Đề tài Đa dạng hoá các nguồn lực để phát triển đào tạo nghề: Thực trạng và giải pháp

Trang

A. PHẦN MỞ ĐẦU 1

1. Lý do 1

2. Mục đích và nhiệm vụ 2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2

4. Phương pháp nghiên cứu 2

5. ý nghĩa và kết cấu của khoá luận 3

B. Nội dung 5

CHƯƠNG I: THỰC TRẠNG ĐA DẠNG HOÁ CÁC NGUỒN LỰC CHO ĐÀO TẠO NGHỀ 5

1.1. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển ngành đào tạo nghề Việt Nam 5

1.2. Thực trạng đa dạng hoá các nguồn lực cho đào tạo nghề 8

1.2.1. Quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước ta về đa dạng hoá về đào tạo nghề và một số đặc điểm về đào tạo nghề ở nước ta hiện nay. 8

1.2.2. Thực trạng đa dạng hoá các nguồn lực cho đào tạo nghề 12

1.2.2.1. Tình hình phân bố và năng lực đào tạo của các cơ sở dạy nghề 12

1.2.2.2. Cơ sở vật chất - kỹ thuật 18

1.2.2.3. Nguồn lực tài chính cho dạy nghề 23

1.2.2.4. Đội ngũ giáo viên dạy nghề 25

1.2.2.5. Đổi mới nội dung chương trình đào tạo 27

1.2.2.6. Chất lượng và hiệu quả của đào tạo nghề 29

1.2.3. Đánh giá thực trạng đa dạng hoá các nguồn lực để phát triển đào tạo nghề 31

CHƯƠNG II: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ ĐẨY MẠNH THỰC HIỆN ĐA DẠNG HOÁ CÁC NGUỒN LỰC ĐỂ PHÁT TRIỂN ĐÀO TẠO NGHỀ 37

2.1. Một số giáp pháp về đa dạng hoá các nguồn lực để phát triển đào tạo nghề 37

2.2. Một số kiến nghị 39

C. KẾT LUẬN 42

TÀI LIỆU THAM KHẢO 43

 

 

 

