MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu 1
Chủ nghĩa tư bản ngày nay chính là sự biểu hiện của chủ nghĩa tư bản độc quyền 2
I. Sự biến đổi về lực lượng sản xuất. 2
1. Sự biến đổi về các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất. 2
2. Sự biến đổi về cơ cấu lao động. 4
II. Sự điều chỉnh về quan hệ sản xuất. 7
1. Sự biến đổi về quan hệ sở hữu. 7
a. Chủ sở hữu. 7
b. Hình thức sở hữu. 10
2. Sự điều chỉnh về quan hệ tổ chức, quản lý. 12
3. Sự điều chỉnh về quan hệ phân phối. 15
III. Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản hiện đại. 19
1. Nguyên nhân của sự điều tiết . 19
2. Mục tiêu và cơ chế điều tiết 19
IV. Sự biến đổi trong hệ thống kinh tế thế giới của chủ nghĩa tư bản ngày nay. 22
1. Ảnh hưởng của sự phân chia thế giới về kinh tế. 22
2. Vai trò của các công ty xuyên quốc gia. 23
3. Quân sự hoá kinh tế. 24
4. Thách thưc của chủ nghĩa tư bản ngày nay. 24
Tài liệu tham khảo 25
26 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1910 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa tư bản ngày nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phối các quan hệ khác trong quan hệ sản xuất. Dưới tac động của cuộc cách mạnh khoa học công nghệ quan hệ sở hữu có sự thay đổi rất lớn về khía cạnh chủ sở hữu ,đối tượng sở hữu và hình thức sở hữu.
a. Chủ sở hữu.
Ngày nay, trong một công ty, tập đoàn không chỉ đơn thuần chỉ có một quan hệ chủ sở hữu mà là có rất nhiều chủ cùng sở hữu.Nền sản xuất của các nước tư bản ngày càng mở rộng quy mô vượt ra khỏi biên giới quốc gia. Quá trình toàn càu hoá ,quốc tế hoá nền sản xuất đòi hỏi phải có nguồn vốn khổng lồ, vượt khả năng của từng công ty, tập đoàn. Quá trình cổ phần hoá cùng với sự gia tăng tương ứng của các cổ đông làm cho chủ sở hữu tư bản cổ điển mất đi ưu thế và mất dần địa vị quyết định trong xã hội. Bởi các công ty, tập đoàn phải dựa vào sự đầu tư của rất nhiều người.
Mặt khác, phải thắng trong cạnh tranh các tập đoàn không còn cách nào khác là phải sử dụng vốn của nhiều người trong mọi tầng lớp xã hội để bảo đảm hoạt động mới hoàn thiện kỹ thuật-công nghệ, sử dụng hết tiềm năng sáng tạo của người lao động...
Trong quá trình đó, người công nhân cũng là chủ sở hữu ( với tư cách là cổ đông). Điều đó cho ta thấy khả năng vay vốn làm xuất hiện xu thế phi cá thể hoá sở hữu tư nhân lớn.
Như vậy trong xí nghiệp, công ty, các tập đoàn có cả nhà tư bản lớn, nhà tư bản nhỏ và công nhân cùng tham gia và đồng sở hữu với tỷ lệ khác nhau. Việc người công nhân cùng sở hữu với các nhà tư bản là xu hướng “ dân chủ hoá nền kinh tế” và điều này làm cho người công nhân vừa là người làm thuê vừa là chủ sở hữu. Nó làm cho trong xi nghiệp có tính dân chủ. Tuy nhiên sở hữu của công nhân còn chiếm một tỷ lệ nhỏ không đáng kể. Đây chính là một biện pháp để chủ nghĩa tư bản thực hiện sự quản lý của mình và phương pháp thu hút sự quan tâm của người lao động đối với công ty. Nhưng đó cũng không phải là do các nhà tư bản tự nguyện chuyển quyền sở hữu cho người lao động và cũng không phải là “cuộc cách mạng về sở hữu tư liệu sản xuất”, đây chẳng qua là sự thích nghi mới trong điều kiện mới của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, vừa là thu hút vốn đầu tư từ nhiều nguồn trong xã hội, kể cả nguồn vốn nhàn rỗi trong dân, vừa là biện pháp làm dịu mâu thuẫn giữa nhà tư bản với công nhân . Đây là đặc trưng cơ bản của sự thay đổi chủ sở hữu của chủ nghĩa tư bản ngày nay.
