Đề tài Đặc điểm hệ thống biểu tượng chim trong ca dao Việt Nam

Mục lục

Trang

A. MỞ ĐẦU 1

1. Lý do chọn đề tài 1

2. Lịch sử vấn đề 2

3. Phương pháp nghiên cứu 3

B. NỘI DUNG 4

CHƯƠNG 1: KHÁI LUẬN CHUNG VỀ BIỂU TƯỢNG VÀ BIỂU TƯỢNG

NGHỆ THUẬT TRONG CA DAO TRỮ TÌNH VIỆT NAM 4

1.1. Khái niệm biểu tượng 4

1.1.1.Biểu tượng văn hóa 5

1.1.2. Biểu tượng văn học 7

1.1.3. Biểu tượng ngôn từ nghệ thuật 9

1.2. Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao Việt Nam 10

1.2.1.Khái niệm 10

1.2.2. Mô tip biểu tượng nghệ thuật trong ca dao 10

CHƯƠNG 2: KHẢO SÁT TƯ LIỆU NGHIÊN CỨU 14

2.1. Thống kê, phân loại 14

2.1.1.Thống kẻ 14

2.1.2 .Phân loại 14

2.2.Tìm hiểu nguồn gốc của việc sử dụng biểu tượng chim trong ca dao 15

2.2.1. Biểu tượng chim đã xuất hiện từ rất lâu đời trong ca dao với tư cách là sản phẩm của tín ngưỡng, quan niệm, tư duy người Việt cổ 16

2.2.2. Biểu tượng chim là sự biểu hiện sinh động hình ảnh cuộc sống đời thường của người dân lao động 18

2.2.3. Những ảnh hưởng của hệ biểu tượng chim trong thơ ca trung đại và sự dân gian hóa của ca dao Việt Nam 19

CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM HỆ THỐNG BIỂU TƯỢNG CHIM TRONG CA DAO VIỆT NAM 22

3.1. Sự biến đổi ý nghĩa biểu tượng chim trong ca dao(xét trong phạm vi ngôn ngữ văn học) 22

3.1.1. Những biến thể của hệ biểu tượng chim trong ca dao 23

3.1.2. Ý nghĩa của những biến thể từ ngữ trong hệ biểu tượng chim trong ca dao 25

3.1.3. Nhận xét 31

3.2. Con cò - biểu tượng nghệ thuật nổi bật của hệ biểu tượng chim 32

3.2.1. Con cò – biểu tượng cuộc sống thanh bình và tổ ấm hạnh phúc 32

3.2.3. Con cò – Biểu tượng cho người nông dân 34

3.2.4. Con cò – biểu tượng của những thói hư tật xấu trong xã hội cũ 36

CHƯƠNG 4: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG HỆ BIỂU TƯỢNG CHIM TRONG CA DAO 38

4.1. Biện pháp nhân hóa 38

4.2. Biện pháp so sánh 39

4.3. Biện pháp ẩn dụ 40

4.4. Nhận xét 41

C. KẾT LUẬN 42

 

 