doc44 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1874 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đa dạng hoá các nguồn lực để phát triển đào tạo nghề: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
137 212 154,74 Nguån:Tæng côc d¹y nghÒ BiÓu2: M¹ng l­íi c¬ së d¹y nghÒ *N¨ng lùc ®µo t¹o. - Quy m« ®µo t¹o: Nhê cã chñ tr­¬ng x· héi ho¸ ®µo t¹o nghÒ nªn qui m« ®µo t¹o nghÒ thêi gian qua t¨ng nhanh. Sè l­îng tuyÓn sinh ®µo t¹o nghÒ qua c¸c n¨m ®Òu t¨ng (biÓu 3). N¨m 2005, tuyÓn sinh ®µo t¹o nghÒ lµ 1.184.600 ng­êi. Tû lÖ ®µo t¹o nghÒ dµi h¹n còng t¨ng dÇn: N¨m 1998 chiÕm 14,4% trong tæng sè häc sinh häc nghÒ; n¨m 2004 tû lÖ ®ã lµ 21,23% vµ n¨m 2005 lµ 24%.Tõ n¨m 1996 – 2005, quy m« tuyÓn sinh ®µo t¹o nghÒ (c¶ dµi h¹n vµ ng¾n h¹n) liªn tôc t¨ng, víi tèc ®é trung b×nh kho¶ng 23% n¨m, trong ®ã, quy m« ®µo t¹o nghÒ dµi h¹n t¨ng gÇn gÊp bèn lÇn. ViÖc t¨ng quy m« ®µo t¹o nghÒ ®· gãp phÇn ®¸ng kÓ trong viÖc n©ng tû lÖ lao ®éng qua ®µo t¹o nghÒ. BiÓu3: ChØ tiªu ®µo t¹o nghÒ. N¨m Tæng sè (ng­êi) Trong ®ã Ghi chó Ng¾n h¹n Dµi h¹n Dµi h¹n so víi tæng sè 1997 447.000 390.000 57.000 12,75 1998 525.600 450.000 75.600 14,38 1999 690.000 592.900 97.100 14,07 2000 792.200 662.000 130.200 16,43 2001 887.300 761.200 126.100 14,20 2002 1.005.000 858.500 146.500 17,00 2003 1.074.100 897.740 176.360 19,64 2004 1.153.000 950.000 202.700 21,23 2005 1.184.000 954.000 230.000 24,00 Nguồn Tổng cục Dạy nghề Trong 5 năm (2000-2005) đã dạy nghề cho trên 5,25 triệu người, đạt 103% kế hoạch chỉ tiêu dạy nghề Quốc Hội giao. Trong đó dạy nghề dài hạn cho 884.890 người, đạt 104% kế hoạch, bình quân tăng 17%/năm; dạy nghề ngắn hạn cho gần 4,4 triệu người, đạt 103%kế hoạch, bình quân tăng 7,4%/năm. Việc tăng nhanh qui mô đào tạo nghề những năm qua đã góp phần nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 13,3% năm 1998 lên 17,6% năm 2004 và đạt 19,8% năm 2005,vượt chỉ tiêu đề ra 1,2%. Quy mô tuyển sinh dạy nghề đều đạt cao hơn so với mục tiêu đề ra. Tuy vậy, tỷ lệ đào tạo nghề dài hạn vẫn còn chiếm tỷ lệ thấp. Đào tạo nghề ngắn hạn tuy thời gian đào tạo ngắn đáp ứng được với yêu cầu của thị trường lao động, nhưng có nhiều nhược điểm như: Lý thuyết học không có hệ thống, không toàn diện (cần gì học đó); kỹ năng nghề không cao ,v…v…và dễ rơi vào tình trạng thất nghiệp. Ngược lại, tuy đào tạo dài hạn cần vốn đầu tư lớn, nhưng chỉ có đào tạo dài hạn mới có khả năng đáp ứng được những yêu cầu của sản xuất, kỹ thuật, công nghệ cao do được đào tạo toàn diện cả lý thuyết và thực hành …Mặt khác, tỷ lệ tuyển sinh cho đào tạo nghề ở các khu vực cũng rất khác nhau điều đó ảnh hưởng không ít đến sự phát triển đồng đều trong đào tạo nghề giữa các vùng kinh tế của đất nước. Tuy vậy, tỷ lệ tuyển sinh cho đào tạo nghề ở các khu vực rất khác nhau: + Khu vực đồng bằng Sông Hồng: Tỷ lệ học sinh học nghề dài hạn chiếm 29,55%, ngắn hạn chiếm 12,94%so với cả nước; + Khu vực Đông Nam Bộ: Tỷ lệ học sinh học nghề dài hạn chiếm 22,17%, ngắn hạn chiếm 45,17% so với cả nước; + Khu vực Đông Bắc: Tỷ lệ học sinh học nghề dài hạn chiếm 19,99%, ngắn hạn chiếm 11,18%so với cả nước; + Khu vực Tây Bắc: Tỷ lệ học sinh học nghề dài hạn chiếm 3,82%, ngắn hạn chiếm 1,49% so với cả nước; + Khu vực Tây Nguyên:Tỷ lệ học sinh học nghề dài hạn chiếm 2,08%, ngắn hạn chiếm 1,94% so với cả nước. Điều này cho thấy đào tạo nghề phát triển chưa đồng bộ giữa các vùng, các khu vực. 1.2.2.2 Cơ sở vật chất – kỹ thuật Để đáp ứng được yêu cầu về số lượng và chất lượng lao động kỹ thuật của thị trường lao động, ngành dạy nghề đã thực hiện đồng bộ hệ thống từ cơ chế chính sách, tăng cường công tác quản lý, quy hoạch mạng