Trong điều kiện hiện nay, nhiều vấn đề kinh tế đã vượt ra khỏi khả năng của các công ty.Nhiều tiềm năng, nguồn lực chưa phát huy một cách có hiệu quả đúng đắn với cái vốn có của nó mà bản chất của chủ nghĩa tư bản là bóc lột. Do vậy hình thức chủ sở hữu nhà nước mới bảo đảm được hay nói một cách khác đó là chủ sở hữu nền kinh tế quốc dân mà đại diện của nó chính là chính quyền nhà nước tư sản.
Đối tượng sở hữu cũng có sự biến đổi. Trong chủ nghĩa tư bản ngày nay đối tượng sở hữu không còn bị giới hạn trong việc sở hữu tư liệu sản xuất mà là sở hữu về mặt giá trị (dưới nhiều hình thức: như vốn tự có, vốn cổ phần, vốn cho vay, trí tuệ...), sở hữu trí tuệ, sở hữu các công trình khoa học, bằng phát minh sáng chế, kiểu dáng công nghiệp..., các hình thức này ngày càng trở nên quan trọng và mang tính quyết định đối với tăng trưởng kinh tế của chủ nghĩa tư bản ngày nay.
Trong các hình thức trên, sở hữu trí tuệ có vai trò đặc biệt quan trọng, vì chính trí tuệ là nguồn gốc sinh ra mọi của cải xã hội, đặc biệt là trong điều kiện hiện nay, khi nền kinh tế trí tuệ đang thay thế dần nền kinh tế cổ điển.theo C.Mác, lao động tạo ra giá trị không chỉ bao hàm lao động thể lực mà còn cả lao động trí tuệ, lao động khoa học-kỹ thuật và cả lao động quản lý...bởi vì thời gian lao động xã hội cần thiết thay đổi theo mỗi sự thay đổi trong sức sản xuất của lao động, được quyết định bởi “ trình độ khéo léo trung bình của người công nhân, mức độ phát triển của khoa học và trình độ áp dụng khoa học vào công nghệ, sự kết hợp xã hội của quá trình sản xuất” và theo đà phát triển của đại công nghiệp việc tạo ra của cải thực sự ít phụ thuộc vào thời gian lao động và số lượng lao động hao phí hơn là phụ thuộc vào những tác nhân được đưa vào vận dụng trong suốt thời gian lao động và bản thân những tác nhân này đến lượt mình lại tuyệt đối không tương ứng với thời gian lao động trực tiếp sản xuất ra chúng. Mà nói đúng hơn, chúng tuỳ thuộc vào trình độ chung của khoa học và bước tiến bộ của kỹ thuật, hay là phụ thuộc vào việc vận dụng khoa học ấy vào sản xuất. ở các nước tư bản đã thực hiện sự kích hoạt hoạt động nghiên cứu, phát minh, sáng tạo công nghệ. Tài sản đã được sản xuất ra quan trọng nhất hoá ra lại không nhìn thấy và được cất giữ trong cá nhân .
Nói đến sở hữu người ta không chỉ quan tâm đến mặt pháp lý của nó, mà phải xem xét đến mặt hiệu quả kinh tế-xã hội của nó, tức là xem xét đến mặt kinh tế của sở hữu.Ngày nay, ở các nước phát triển đã có những bước ngoặt lớn về công nghiệp và kinh tế-kỹ thuật, trong điều kiện sản xuất hiện đại, sản xuất theo đơn đặt hàng, liên kết sản xuất với khâu tiêu dùng cuối cùng. Những công nghệ cao cần những người công nhân hiện đại với phẩm chất mới được hình thành và chiếm tỷ lệ ngành càng cao.