doc44 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4960 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đặc điểm hệ thống biểu tượng chim trong ca dao Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phận họ nổi trôi như “bông hoa cúc biết vào tay ai": Hoa mơ hoa mận hoa đào Kìa bông hoa cúc biết vào tay ai. Đàn bà như hoa một thì Chàng mà nghĩ lại thiếp thì được ơn. Người phụ nữ khi đã lấy chồng, bước qua thời con gái phải âm thầm chịu đựng bao nỗi cực nhọc, đắng cay, họ được ví với những hình ảnh “hoa rữa cánh", “ngọc nát hoa tàn", “hoa tàn nhị phai", “cánh hồng tan tác cánh đào tả tơi", “đầy đoạ cho vầy thân hoa", "hoa thiên lí rơi xuống lầm”: Hay khi gió thảm mưa sầu Cho hoa rữa cánh phai màu chàng ơi.   - Nói đến người phụ nữ, người ta nói đến cái “số hoa đào” với biết bao sự ràng buộc: Ai ơi cái số hoa đào Cởi ra thì khó buộc vào như không. Biểu tượng sóng đôi: Những cặp sóng đôi được tạo nên trong sự kết hợp bền vững của những sự vật hiện tượng thiên nhiên tương đồng với nhau về phẩm chất, thuộc tính vì vậy trong ca dao dân ca nó là những hình tượng thích hợp biểu trưng cho sự hoà hợp giữa nam và nữ: Bướm - hoa có “bướm say hoa", “bướm gần hoa", “bướm lượn vành bén hoa", “bướm chiều hoa", “hoa bướm tìm nhau", “bướm đậu vườn hoa", "bướm lượn cành phù du". Rồng - mây có “rồng tìm mây" ,“rồng gặp mây", "rồng tơ tưởng vì mây". Trúc - mai có “sum họp trúc mai", "lan huệ sánh trúc mai", "trúc với mai", “trúc nhớ mai", “miếng trầu nên trúc nên mai", “gió trúc mưa mai". Quế – hồi: “quế sánh với hồi", “quế tơ tưởng vì hồi". Trầu - cau: “trầu bám cau", “giầu tơ tưởng vì cau", “có trầu có cau", “liền giầu với một chẽ cau". Mận - đào: “mận hỏi đào”, “mận sánh với đào", “mận mận đào đào bên nhau". Cá - nước: "cá lên khỏi nước chịu khô", “nước lên cá đối ăn theo". Cũng khảo sát trong ca dao. Nguyễn Xuân Kính đã ghi nhận 7 nhóm biểu tượng: 1. Trăng, sao, mây, gió... (hiện tượng tự nhiên) 2. Có cây, hoa lá... (thế giới thực vật) 3. Rồng phượng, chim muông... (thế giới động vật) 4. Áo, khăn, gương, lược, mũ, giày... (các đồ dùng cá nhân) 5. Chăn, chiếu, giường, mâm, bát… (các dụng cụ sinh hoạt gia đình) 6. Thuyền, lưới, đó, lờ, gàu…các công cụ sản xuất) 7. Nhà, đình, cầu… (các công trình kiến trúc) Trong đó, ba nhóm đầu là những biểu tượng thuộc thế giới các hiện tượng thiên nhiên, tự nhiên; bốn nhóm sau là những biểu tượng của thế giới nhân tạo. Những cách phân loại trên đều đã cho thấy diện mạo phong phú của biểu tượng trong ca dao, và nó có khả năng bao hàm được hầu hết các biểu tượng. Mỗi một hình ảnh trong cuộc sống đều có sự hóa thân kì diệu của nó. Nói đến nghệ thuật, không thể nói đến một thế giới nguyên sơ thô ráp hiển hiện mà phải giống như một nhà khai thác quặng quý đi tìm cái cốt lõi tinh túy, cái thế giới của sự hóa thân, nâng nó lên thành đỉnh cao của tâm hồn con người và vạn vật. Văn chương không nằm ngoài vòng quay ấy, để biểu hiện một hình tượng nghệ thuật, văn chương cần đến những biểu tượng của hình tượng đó. Văn học viết và văn học dân gian đều chất chứa vô vàn biểu tượng khác nhau, trong đó hệ biểu tượng chim thuộc bộ phận biểu tượng thế giới động vật, thế giới tự nhiên có đóng góp như một nhiều hình ảnh gợi cảm, nhiều ý nghĩa khái quát và sâu xa, góp phần tạo nên một thế giới nghệ thuật phong phú trong thơ ca dân tộc. CHƯƠNG 2 KHẢO SÁT TƯ LIỆU NGHIÊN CỨU 2.1. Thống kê, phân loại: 2.1.1.Thống kẻ: Phạm vi khảo sát: Cuốn “ Tục ngữ ca dao Việt Nam” (Vũ Trọng Phan) Đối tượng khảo sát: Hình ảnh chim nói chung và các loài chim xuất hiện trong ca dao (Không phải các loài chim được gắn liền với các đồ dùng