lưới, đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo, trong đó cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy nghề giữ vai trò quan trọng. Đảng, Nhà Nước, các cấp, các ngành đã quan tâm và nỗ lực đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho đào tạo nghề.Từ năm 1998 đến nay mức đầu tư cho dạy nghề liên tục tăng. Việc đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy nghề đã góp phần cho dạy nghề gặt hái được nhiều thành tựu. Cụ thể: + Phòng học, lớp, xưởng, thư viện: Chất lượng phòng học, nhà xưởng của các trường dạy nghề đã được đầu tư cải thiện. Hầu hết các trường mới xây dựng được xây dựng theo chuẩn quy định về phòng học, giảng đường, nhà xưởng, khu giáo dục thể chất … Bình quân tổng diện tích của một trường nghề là 250.000 m2. Diện tích mặt bằng của các trường trung ương cao gấp 4 lần so với các trường địa phương. Điều này tương đối phù hợp với số học sinh bình quân mà các trường ở trung ương và địa phương đào tạo (ở các trường dạy nghề của trung ương quy mô đào tạo cao gấp 2,5 lần so với các trường địa phương). Diện tích mặt bằng của các trường công lập lớn gấp 20 lần các trường ngoài công lập. Phòng học, xưởng thực hành, phòng thí nghiệm, ký túc xá cho học sinh và chỗ làm việc của giáo viên cũng có sự chênh lệch giữa trường công lập và ngoài công lập. Diện tích phòng học, nhà xưởng ở các trường dạy nghề bình quân 3m2/01 học sinh, số phòng học bình quân là 53 phòng /1000 học sinh. Tuy nhiên, so với nhu cầu đào tạo, hiện tại số phòng mới đáp ứng được 70%, xưởng thực hành 74%, phòng làm việc 80,41%, ký túc xá 66%, thư viện 50% và chất lượng chưa cao. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Dạy nghề, năm 2003 tính chung cho các trường thì có khoảng 31% số phòng và 50,7% số xưởng thực hành là nhà cấp 4, nhà tạm. Biểu4: Diện tích mặt bằng của các trường dạy nghề. Diện tích (m2) <1.000 1.000-:<5000 5000-:<10000 10000-:<20000 20000-:<30000 30000-:<40000 >=40000 Số trường 4 15 8 30 18 9 46 % 3,08 11,53 6,16 23,08 13,85 6,92 35,38 Nguồn Tổng cục Dạy nghề Thông qua các dự án, chương trình mục tiêu, các nguồn đầu tư một số cơ sở dạy nghề được nâng cấp, mở rộng, chất lượng phòng học, nhà xưởng các trường dạy nghề đã được cải thiện. Đa số các trường mới được xây dựng theo chuẩn quy định về phòng học, giảng đường, nhà xưởng, khu giáo dục thể chất... Trong giai đoạn 2001 – 2005, chương trình mục tiêu quốc gia đầu tư nâng cấp cho 35 trường và 40 trung tâm dạy nghề. Các dự án được thực hiện bằng nguồn viện trợ không hoàn lại và ODA ưu đãi đầu tư khoảng 20 trường và 24 trung tâm dạy nghề khác. Cơ sở vật chất, trang thiết bị cho dạy và học nghề của những trường dạy nghề, trung tâm dạy nghề này được đổi mới căn bản, thực sự trở thành những trường nòng cốt, cung cấp nguồn lao động có kỹ thuật cho đất nước. Tuy nhiên, ở các trường dạy nghề, các trung tâm dạy nghề chưa được đầu tư từ kinh phí chương trình mục tiêu cũng như từ nguồn đầu tư nước ngoài, nhất là các trường dạy nghề thuộc địa phương và các cơ sở dạy nghề ngoài công lập, vẫn còn khoảng 30% số phòng học và 50% số xưởng thực hành là nhà cấp 4 và bán kiên cố; trang thiết bị cho dạy nghề và học nghề còn thiếu về số lượng và lạc hậu về công nghệ. Biểu 5: Tình trạng phòng học, nhà xưởng của trường dạy nghề. Cấp quản lý Nhà tạm Nhà cấp 4 Nhà kiên cố Tổng số Phòng học TW Địa phương Tổng số 5,36% 7,43% 6,59% 18,93% 28,19% 24,43% 75,70% 64,38% 68,98% 100% 100% 100% Xưởng thực hành TW Địa phương Tổng số 12,55 10,03% 11,06% 33,64% 44,34% 39,52% 53,81% 45,63% 49,32% 100% 100% 100% Phòng thí nghiệm TW Địa phương Tổng số 3,97% 15,00% 7,84% 25,08% 15,00% 21,54% 70,75% 70,00% 70,62% 100% 100% 100% Thư viện TW Địa phương Tổng