiện chí của chính quyền thực dân. Nhưng đó là một gợi ý cho cống cuộc xây dựng văn hóa mới hiện nay, khi mà nhân dân đã làm chủ, quyền lực của nhân dân phải được thể hiện tập trung từ cấp cao nhất của nó, phải thực hiện từ trên xuống dưới, có định hướng, chủ động của bộ máy chính quyền cao nhất. Đây là một trong những giá trị mà Phan Chu Trinh đã để lại và chúng ta cần nghiêm túc học tập.
2.3. Về kinh tế
Một trong những nội dung quan trọng của cuộc vận động cải cách Duy Tân là cải cách về kinh tế mà người khởi xướng là Phan Châu Trinh cùng những đồng chí nhiệt thành Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng.
Thương nghiệp là lĩnh vực được chú trọng phát triển khá mạnh trong các ngành kinh tế của phong trào Duy Tân. “Dĩ thương hợp quần” – lấy buôn bán để tập hợp nhau lại cùng lo việc nước; buôn bán còn để kiếm lời để nuôi dưỡng các hoạt động khác như mở trường học, nuôi thầy giáo, cung cấp sách vở cho học sinh. Vì vậy gọi buôn bán là “Quốc thương” và việc lập những hội buôn chung (hợp thương) được đặc biệt chú ý.
Thương cuộc Hội An (Quảng Nam) là thương cuộc đầu tiên của phong trào, được thành lập vào những tháng cuối năm 1905 hoặc đầu năm 1906. Lúc bấy giờ Hội An là địa điểm thuận lợi nhất, là thành phố lớn, sầm uất, thương khách đông đảo, có cả khách buôn người nước ngoài nhất là người Trung Hoa. Hội An cũng là nơi giao thương của các thuyền bè, chở hàng hóa ở các đường sông, đường bộ, đường biển đổ về. Hội An cũng có nhiều thuận lợi trong việc tiếp nhận những sách báo mới tiến bộ từ Bắc, Nam và từ Trung Hoa vào. Các nhà lãnh đạo Duy Tân đã chọn đúng vị trí đột phá này để từ đó phát triển dần dần ra các nơi khác.
Thương cuộc này do ông Bang Kì Lam phụ trách, tọa lạc ở đường Chùa Cầu. Đây là một căn nhà thuê, khá rộng, phía sau có gác, người quản lí là Mai Tảo khoảng 25 tuổi, làng Thanh Hà (cạnh Hội An), vì có chân học sinh nên gọi là Học Tảo. Số nhân viên cũng khá đông, không kể 3 lao động. Thương cuộc bán đủ loại sỉ và lẻ: vải, gạo, đường, tơ là những hàng chính bán cho Trung Hoa; cau khô, đường mắt tre, dầu phụng bán sỉ cho các ghe ở tứ phương về mua đem bán lại cho các chợ dưới quê. Vì là một công cuộc doanh thương ở thành phố lớn (thời ấy Hội An còn phồn thịnh) nên các tổ chức có phép tắc, hàng hóa xếp đặt, phân loại có ngăn nắp. Nhiều hàng hóa đã bắt chước theo lối trình bày mới, như nước mắm Nam Ô đã biết đóng chai, dán nhãn, trên các món hàng đều có thẻ tre, biên giá nhất định. Nhân viên tiếp khách lịch sự, mỗi người biết dùng sổ tay bỏ túi để hàng ghi chép hàng xuất nhập. Hàng nhập được đưa vào các kho khác nhau. Nhân viên kiểm soát ghi nhận cẩn thận. Có thể nói đây là thương cuộc quy của bậc nhất của ta thời ấy.
Cùng với thương cuộc Hội An, “Hiệp thương Diên Phong và nghĩa thục Diên Phong do Phan Thúc Duyện tổ chức và điều hành đã được đánh giá là hai cơ sở tầm cỡ nhất ở Quảng Nam, có thể so sánh với Công ti Liên Thành ở Phan Thiết, Triêu Dương ở Nghệ An và Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội”.
Hợp thương Diên Phong ở Phong Thử (còn gọi là Hợp thương Phong Thử) “Ở gần sông Bàu Lớn, thuộc làng Phong Thử. Cơ sở gồm có nhà lầu, một nhà ngang dài và hai nhà nhỏ dùng để nấu cơm, ăn cơm và ngủ. Nhà lầu rất bề thế, có thể đứng vững qua mục tiêu lâu dài là một mục tiêu trăm mắt nhìn vào để tin tưởng công cuộc làm ăn chắc chắn, có nhiều triển vọng lớn. Trong thời ấy, nhà cửa của người giàu còn lụp xụp mà đã tính tới chuyện dùng một tòa nhà nguy nga trong công cuộc buôn bán là một bước tiến kì lạ, không ai dám tưởng tượng ở một vùng quê xứ Quảng. Tại nhà lầu có phòng tiếp khách, chỗ làm việc, chỗ chứa hàng hóa. Hàng hóa đây chỉ là những thổ sản thường buôn trong tỉnh do những ghe bầu vượt biển đi buôn các tỉnh khác hay mang xuống cho thương cuộc Hội An bán…”
Ngành buôn không chỉ giới hạn trong phạm vi tỉnh mà còn mở rộng ra tận Hà Nội. Công cuộc mua bán này do ông Võ Hoán gọi là Quốc thương.
Ngoài hai thương cuộc nổi tiếng trên, ở Quảng Nam lúc này còn có nhiều hàng hiệu của sĩ phu với quy mô nhỏ hơn.