sinh hoạt hay các vật chất cụ thể như: Hình ảnh phòng loan, gối phượng, gót loan…) Con số thống kê: Số lượng khảo sát 1350 câu 100% Số câu xuất hiện biểu tượng chim (hơn) 100 câu 7,40 % Số lần xuất hiện: khoảng 180 lần Kiểu loài: hơn 20 loại chim các loại Điều đó cho thấy biểu tượng chim xuất hiện trong ca dao với một tần số cao. Cùng với các biểu tượng khác trong ca dao, nhóm biểu tượng chim cũng mang giá trị thẩm mỹ rõ rệt. Bên cạnh những lần xuất hiện với lớp nghĩa đen thuần túy, trong nhiều trường hợp, các loài chim còn được dân gian khoác cho lớp nghĩa biểu tượng. 2.1.2 .Phân loại: Biểu tượng là hình thức nhận thức cảm tính nên khó có thể có một cách phân loại biểu tượng khoa học và tuyệt đối. Xét một cách tương đối, biểu tượng chim có thể được phân loại một cách cụ thể theo những cách sau: Theo hình thức biểu tượng và kiểu loài: Biểu tượng đơn Biểu tượng sóng đôi Cò, nhạn, cuốc, quyên, vạc, hạc, công, quạ, sáo, đa đa, én, bồ câu (chim cu), oanh, chiền chiện, chèo bẻo, phượng hoàng, chim Việt… Cuốc – quyên Loan – phượng … Theo màu sắc: Nhiều nhất là hình ảnh chim xanh, ngoài ra còn nhiều hình ảnh chim hồng, chim trắng. Theo đặc điểm hoạt động và sinh sống: Chim kêu, chim rừng, chim bay, chim lạc bầy, chim đỗ, chim đậu, chim về núi, chim xa tổ, chim nhớ tổ, chim vào lồng, chim non…đặc biệt có biểu tượng: “chim khôn” Theo ý nghĩa biểu tượng: - Biểu tượng cho quê hương và cuộc sống ấm no, thanh bình, trù phú(đàn cò, đàn chim, cánh cò, bồ câu, chiền chiện, chim Việt…) - Biểu tượng của tình yêu - sự sum họp - hạnh phúc lứa đôi(loan phượng, chim quyên, đàn cò) - Biểu tượng cho con người: Người nông dân, người con trai, người con gái, trẻ nhỏ(con cò, vạc, hạc, sáo, quạ, công, chim xanh) - Biểu tượng cho những thói hư tật xấu trong xã hội (cò, quạ, bìm bịp, tu hú…) - Biểu tượng cho ước mơ khát vọng của con người (bồ câu. Phượng hoàng, én, nhạn…) Ngoài ra có thể phân loại theo những biến thể biểu tượng, phần này sẽ được tập trung trình bày trong chương III. 2.1.3. Nhận xét: Qua việc thống kê, phân loại ta thấy hệ biểu tượng chim được sử dụng rất nhiều trong ca dao, đặc biệt là các loài chim đồng nội, gần gũi với đời sống của người dân Việt Nam. Những điều này có liên quan đến tư duy cổ xưa của nhân dân ta. Ngoài ra các biểu tượng ước lệ như: loan, phượng, chim Việt…cho thấy sự ảnh hưởng của văn học Trung đại trong văn học dân gian. Chính vì thế khi khảo sát biểu tượng chim trước hết phải đi từ nguồn gốc, tìm hiểu nguyên nhân của việc sử dụng hệ biểu tượng chim trong ca dao. 2.2.Tìm hiểu nguồn gốc của việc sử dụng biểu tượng chim trong ca dao: Kết quả thống kê phân loại cho thấy hệ thống biểu tượng chim trong ca dao không chỉ xuất hiện với số lượng khá lớn mà còn có ý nghĩa rất đa dạng phong phú. Để lý giải điều này có thể xuất phát từ đặc trưng đối tượng của nghệ thuật, đồng thời trên cơ sở mối liên hệ với lối tư duy, tín ngưỡng, tôn giáo (đời sống văn hóa nói chung) của người xưa. 2.2.1. Biểu tượng chim đã xuất hiện từ rất lâu đời trong ca dao với tư cách là sản phẩm của tín ngưỡng, quan niệm, tư duy người Việt cổ. “Thực tiễn sản xuất, sinh hoạt và chiến đấu của nhân dân ta thời nguyên thủy đã được phản ánh vào lĩnh vực tinh thần theo một thế giới quan đậm màu sắc linh luận. Và tôtem giáo đã nảy sinh từ đấy” (văn học dân gian Việt Nam – Đinh Gia Khánh). Trước các hiện tượng tự nhiên vĩ đại và bí hiểm, người dân thời nguyên thủy rất tôn sùng thiên nhiên, họ thần thánh hóa các hiện tượng tự nhiên, có xu hướng muốn gần gũi, tạo mối quan hệ ruột rà giữa con người với tự nhiên. Vì thế mà nảy sinh quan niệm về “ Vật tổ”.Người Việt có