số 2,78% 8,89% 5,13% 22,94% 22,22% 22,66% 74,28% 68,89% 72,21% 100% 100% 100% Ký túc xá TW Địa phương Tổng số 10,74% 16,82% 13,46% 23,85% 44,71% 33,15% 65,41% 38,47% 53,39% 100% 100% 100% Nguồn Tổng cục Dạy nghề - Trang thiết bị đào tạo: Trong những năm qua, thực hiện xã hội hoá, các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp và các cơ sở dạy nghề cũng đã đầu tư hàng trăm tỷ đồng để mua sắm trang thiết bị dạy nghề. + Trang thiết bị cho đào tạo các môn cơ sở : Theo thời gian sản xuất: Các trường có khoảng 50% số trang thiết bị được sản xuất trong giai đoạn 1996 – 2000, 34% được sản xuất trong giai đoạn từ 1986 – 1995, và còn khoảng 6% số thiết bị được sản xuất từ năm 1975, chỉ có 15% trang thiết bị được sản xuất từ 2000 đến nay. Theo mức độ hiện đại : Đa số trang thiết bị được đánh giá ở mức trung bình (64%), chỉ có 23% được coi là hiện đại và 13,6% thuộc loại lạc hậu. Theo nơi sản xuất có tới 65,5% số trang thiết bị được sản xuất ở nước ngoài, 24,8% được sản xuất trong nước và trên 9% là do các cơ sở tự sản xuất hoặc lắp ráp. + Trang thiết bị cho đào tạo lý thuyết chuyên môn nghề và thực hành nghề: Theo thời gian sản xuất: Tính trung bình trên 30% số trang thiết bị được sản xuất trong giai đoạn 1986 – 2000, 18% trang thiết bị được sản xuất từ 2000. Theo mức độ hiện đại: Đa số trang thiết bị dùng cho đào tạo lý thuyết chuyên môn nghề và thực hành nghề được đánh giá ở mức trung bình là 64%, hiện đại là 20%, 14% lạc hậu. Theo nơi sản xuất: 67% thiết bị được nhập từ nước ngoài về, còn lại là sản xuất và lắp ráp trong nước. Trang thiết bị dạy và học nghề có nhiều đổi mới; tuy nhiên, còn thiếu về số lượng và lạc hậu về công nghệ. Như vậy, phần lớn ở các cơ sở đào tạo nghề ở nước ta, hiện nay thiết bị dạy nghề được nhập khẩu, vì giá mua thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến phục vụ cho dạy nghề rất đắt, vì vậy những thiết bị mà các cơ sở dạy nghề mua hầu hết là những thiết bị cũ của nước ngoài. Những thiết bị có nguồn gốc trong nước giá cả hợp lý, thích hợp với điều kiện của các cơ sở dạy nghề ở nước ta và những thiết bị này được sản xuất ra do đúc rút từ thực tiễn, thuận tiện cho sử dụng và hướng dẫn học sinh thực hành. Tuy nhiên, một số thiết bị trong nước không có tài liệu hướng dẫn, thí nghiệm không thích hợp với yêu cầu về sư phạm và giảng dạy đào tạo nghề, nhiều thiết bị chỉ là mô hình hướng nghiệp không phải là thiết bị huấn luyện kỹ năng nghề hoặc thiết bị sản xuất chưa phù hợp với chương trình và giáo trình, một số trường hợp sử dụng linh kiện cũ hoặc đã qua sử dụng. Trang thiết bị cho dạy và học nghề ở các trường dạy nghề, trung tâm dạy nghề, cơ sở dạy nghề còn thiếu về số lượng và lạc hậu về công nghệ. Thiết bị nghe nhìn như máy Slide, Projecter, TV và VCR ở các cơ sở dạy nghề còn thiếu, có trường chưa có loại thiết bị trên để phục vụ cho giảng dạy và học tập. Trung bình cứ 50 học sinh mới có 01 máy tính. Về thiết bị chuyên môn: Trung bình mỗi cơ sở dạy nghề có khoảng 300 tranh ảnh các loại, 120 mô hình. Số thiết bị chuyên môn mới chiếm khoảng 60% nhu cầu thực tế. Nhiều cơ sở dạy nghề bằng con đường sáng tạo, tự chế tạo các mô hình phương tiện giảng dạy, nhiều cơ sở dạy nghề đưa thiết bị tự làm lên 9% trong số tổng thiết bị hiện có. Như vậy, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy nghề ở các cơ sở dạy nghề ở nước ta hiện nay còn thiếu về số lượng, lạc hậu và nhiều hạn chế. Một phần rất lớn trang thiết bị trong các cơ sở dạy nghề không phải là trang thiết bị phục vụ cho công tác dạy nghề một cách chính quy, nhiều máy móc có từ những năm 70 của thế kỷ trước (của Liên Xô), nhiều máy móc mua lại của các doanh nghiệp đã thanh lý, do