Ở Quảng Ngãi, các Hội buôn quy mô không lớn như Quảng Nam, nhưng rất nhiều dưới dạng cửa hàng như: thuốc bắc, nội hóa, quán cơm… Những cửa hàng này vừa là nơi liên lạc, vừa là nơi cung cấp tài chính cho các hoạt động khác của các nhà hoạt động cách mạng Duy Tân.
Sau chuyến Nam du của Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, năm 1906, Nguyễn Trọng Lội cùng Nguyễn Quý Anh, Hồ Tá Bang, Trần Lệ Chất, Ngô Văn Nhượng lập Công ti Liên Thành buôn nước mắm đặt trụ sở ở Phan Thiết, Sài Gòn… Ngoài Liên Thành, nhiều công ti buôn bán được thành lập ở Bình Thuận nhưng quy mô nhỏ hơn.
Tại Nghệ An, Hà Tĩnh thành lập Triêu Dương thương quán (6/1906) với sự góp vốn của Đặng Nguyên Cẩn và Ngô Đức Kế.
Về nông nghiệp, một số sĩ phu mở các hội khai khẩn đất hoang làm ruộng, thường gọi là “nhàn điền”, trồng lúa, ngô, đậu, chè…
Vùng đất Quảng Nam có nguồn lợi lớn do quế mang lại, các chủ vườn đua nhau sửa sang vườn quế, chung nhau tìm thêm đất để trồng quế, chè, tiêu. Chính Phan Châu Trinh cũng góp phần vào công cuộc khuếch trương vườn quế bằng cách hùn vốn với các nhà kinh doanh khác. Các Hội nông trồng quế theo Huỳnh Thúc Kháng đều được thành lập từ năm 1906.
Ở Quảng Ngãi, Hội nông có cơ sở chính tại khu rừng thuộc làng Tình Phú, huyện Nghĩa Hành với vài chục mẫu khẩn hoang, chuyên trồng đỗ, khoai lang, số Hội viên khoảng 70 người do Nguyễn Bá Loan làm Hội trưởng.
So với thương nghiệp thì hoạt động về nông nghiệp gặp nhiều khó khăn hơn vì phải đối phó với cảnh sơn nam chướng khí, nhân công tại chỗ thiếu phải đi thuê mướn liên xã. Đã thế, các nhà Nho còn bị hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm lập đồn điền nên kết quả về vật chất chưa có gì đáng kể. Nhưng qua phong trào lập Hội nông, việc tuyên truyền một phương pháp canh tác khoa học, chọn giống, loại cây trồng… đã được phổ biến trong nhân dân.
Phan Bội Châu với chủ trương phát triển kinh tế phục vụ cuộc cách mạng đầu thế kỉ XX
Đối với phong trào cải lương hợp pháp, Phan Bội Châu tưởng như xa lạ, không quan tâm tới. Nhưng thực ra bên trong và đằng sau giữa hai xu hướng vẫn có liên hệ mật thiết.
Mùa thu năm 1905, khi từ Nhật Bản trở về nước lần thứ nhất, nhận thức của Phan Bội Châu về tầm quan trọng của việc chấn hưng kinh tế phục vụ cuộc vận động cách mạng đã được xác lập rõ rệt hơn. Thời gian ở Nhật Bản đã tác động tư tưởng của Phan Bội Châu. Nhận thức rõ tình trạng chậm trễ, lạc hậu của đất nước và cho rằng chính tình trạng xấu ấy đã làm đất nước mình bị hèn yếu nên khi nhiệm vụ “cầu viện quân sự” bị thất bại, Phan Bội Châu đã thấy cần phải thay đổi kế hoạch. Phan Bội Châu thấy cần phải có một thời kì chuẩn bị khá dài để “tạo nên một cơ sở thực sự vững chắc”. Vì vậy, nhiệm vụ canh tân đất nước, đưa nước nhà tiến kịp trình độ các nước văn minh”, phải được đặt ra một cách bức thiết, và coi đó là một sự hỗ trợ không thể thiếu được đối với nhiệm vụ “đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục độc lập dân tộc cho Tổ quốc Việt Nam”.
Đến đầu năm 1906, sau khi Đặng Nguyên Cẩn đề nghị Phan Bội Châu lập các hội Nông, Thương, Học thì Cụ chấp nhận ngay và khuyến khích lập Triều Dương thương quán ở Vinh. Đến khoảng 6/1906, khi trở về Hương Cảng, Phan Bội Châu lại lập ra “Việt Nam thương đoàn công hội” (tồn tại khoảng 1 năm), vừa là để “kinh doanh lợi chung”, vừa là trạm nghỉ chân cho các đoàn Đông Du. Những hoạt động trên đã đánh dấu sự chuyển hướng tư tưởng của Phan Bội Châu về phát triển kinh tế.
Lí tưởng của Phan Bội Châu là phấn đấu cho một nước Việt Nam độc lập và giàu mạnh. Muốn vậy, về kinh tế phải lo phát triển kinh doanh, sản xuất để tăng thêm của cải cho đất nước. Hơn nữa, trước mắt nhu cầu về kinh phí cho phong trào Đông Du cũng thúc đẩy Cụ lưu ý đến vấn đề tài chính và của cải vật chất:
“Than ôi nỗi sự đời gian khổ
Khổ gì hơn không có của dùng”
Vấn đề tài sản quốc gia có liên quan đến sự tồn tại của một nước. Từ năm 1903, Phan Bội Châu đã đề cập đến khi viết “Lưu Cầu huyết lệ tân thư”: “Tài sản là huyết mạch của nước, huyết mạch phải lưu thông trong tay chân và ngón đốt, không thể một khắc gián đoạn”. Cụ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Khuynh h4327899ng dn ch7911 t432 s7843n 7903 VN 2737847u th7871.doc