câu: Nhất điểu, nhị xà, tam ngư, tứ tượng. Chim, rắn, cá sấu là những loài vật phổ biến nhất trong vùng sông nước nên được sùng bái hàng đầu. Theo truyền thuyết thì tổ tiên người Việt thuộc họ “ Hồng Bàng” và là “ giống Rồng Tiên” (Thành ngữ “ con Hồng cháu Lạc, con Rồng cháu Tiên) . Hồng Bàng nghĩa là loài chim nước lớn (chữ hồng ghép với chữ giang là sông nước, và chữ điểu là chim, bang là lớn). Tiên Rồng là một cặp đôi vật tổ theo lối triết lí âm dương, trong đó Tiên được trừu tượng hóa bằng giống chim, cho nên mới có truyền thuyết mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng. Nếu người Kinh cho rằng quả trứng là kết quả của cuộc hôn phối cạn – nước (chim – rắn) thì trong sử thi thần thoại Đẻ đất đẻ nước, người Mường quan niệm Trứng Điếng là trứng giống, trứng nòi, trứng đẻ ra con người, là một trong hàng trăm nghìn trứng do chim Ây cái Ứa đẻ ra, cách đẻ ấy cũng mang tầm vũ trụ thần thiêng đặc biệt: Cà rầm Trứng Điếng đẻ Đá Cài Cà rài Trứng Điếng đẻ ra Đá Cần Giữa đêm đẻ Dạ Kịt Đẻ ra nhộn nhịp các tiếng Nhỏ nhẻ tiếng Đáo (Kinh) Nháo nhác tiếng Ngô, tiếng Lào Lao nhao tiếng Mọi (Mường) Như vậy trong tư duy của người cổ xưa, con chim đã là loài vật thiêng liêng, quan trọng trong cuộc sống của con người. Là nguồn gốc, cha mẹ loài người..Chính vì thế mà chim được thờ nhiều trong đền chùa, và biểu tượng chim xuất hiện trong kiến trúc điêu khắc, hội họa, nghệ thuật: Một trong bốn con vật linh thiêng (tứ linh) của người phương Đông là chim Phượng được thờ trong đình chùa. Tranh tượng hạc và công được xem như biểu tượng của trường thọ, niềm vui, may mắn và hạnh phúc lứa đôi. Chim hạc còn được coi là con vật đưa linh hồn người vào thế giới bên kia " cưỡi hạc quy tiên". Trong những điệu nhảy tôn giáo hiện vẫn còn tồn tại trong đời sống của các dân tộc VN, ta cũng thấy các vũ điệu chim. Tượng chim khá phổ biến trong các trang trí đình chùa, ví dụ như chùa Phật Tích(Bắc Ninh) xây dựng vào thế kỷ XI, trên các cột đá chạm ta thấy có hình đầu người mình chim. Trong các chùa Kh'mer ở Nam Bộ, người ta thờ tượng chim thần Maha Krút, còn ở các chùa Chăm ở miền Trung thờ chim thần Garuda(là một vị thần đầu chim mình người). Hoạ tiết ưa thích nhất của người Việt cổ cũng là các loài chim. Trên các di chỉ khảo cổ tìm được ở các niên đại từ khoảng 2000 đến 4000 năm trước, chúng ta đều thấy có các hình chim. Trên các trống đồng, thạp đồng hay đồ gốm sứ của các di chỉ Đồng Đậu(Vĩnh Phú), Đình Tràng(Hà Nội), Đông Sơn(Thanh Hoá), Miếu Môn(Hà Tây) thường có hình chim Lạc. Văn học dân gian với tư cách là sản phẩm của văn hóa tinh thần và tư duy của người dân từ buổi sơ khai của lịch sử loài người đến nay, nên biểu tượng chim đã xuất hiện từ rất lâu đời trong ca dao, phản ánh con người và thế giới tự nhiên xã hội bên ngoài con người: chim được nhân cách hoá để thể hiện mọi mặt của cuộc sống, từ cái thiện đến cái ác, từ phản diện đến chính diện (những con chim tốt giúp người như trong chuyện "Cây khế", "Tấm Cám" đến chim độc ác hại người trong chuyện"Thạch Sanh"... ) Người Việt xưa có óc quan sát rất tinh tế nên trong kho tàng truyện cổ tích VN đã có nhiều lời giải thích dí dỏm về nguồn gốc và tập tính của các loài chim như"sự tích chim tu hú", "sự tích chim bắt cô trói cột", "sự tích chim thù thì", "gà mượn mào vịt"… Trong văn học dân gian của các dân tộc thiểu số, hình ảnh chim cũng xuất hiển rất nhiều. Người Thái triết lý:"Đời người như ngựa chạy, làm ăn như én bay". Trong dân ca của các dân tộc Tây Nguyên, điển hình là trường ca Đan Sam nổi tiếng ta có thể gặp hình ảnh cánh chim được lặp đi lặp lại như biểu tượng của lòng dũng cảm, tính