vậy không đồng bộ về hệ thống, tính sư phạm không cao, đã ảnh hưởng không ít đến chất lượng đào tạo nghề. 1.2.2.3 Nguồn lực tài chính cho dạy nghề. Với quan điểm giáo dục và đào tạo, trong đó đào tạo nghề là quốc sách hàng đầu, Nhà nước đã tăng nguồn lực đầu tư cho đào tạo nghề: - Ngân sách nhà nước đầu tư cho lĩnh vực dạy nghề: Sau khi nhà nước có chủ trương chấn chỉnh lại hệ thống dạy nghề với việc quyết định tái lập lại Tổng cục Dạy nghề, hàng năm tỷ lệ ngân sách nhà nước dành cho dạy nghề tăng dần: 4,3% vào năm 1998 tăng lên 6,5% năm 2004 và đạt 8% năm 2005. Trong 5 năm (2001 – 2005) Nhà nước dành 870 tỷ đồng từ ngân sách nhà nước đầu tư cho dạy nghề. Trong những năm qua, ngân sách nhà nước là nguồn lực chủ yếu cho việc duy trì ổn định và phát triển dạy nghề. - Kinh phí phân bổ cho Dự án Tăng cường năng lực đào tạo nghề thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia Giáo dục - Đào tạo hàng năm tăng: Năm 1999 là 30 tỷ đồng, năm 2004 là 200 tỷ đồng và đến năm 2005 là 340 tỷ đồng. - Song song với đầu tư tài chính và vật chất của Nhà nước, người dân và các doanh nghiệp đã tự bắt đầu có sự đầu tư cho đào tạo nghề. Việc đầu tư này thông qua sự đóng góp xây dựng trường, lớp, đóng góp các chi phí đào tạo...Có thể nói trong một vài năm gần đây phần lớn chi phí cho đào tạo nghề ngắn hạn ở các cơ sở dạy nghề công lập và ngoài công lập là do người học hoặc người sử dụng lao động qua đào tạo nghề đóng góp (khoảng 600 tỷ đồng/ năm). Nhiều địa phương đã huy động từ ngân sách địa phương, huy động từ sự đóng góp của dân xây dựng nhiều loại quỹ khuyến học, khuyến tài, khuyến công, khuyến nông...; chỉ tính riêng sự huy động nguồn lực của người dân và các địa phương, đã đóng góp thêm hàng trăm tỷ đồng cho đào tạo nghề. - Cùng với nguồn đầu tư từ Nhà nước, các nguồn lực khác hàng năm được huy động đầu tư cho dạy nghề cũng tăng đáng kể. Ước tính nguồn huy động khác ngoài ngân sách Nhà nước cho dạy nghề bằng khoảng 20% kinh phí đào tạo, là nguồn kinh phí quan trọng, góp phần thực hiện vượt mức kế hoạch đào tạo hàng năm. Theo thống kê chưa đầy đủ, những năm qua các doanh nghiệp và cá nhân đã đầu tư hàng trăm tỷ đồng để thành lập mới và nâng cấp các cơ sở dạy nghề hiện có. Riêng các Tổng công ty nhà nước đã đầu tư lên tới 364 tỷ đồng cho đào tạo nghề. Nhiều doanh nghiệp như công ty VINACONEX, Tổng công ty Than, bưu chính viễn thông, công ty UNILEVER, công ty Hon Da có Quỹ đào tạo nghề, đầu tư cho các trường dạy nghề, trung tâm dạy nghề, cơ sở dạy nghề. Đóng góp của dân, người học nghề và người sử dụng lao động cho đào tạo nghề mỗi năm hàng chục tỷ. - Trong những năm gần đây hợp tác quốc tế về đào tạo nghề đã góp phần đáng kể vào phát triển lĩnh vực dạy nghề, tạo điều kiện để dạy nghề Việt Nam tiếp cận với trình độ dạy nghề tiên tiến của các nước trong khu vực và thế giới, thu hút được nhiều vốn từ nước ngoài đầu tư cho dạy nghề. Hợp tác quốc tế về dạy nghề ngày càng được mở rộng: Nhiều dự án đã và đang được triển khai như Dự án giáo dục kỹ thuật và dạy nghề do ADB tài trợ, Dự án tăng cường các trung tâm dạy nghề do Chính phủ Thụy Sỹ tài trợ thu hút gần 150 triệu đôla Mỹ, trong đó gần 50% là viện trợ không hoàn lại. Nguồn lực tài chính đầu tư cho dạy nghề huy động từ dự án hợp tác tài chính với chính phủ Đức, Hàn Quốc và vốn ODA. Đồng thời, nhờ sự tài trợ của các đối tác nước ngoài, hàng trăm lượt giáo viên, cán bộ quản lý về dạy nghề đã được đi bồi dưỡng đào tạo, tham quan khảo sát học tập kinh nghiệm ở nước ngoài góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, khoa học công nghệ và kỹ năng quản lý. 1.2.2.4 Đội ngũ giáo viên dạy nghề Đội ngũ giáo viên dạy nghề được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau: Được đào tạo từ các trường sư phạm kỹ thuật, tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng, trung cấp kỹ thuật, tốt nghiệp các trường dạy nghề được giữ lại làm giáo viên, được tuyển chọn từ công nhân có tay nghề cao. + Giáo viên tốt nghiệp các trường Cao đẳng, Đại học kỹ thuật, tuy có trình độ cao đẳng, đại học, nhưng kỹ năng thực hành nghề của những giáo viên này thấp và không được đào tạo ban đầu về kiến thức và kỹ năng sư phạm dạy nghề. Trong quá trình giảng dạy, tuy có được bồi dưỡng về sư phạm nhưng thiếu tính hệ thống. Những giáo viên này chủ yếu là giảng dạy các môn kỹ thuật cơ sở và lý thuyết chuyên môn nghề. Số giáo viên tham gia giảng dạy thực hành nghề rất ít. + Giáo viên tốt nghiệp các trường trung học chuyên nghiệp có trình độ chuyên môn kỹ thuật ở cấp trình độ trung cấp, một số có trình độ kỹ năng thực hành. Kỹ năng sư phạm của những giáo viên này cũng chỉ được bồi dưỡng trong quá trình giảng dạy. Những giáo viên này dạy nghề cơ sở, kỹ thuật chuyên môn nghề, và dạy cả thực hành nghề. + Giáo viên có trình độ công nhân kỹ thuật: Những giáo viên này thường là những học sinh giỏi nghề của các khoá đào tạo nghề chính quy được giữ lại làm giáo viên dạy nghề thực hành. Đây là những giáo viên có trình độ tay nghề, tuy nhiên, hạn chế về kiến thức chuyên môn kỹ thuật, kiến thức sư phạm cũng ở tình trạng tương tự như những giáo viên tốt nghiệp các trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học kỹ thuật . Để đào tạo đội ngũ lao động có tay nghề chuyên môn kỹ thuật thì cần phải đổi mới mạnh mẽ hoạt động dạy nghề, đặc biệt cần chú ý xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên vì giáo viên dạy nghề là lực lượng nòng cốt, quyết định không những tăng quy mô đào tạo mà còn giữ vai trò quyết định bảo đảm chất lượng đào tạo. - Số lượng giáo viên dạy nghề tăng dần: Năm 2000 có 6.000 giáo viên, năm 2003 có 7.056, năm 2005 có 8.000 giáo viên dạy nghề. Do việc tăng quy mô đào tạo nghề hàng năm lớn, đội ngũ giáo viên trong các trường dạy nghề hiện nay đang thiếu nghiêm trọng , vì vậy, dẫn đến tình trạng đại bộ phận các trường dạy nghề phải sử dụng giáo viên dạy thêm giờ, dạy lớp đông học sinh kể cả các lớp thực hành. Điều này làm ảnh hưởng không ít đến chất lượng đào tạo. Đồng thời thiếu giáo viên cũng tạo ra những khó khăn cho việc bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn kỹ năng nghề và sư phạm cho giáo viên. - Đội ngũ giáo viên dạy nghề trong những năm qua đã có nhiều cố gắng, trình độ chuyên môn kỹ thuật, trình độ sư phạm được nâng lên từng bước. Chất lượng giáo viên dạy nghề đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu, đảm bảo chất lượng đào tạo.Tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn ở các trường dạy nghề là 68,7%, ở các trung tâm dạy nghề là 54%. Trình độ chuyên môn của giáo viên dạy nghề ở các trường dạy nghề là 70% có trình độ từ cao đẳng trở lên; 12,2% trình độ công nhân lành nghề và 17,8% trình độ khác; ở các trung tâm dạy nghề tương ứng là 65%, 15,2%, 19,8%. Trình độ sư phạm của giáo viên dạy nghề: 82% giáo viên các trường dạy nghề, 60% giáo viên các trung tâm dạy nghề đã được đào tạo, bồi dưỡng theo chương trình bậc I và bậc II về sư phạm kỹ thuật. Chương trình bồi dưỡng sư phạm kỹ thuật cho giáo viên dạy nghề được quan tâm hơn, tuy nhiên nội dung chương trình chưa phù hợp. Phương pháp tổ chức các lớp bồi dưỡng giáo viên dạy nghề còn hạn chế, do yêu cầu của công việc, đồng thời vừa tham gia các lớp bồi dưỡng sư phạm, nên chất lượng một số lớp chưa đạt yêu cầu. Phần lớn giáo viên dạy nghề được đào tạo và có trình độ tin học, ngoại ngữ, tuy nhiên, khả năng