trung thực và của tự do... Hơn nữa, trong thực tế, nhân dân ta xưa chịu ảnh hưởng của quan niệm‘Vạn vật hữu linh”. Chính vì thế mà hình ảnh chim trong ca cao trở nên rất sinh động và có hồn. Chúng được miêu tả trong sự vận động, đối xứng với sự vận động của con người. Trong mỗi câu ca dao, chim luôn nằm trong mối quan hệ thẩm mĩ với con người, làm tăng thêm sự biểu đạt cảm xúc của chủ thể. Quan trọng, chủ thể ở đây không phải là cái riêng, cái đơn nhất mà là tiếng chung cho cả cộng đồng, thể hiện tình cảm, tâm trạng, thế giới tinh thần của nhân dân, dân tộc. 2.2.2. Biểu tượng chim là sự biểu hiện sinh động hình ảnh cuộc sống đời thường của người dân lao động: Điều làm nên sức sống của văn học dân gian là ở chỗ văn học dân gian nẩy mầm phát triển giữa cuộc sống hàng ngày: “ Nghệ thuật là cuộc sống” và “ cuộc sống cũng là nghệ thuật”. Tính chất của hình ảnh chim trong thực tế cũng là nguyên nhân của việc sử dụng hệ biểu tượng chim trong ca dao. Đất nước Việt Nam là một đất nước giàu có về tài nguyên thiên nhiên, dân tộc Việt Nam là một dân tộc yêu hòa bình. Nhắc đến tên mỗi làng quê Việt Nam, người ta nghĩ ngay đến hình cảnh những cánh chim sải cánh trong bầu trời xanh thanh bình. Đó cũng là lí do khiến hình ảnh trong ca dao có phần nhiều hình ảnh những cánh chim gần gũi thân thuộc với không gian làng quê. Với bản chất tâm hồn giàu có phong phú và nhạy bén, nhân dân luôn mở rộng đón nhận những âm vang của cuộc sống, đó là động lực thúc đẩy họ sáng tạo và xây dựng một hệ biểu tượng chim sinh động trong ca dao. Đối với họ, loài chim cũng mang chức năng thẩm mỹ cao cả, hình ảnh chim trong đời sống là loài vật được tạo hóa ban tặng cho những vẻ đẹp riêng. Chúng là những loài vật ngày đêm vất vả vì kiếm sống (cò, vạc,…), lại là những con vật tự do bay lượn phóng khoáng trong không trung (nhạn, én…), có lúc hát ca líu lo, tụ tập thành đàn, có lúc lẻ loi một mình. Chính vì thế mà chim không còn là loài vật vô tri, mà là biểu tượng của con người, là tâm sự, ước mơ, khát vọng ngàn đời của nhân dân và dân tộc. Tất cả những điều ấy làm cho ca dao trữ tình Việt Nam có thêm những sắc màu mới mẻ, sinh động, qua đó người đọc cảm nhận được chân thực hiện thực xã hội của dân tộc, của lịch sử, và thái độ thẩm mỹ của con người Việt Nam. 2.2.3. Những ảnh hưởng của hệ biểu tượng chim trong thơ ca trung đại và sự dân gian hóa của ca dao Việt Nam: Ca dao dân ca không chỉ chịu ảnh hưởng sâu sắc của đời sống con người mà còn mang một số đặc điểm phong cách của thơ ca trung đại. Và việc sử dụng biểu tượng chim trong ca dao trữ tình Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng rát nhiều của điển tích điển cố văn học trung đại Trung Hoa và Việt Nam. Những biểu tượng như: Loan, phượng, hạc, nhạn, chim xanh - vườn hồng, đàn chim bay…được sử dụng trong ca dao cũng là những biểu tượng quen thuộc trong ca dao Việt Nam. Mỗi loài chim trong văn học trung đại đểu được sử dụng như những mô tip ước lệ nghệ thuật. Khi nghiên cứu thi pháp thơ Đường, F. Cheng nhận xét: “ Hình ảnh chim phượng hoàng, chim siêu phàm tượng trưng cho sự phối ngầu và tính chất diệu kì của cuộc sống..” và “ hình ảnh chim hạc – cốt cách thanh cao của các bậc ẩn sĩ”: Loài hạc là một biểu tượng của Đạo giáo. Loài chim này với dáng vẻ thanh cao, mình phủ lớp lông tuyết trắng xóa là biểu tượng của sự trường thọ và cốt cách cao quý của con người theo quan niệm phương Đông (Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới) đã được biểu hiện thần diệu và đẹp đẽ trong thơ Lý Bạch: Quần điểu bích ma trận Tiêu dao bất kế niên Bát vân tầm cổ đạo Ỷ thụ thính lưu truyền Hoa noãn thanh ngưu ngọa Tùng cao bạch hạc niên … Dịch nghĩa: Núi lô nhô xanh biếc ngút trời Trong chơi không cần kế năm Vén mây tìm con đường cũ Dựa cây nghe tiếng suối chảy Trầu xanh nằm dưới bóng hia ấm áp Hạc trắng ngự trên cành thông cheo leo Lê Nguyễn Lưu dịch Những hình ảnh ước lệ ấy đi vào ca dao lặp đi lặp lại như một cách nói quen thuộc trong ca dao. Biểu tượng xuất hiện nhiều nhất là loan phượng. Trong thơ ca cổ, loan phượng là cặp đôi biểu tượng cho cuộc tình lý tưởng giữa tài tử văn nhân, thì trong ca dao là biểu tượng của khát vọng tình yêu, niềm hạnh phúc sum vầy giữa chàng trai nông dân và cô thôn nữ. Biểu tượng chim hạc tượng trưng cho sự cao quý thanh tao của người quân tử theo đúng mỹ học phong kiến, thì trong ca dao lại tượng trưng cho hình ảnh đẹp của con người, trong đó có người phụ nữ. Biểu tượng chim quyên trong ca dao (vd: Càng trưa càng nắng càng nồng / chim quyên thơ thẩn vườn hồng chờ ai) cũng có nguồn gốc từ điển tích Trung Hoa: Đỗ quyên là tên của một giống chim, còn gọi là chim Đỗ Vũ, Tử Quyên. Tương truyền, vua nước Thục (Thục Đế) tên là Đỗ Vũ, quyến rũ vợ của một người bề tôi là Biết Linh. Biết Linh bắt được, buộc Thục Đế nhường ngôi cho mình và dẫn vợ Biết Linh đi để sống cho trọn mối tình với người đẹp. Nhưng thảm cho Thục Đế, người đẹp bỏ Thục Đế trở về với Biết Linh. Thục Đế buồn tủi, nhớ ngai vàng, nhớ người đẹp, đành chịu chết trong rừng, hóa thành con chim Đỗ Quyên, ngày đêm kêu quốc quốc não nuột, như hồn Thục Đế kêu than nhớ tiếc ngai vàng, oán giận người yêu. Hay biểu tượng chim Việt (vd: Sao thầy mẹ chẳng thương kẻ đào tơ liễu yếu / Để cho ngựa hồ chim Việt / chim Việt đủ đôi / chim vượt đôi nơi ) cũng xuất phát từ câu thơ chữ Hán “ Việt điểu sào Nam chi, Hồ mã tê Bắc phong” (Con chim Việt làm tổ ở cành cây phía Nam, con ngựa Hồ quê phương Bắc hí mỗi khi gió Bắc thổi) Những biểu tượng chim có nguồn gốc từ Nho giáo, Đạo giáo và những hình ảnh biểu tượng có tính ước lệ đi vào trong ca dao qua sự dân gian hóa đã làm giàu có thêm hình ảnh nghệ thuật của thơ ca dân gian, bên cạnh đó làm cho ca dao vừa mang phong cách ngôn ngữ của văn chương bác học vừa mang đậm hồn dân tộc, chan chứa hình ảnh làng quê Việt Nam. CHƯƠNG 3 ĐẶC ĐIỂM HỆ THỐNG BIỂU TƯỢNG CHIM TRONG CA DAO VIỆT NAM 3.1. Sự biến đổi ý nghĩa biểu tượng chim trong ca dao(xét trong phạm vi ngôn ngữ văn học): Bàn về mối quan hệ giữa hai mặt của biểu tượng(cái biểu trưng và cái được biểu trưng), Tz. Todorow đã chỉ rõ: “ Một cái biểu đạt giúp ta nhận thức được nhiều cái biểu đạt hoặc đơn giản hơn…cái được biểu đạt dồi dào hơn cái biểu đạt”, đây chính là sự ứ tràn nội dung ra ngoài dạng biểu đạt của nó”. Sự chuyển hóa từ tầng nghĩa biểu trưng này đến tầng nghĩa biểu trưng khác, sự xếp chồng của những lớp nghĩa biểu trưng là một hiện tượng tất yếu trong quá trình biến đổi ý nghĩa biểu tượng. Sự biến đổi ý nghĩa của biểu tượng trước hết diễn ra trong quá trình chuyển hóa từ bình diện văn hóa(biểu tượng văn hóa) vào bình diện chủ thể (biểu tượng nghệ thuật). Mỗi biến thể trong từng loại hình nghệ thuật, từng tác phẩm cụ thể do sự chi phối của đặc điểm hình thức, chất liệu, mục đích của chủ thể sáng tạo, lại có thể nảy sinh các biến thể ý nghĩa phong phú trên cơ sở những mẫu số chung sẵn có trong đời sống văn hóa cộng đồng. Trong phạm vi ngôn ngữ văn hóa và văn học, sự biến đổi ý nghĩa biểu tượng không thể tách rời ngữ cảnh, điều này cũng nằm trong quy luật biến đổi nghĩa của các từ ngữ “ Một trong những biến đổi ngữ nghĩa là việc nghĩa cũ đẻ ra nghĩa mới trong ngữ cảnh cụ thể nào đó.. (Chafe W.L. Ý nghĩa và cấu trúc ngôn ngữ). Quan niệm của S.Ullmann tiếp tục làm rõ: Kết quả của sự tương tác giữa các yếu tố nhận thức, tình cảm – ý chí, biểu cảm trong những cảnh huống ngữ nghĩa sản sinh ra kết quả là sự biến đổi nội dung khái niệm của từ - biểu tượng (word – symbols). Sự biến đổi ấy được minh chứng cụ thể qua sự xuất hiện của cách dạng biến thể của hệ biểu tượng, và sự nảy sinh các ý nghĩa liên hội, nói cách khác là sự xuất hiện “ trường liên tưởng”. 