ứng dụng công nghệ tin học vào giảng dạy, sử dụng trình độ ngoại ngữ tham khảo tài liệu nước ngoài và giao tiếp với các chuyên gia còn hạn chế, chưa đáp ứng được.Trong những năm qua, đội ngũ giáo viên đã ngày càng được tăng cường về số lượng và nâng cao về chất lượng. Đội ngũ giáo viên chưa đáp ứng được yêu cầu do nguồn kinh phí nhà nước đầu tư cho công tác bồi dưỡng giáo viên dạy nghề trong thời gian qua quá eo hẹp, vì vậy, có rất ít các cơ sở dạy nghề đủ khả năng tổ chức bồi dưỡng cho giáo viên . So với tốc độ tăng quy mô đào tạo thì tốc độ tăng số lượng giáo viên chưa tương ứng. Tỷ lệ học sinh học nghề dài hạn/giáo viên ở các trường dạy nghề năm học 2002 – 2003 là 28 học sinh/01 giáo viên, đến nay là 25 học sinh/01 giáo viên (định mức chuẩn là 15 học sinh/01 giáo viên).Vẫn còn một tỷ lệ đáng kể giáo viên dạy nghề chưa đạt chuẩn (32%ở các trường dạy nghề, 46% ở các trung tâm dạy nghề). Để khắc phục tình trạng trên Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã xây dựng Đề án:“ Xây dựng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý dạy nghề” trình Chính Phủ duyệt và đang tổ chức triển khai thực hiện đề án . Số lượng và chất lượng của đội ngũ giáo viên dạy nghề trong những năm gần đây đã có những chuyển biến tích cực, tuy nhiên phải thấy rằng tình trạng giáo viên dạy nghề bất cập về kiến thức, thiếu kinh nghiệm thực tế, năng lực sư phạm, kỹ năng dạy nghề còn nhiều hạn chế. 1.2.2.5 Đổi mới nội dung chương trình đào tạo Đổi mới nội dung chương trình đào tạo là một trong những nguồn lực để nâng cao chất lượng đào tạo nghề. Trong những năm qua, để phù hợp với sự thay đổi của kỹ thuật và công nghệ, các cơ sở dạy nghề đã thường xuyên cập nhật thông tin mới về khoa học công nghệ để từng bước hoàn thiện nội dung, chương trình đào tạo. Hiện nay, hầu hết các chương trình đào tạo được thiết kế niên chế (kết cấu chương trình đào tạo theo môn học) và đã xây dựng từ nhiều năm trước đây, có điều chỉnh bổ sung một số nội dung để phù hợp với yêu cầu sử dụng, nhưng vẫn chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn sử dụng lao động trong các thành phần kinh tế hiện nay. Do vậy, trong thời gian qua, đã tổ chức xây dựng các chương trình dạy nghề theo mô đun hoặc kết hợp môn học với mô đun. Cụ thể, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã xây dựng và ban hành Quy định nguyên tắc xây dựng và tổ chức chương trình dạy nghề. Trên cơ sở đó, các Bộ, ngành đã và đang tiến hành rà soát, xây dựng mới, hoặc hoàn thiện bổ sung nội dung, chương trình đào tạo phù hợp với sự thay đổi của kỹ thuật và công nghệ trong sản xuất; phối hợp với Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã xây dựng ban hành chương trình, giáo trình 03 môn học chung, 27 chương trình dạy nghề ngắn hạn để đào tạo lưu động, 14 chương trình đào tạo theo môđun, 05 chương trình đào tạo ngắn hạn cho nông dân; triển khai xây dựng 76 chương trình, học hệ dài hạn theo các cấp trình độ cho 48 nghề phổ biến, trong đó có 31 chương trình cao đẳng nghề, 45 chương trình trung cấp nghề. Các chương trình đào tạo được xây dựng theo mô đun trên cơ sở phương pháp phân tích nghề (DACUM ) để gắn nội dung đào tạo với thực tiễn sản xuất, liên thông giữa các cấp trình độ đào tạo nghề. Nói tóm lại, đa dạng hoá nguồn lực, từ nguồn lực vật chất, nguồn nhân lực cũng như nguồn tài chính cho đào tạo nghề đã tạo ra một cơ hội để mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo nghề; tạo động lực cho cả người dạy và người học nghề. 1.2.2.6 Chất lượng và hiệu quả của đào tạo nghề. * Chất lượng đào tạo Học sinh tốt nghiệp các trường dạy nghề đã từng bước đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động, của