3.1.1. Những biến thể của hệ biểu tượng chim trong ca dao: Trên cơ sở khảo sát hệ biểu tượng nghệ thuật nói chung và trang phục trong ca dao Việt Nam nói riêng, Ts Nguyễn Thị Ngân Hoa (tạp chí văn học số 10 – 2006) đã đưa ra mô hình tóm tắt quá trình xuất hiện các biến thể từ một biểu tượng nghệ thuật và ta có thể trình bày cụ thể như: Từ - biểu tượng Các biến thể từ ngữ (Hiện thực hóa quan hệ sản sinh từ mẫu gốc đến hệ biểu tượng) Phân hóa Chi tiết hóa Tương đồng Tương phản Giữa các yếu tố phân hóa và chi tiết hóa tồn tại trên cơ sở tương phản về nghĩa Giữa các yếu tố phân hóa và chi tiết hóa có quan hệ tương đồng về nghĩa Một yếu tố trong hệ thống tiếp tục triển khai thành các yếu tố thuộc cấp độ nhỏ hơn Yếu tố trung tâm triển khai thành các yếu tố cùng cấp độ nhưng không hoàn toàn đồng nhất Biến thể kết hợp (Hiện thực hóa quan hệ sản sinh từ bình diện văn hóa đến bình diện chủ thể) Tương tác Cộng hưởng (Biến đổi sắc thái ý nghĩa) (Nảy sinh nghĩa mới) Từ yếu tố gốc nảy sinh biến thể kết hợp theo quan hệ kế cận hay tương đồng về cả nghĩa và tên gọi Những nghĩa mới của từ biểu tượng nảy sinh biến thể kết hợp theo quan hệ tương đồng về nghĩa và tên gọi Từ đó, những biến thể của hệ biểu tượng chim có thể được trình bày như sau: Chim (yếu tố trung tâm) Các biến thể từ ngữ Phân hóa Chi tiết hóa Tương đồng Tương phản Cò, nhạn, cuốc, quyên, vạc, hạc, công, quạ, sáo, đa đa, én, bồ câu (chim cu), oanh, chiền chiện, chèo bẻo… Chim xanh, chim hồng, chim non, chim nhỏ. Phượng hoàng- quạ khoang, phượng hoàng- gà… Thân…,cánh…, đàn…, đàn…, Chim kêu, chim tha mồi, chim chuyền,chim đậu,chim bay, chim lạc bầy, chim đỗ, chim đậu, chim về núi, chim xa tổ, chim nhớ tổ, chim vào lồng… Chim cuốc – quyên, chim đa đa- nhánh đa đa, chim hồng - lưới hồng, chim chậu – cá lồng, loan – phượng, én – nhạn.. Biến thể kết hợp Tương tác Cộng hưởng Cò, nhạn, cuốc, quyên, loan phượng, vạc, hạc, công, quạ, sáo, đa đa, én… Thân…,cánh…, đàn…, đàn…, Chim kêu, chim tha mồi, chim chuyền,chim đậu,chim bay… Bầu trời, mây, lưới, tổ, thiên nhiên,… Khả năng biến đổi ý nghĩa là điều kiện bắt buộc cho sự tồn tại của biểu tượng. Biểu tượng ngôn ngữ nghệ thuật có mối quan hệ mang tính trung gian, liên thông và thẩm thấu tất cả các cấp độ khác, và cũng có quan hệ nội tại, đó là sự liên thông và thẩm thấu giữa những đặc điểm của cái biểu trưng và những giá trị tiềm ẩn của cái được biểu trưng, điều đó là nên sức mạnh gợi mở của ngôn ngữ thơ ca. Ngoài những mối quan hệ trên, còn có mối quan hệ mang tính cấp độ giữa các yếu tố: Mẫu gốc, biểu tượng, hình tượng, hình ảnh và tín hiệu thẩm mỹ. Chính vì thế để tìm hiểu đặc điểm ý nghĩa hệ biểu tượng chim trong ca dao, ta phải dựa trên tính đa nghĩa của những biến thể của biểu tượng qua tác phẩm ca dao cụ thể. 3.1.2. Ý nghĩa của những biến thể từ ngữ trong hệ biểu tượng chim trong ca dao: - Những biến thể được phân hóa: Dựa trên những hình ảnh thực của tự nhiên, người dân lao động Việt Nam quan sát, lý giải và nhận thức để thành những biểu tượng cho con người và những mối quan hệ của con người trong xã hội: Biểu tượng chim quyên: là loài chim xuất hiện dưới dạng đôi cặp, sự xuất hiện đó đánh thức trong lòng người nỗi khát khao tìm cho mình tri ân, tri kỉ nên là biểu tượng của người con trai, con gái đang yêu: Chim quyên lăng líu cành dâu Đêm nằm thăm thẳm canh thâu nhớ chàng Chim quyên láo liếng đường cày Tình thâm nghĩa nặng mấy ngày lại xa Hai ta như cặp chim quyên Dầu khô dầu héo cùng chuyền trên cây Khát thời uống nước bóng cây Đói ăn bông cỏ, thiếp đây vẫn chờ Đôi lúc chim quyên hóa thân vào chàng trai láu lỉnh, nghịch ngợm, mang trong đầu một dụng ý không "sáng sủa". Việc hóa thân của chim quyên vào hành động chàng trai làm sắc thái biểu thị chim quyên thêm sinh động, đa nghĩa: Chim quyên bay đỗ nhành giao Giả đò lơ láo kiếm sâu đỡ lòng Lạy trời cho gió nổi giông Cho người thục nữ mủi lòng ngủ say Biểu tượng chim bồ câu (chim cu): là giống chim hiền, ăn sâu bọ, các thứ hạt, trái cây. Bồ câu tượng trưng cho phe chủ hòa. Chim cu là tượng trưng cho hòa bình: Mù u ba lá mù u Vợ chồng cãi lộn, con cu giải hòa. Hay tượng trưng cho sự thanh bình yên ả: Bồ câu bay thấp bay vào Bay ra cửa phủ bay vào nhà kho. Biểu tượng chim én, nhạn: Là loài chim di cư nên thể hiện nỗi nhớ,niềm hi vọng, và sự đưa tin: Từ khi ăn phải miếng trầu Miếng ăn môi đỏ dạ sầu tương tư Vì người nên phải viết thư Nhờ con chim nhạn đưa thư cho người Viết thư cho én bay về Hoa may én ngậm lời thể cho ta Việt thư cho én đưa qua Cho nhạn đưa tới mẹ cha sinh thành Đặc biệt, trong ca dao có những biểu tượng độc đáo và xuất hiện lặp đi lặp lại là chim khôn và chim xanh, là những biểu tượng được con người cách điệu hóa, nhân cách hóa. Biểu tượng chim xanh: Gọi là chim xanh để đồng hóa con chim với không gian của nó. Màu xanh của sông biển, rừng núi, ruộng đồng, bầu trời, tượng trưng cho vẻ đẹp của con người, đặc biệt là người con gái: Ước gì em là con chim xanh Ðậu trên vành nón để anh được gần. Chim xanh ăn trái xoài xanh Ăn no tắm mát lên cành nghỉ ngơi Nghỉ rồi hồi vế hôm qua Chờ trăng trăng lặn chờ hoa hoa tàn Đầu làng có con chim xanh Bay về Nam ngạn đón anh bắc cầu Biểu tượng chim khôn: tính chất”khôn” của con chim là để nói lên quan niệm nhân sinh và quan niệm thẩm mỹ của người xưa.Đó là vẻ đẹp của người con gái: Chim khôn nói tiếng rảnh rang Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe Người xưa quan niệm giọng nói thể hiện tính cách con người, và có tâm lý chung là thích những gì dịu nhẹ, ôn hòa. Chính vì thế giọng nói dịu dàng là kết quả của một đức tính tốt đẹp. Bên cạnh đó lại có những quan niệm chịu ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến: Chim khôn lụa nhánh chọn cành Gái khôn lựa chốn trai lành gửi thân Chim khôn đậu nóc nhà quan Trai khôn tìm vợ gái khôn tìm chồng Chim khôn lánh bẫy lánh đò Người khôn lánh chỗ ô đồ mới thôi.... “Chim”ở đây đã được đặt trong nhiều mối dây liên hệ phức tạp như chính bản thân chúng khi tồn tại trong đời sống tự nhiên. Từ cách làm này, dân gian đã tinh tế phát hiện ra những nét tương đồng giữa thế giới các loài hoa và thế giới con người, từ đó tương ứng cho nó những ý nghĩa biểu tượng cho thế giới con người. Thế giới con người phức tạp phong phú nên những hình ảnh biểu tượng cũng vô cùng phong phú đa dạng. Bên cạnh đó, cái làm nên sự đa dạng cho ý nghĩa biểu tượng chim còn là nhờ con mắt nhìn chi tiết, cụ thể, sắc bén theo đặc điểm hoạt động cũng như bộ phận cơ thể của loài vật này. - Những biến thể được chi tiết hóa: Chim biểu trưng cho con người sống giữa cuộc đời rộng lớn, đầy biến động.Chính vì thể mà hình ảnh cánh chim, chim bay có sức biểu cảm cao. Trong đó, cánh chim luôn là biểu tượng của sự tự do và của mơ ước lớn lao của con người: Ước gì có cánh như

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDiem cao day nhe.doc