các doanh nghiệp. Kiến thức và kỹ năng của học sinh học nghề được nâng lên, phần lớn học sinh sau khi tốt nghiệp đều tìm được việc làm. Qua khảo sát của Tổng cục Dạy nghề cho thấy: - Ý kiến đánh giá của người sử dụng lao động về kiến thức, kỹ năng của học sinh tốt nghiệp các trường dạy nghề là: + Về kiến thức chuyên môn nghề: Khá và tốt là 40%, trung bình là 48,9%; kỹ năng thực hành nghề: khá và tốt là 30,4%, trung bình là 58,7%, năng lực làm việc độc lập là 20,6%, năng lực phân tích giải quyết vấn đề là 7,6%, về năng lực thích ứng tự điều chỉnh trong công việc là 38,2%, năng lực theo tổ nhóm là 55,9%. + Kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp đã có nhiều tiến bộ. Theo đánh giá của 52 doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế có thu nhận học sinh tốt nghiệp các trường dạy nghề vào làm việc thì số có kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp từ mức trung bình trở lên, chiếm trên 85%, trong đó tốt chiếm trên 50%. - Kết quả học tập, rèn luyện của học sinh học nghề nhìn chung đã có những chuyển biến tích cực. Tỷ lệ học sinh xếp loại đạo đức tốt chiếm trên 60%, đạo đức yếu chỉ trên 1%; trên 85% học sinh tốt nghiệp các trường dạy nghề vào làm việc có kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp từ mức trung bình trở lên, trong đó tốt chiếm trên 50%. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp đạt trên 96%; trong đó tỷ lệ học sinh tốt nghiệp khá, giỏi chiếm gần 40%. Chất lượng đào tạo nghề ở nước ta không chỉ dừng lại trong phạm vi quốc gia mà đang từng bước tiếp cận với trình độ đào tạo trong khu vực và quốc tế: Tại cuộc thi tay nghề ASEAN lần thứ 03 năm 2001, mặc dù mới dự thi lần đầu, đoàn học sinh Việt Nam đã được xếp thứ 04 trong 07 đoàn tham dự với 01 Huy chương vàng, 01 Huy chương bạc, 03 Huy chương đồng và 60 giải khuyến khích; tại cuộc thi tay nghề ASEAN lần thứ 04 năm 2002, đoàn học sinh Việt Nam đã được xếp thứ 02 trong 08 đoàn tham dự với 04 Huy chương vàng, 03 Huy chương bạc, 01 Huy chương đồng và 07 giải khuyến khích. Đặc biệt tại cuộc thi tay nghề ASEAN lần thứ 05 năm 2004 tổ chức tại Việt nam, đoàn học sinh Việt Nam đã được xếp thứ 01 trong 08 đoàn tham dự với 13/18 Huy chương vàng, 05/16 Huy chương bạc, 03/11 Huy chương đồng. Đây là những kết quả phản ánh chất lượng đào tạo nghề ở nước ta đang từng bước tiếp cận với trình độ đào tạo trong khu vực. Như vậy, chất lượng đào tạo nghề trong những năm qua đã có nhiều chuyển biến tích cực, đã từng bước đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động, ở một số lĩnh vực như bưu chính viễn thông, dầu khí học sinh tốt nghiệp các trường dạy nghề đã có trình độ ngang tầm quốc tế và khu vực, thay thế được công nhân nước ngoài. * Hiệu quả của đào tạo nghề - Đào tạo nghề trong những năm qua thực sự đã đáp ứng được đòi hỏi đa dạng của nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Cụ thể, nhiều ngành nghề mới, ngành mũi nhọn, nghề đòi hỏi công nghệ cao, những vị trí chủ chốt… đến nay đều do những người thợ lành nghề của Việt Nam đảm nhận. Những vị trí này vào những năm đầu thập kỷ 90 đều phải thuê mướn lao động là người nước ngoài đảm nhận. Bên cạnh đó với số lượng lớn lao động được đào tạo nghề ngắn hạn đã thực sự tạo cơ hội cho người lao động tìm kiếm việc làm, tự tạo việc làm, tăng thu nhập giảm tỷ lệ thất nghiệp, nâng cao mức sống, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động. Hiệu qủa của đào tạo được thể hiện qua việc làm của học sinh sau khi tốt nghiệp: Học sinh sau khi tốt nghiệp các trường dạy nghề có việc làm chiếm tỷ lệ cao, trên 70% học sinh tìm được việc làm ngay

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLV2204.DOC