Những người công nhân có trình độ chuyên nghiệp hoá cao được tách ra và không tham dự trực tiếp vào quá trình sản xuất, đứng trên quá trình sản xuất trực tiếp mà họ làm việc với tất cả các yếu tố của quá trình sản xuất qua các thiết bị điện toán điều khiển ở đó họ phải xư lý hàng loạt các thông số có quan hệ qua lại phức tạp. Những người công nhân đó là những người chủ sở hữu kinh tế tiềm năng. Những tiềm năng về trình độ, tri thức khoa học,thái độ, lòng mong muốn lao động sáng tạo là thuộc về công nhân, một hình thức sở hữu mới là sở hữu kinh tế tiềm năng được hình thành. Loại sở hữu này chỉ thực hiện được một khi bản thân chủ sở hữu phát huy đầy đủ khả năng, phẩm chất của mình khi nó được đặt trong môi trường tập thể và mang tính tập thể cao.
b. Hình thức sở hữu.
Sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất bao gồm sở hữu tư bản tư nhân và sở hữu của những người sản xuất nhỏ trong đó sở hữu tư bản tư nhân giữ địa vị thống trị trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Ngày nay, hình thức sở hữu này có sự biến đổi lớn , không còn thuần tuý là sở hữu tư nhân, tính độc lập thuần tuý của nó đã bị mất dần và thay thế vào đó là hình thức sở hữu hỗn hợp. Hình thức sở hữu hỗn hợp được hình thành và tồn tại dưới các hình thức sở hữu tập đoàn tư nhân, sở hữu xã hội và sở hữu tập thể, cũng như sở hữu liên hợp giữa nhà nước và các nhà tư bản .
Hình thức sở hữu độc quyền vẫn tồn tại nhưng có sự biến đổi, nó không còn là độc quyền thuần tuý mà là ở dạng hỗn hợp dưới các hình thức sở hữu tư bản tài chính, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, các công ty xuyên quốc gia. Trước nhất đó là hình thức sát nhập giữa các xí nghiệp độc quyền, hình thức này ngày nay đã mang tính toàn cầu và càng thành các tập đoàn xuyên quốc gia những công ty khổng lồ. Thứ hai, là do các xí nghiệp đã sử dụng phương thức phát hành trái phiếu để gom vốn, do ngân hàng đầu tư hoặc bảo lãnh để gắn kết các xí nghiệp lại thành những tập đoàn tài chính lớn. Thông qua việc ngân hàng đứng ra làm uỷ thác phát hành cổ phiếu của các xí nghiệp, ngân hàng sẽ lắm được tình hình tài chính các quyết sách kinh doanh và thực hiện quyền chi phối, kiểm soát, chia sẻ rủi ro và lợi ích chung, đã có tác động lớn tới các doanh nghiệp công thương nghiệp, biến các doanh nghiệp chức năng này thành những thành viên cấu thành tư bản tài chính. Nó là đặc trưng cơ bản của hình thức sở hữu tư bản tài chính của chủ nghĩa tư bản hiện nay.
Một hình thức sở hữu tư bản khác cần khảo cứu là sở hữu độc quyền nhà nước. Theo Lenin: sự dung hợp giữa tư bản độc quyền với nhà nước là cơ sở cho sự xuất hiện sở hữu độc quyền nhà nước. Do khi chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước ra đời thì cũng xuất hiện sở hữu độc quyền nhàn nước. Đây là hình thức vận động mới của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự thay đổi cục bộ cả ba mặt của quan hệ sản xuất.
Sở hữu độc quyền nhà nước là “ sở hữu tập thể của giai cấp tư bản độc quyền” mà vốn tư bản đó được tạo ra bằng nhiều con đường khác nhau như: thuế, công trái, huy động vốn tiết kiệm, tích luỹ từ các công việc kinh doanh của nhà nước và bằng con đường ngân sách phân phối lại thu nhập quốc dân trong đó ngân sách nhà nước và ngân hàng là con đường quan trọng nhất.
Sở hữu độc quyền nhà nước được hình thành bằng con đường quốc hữu hoá do nhà nước tiến hành quốc hữu hoá các ngành công nghiệp và các cơ sở kinh doanh quan trọng, Anh và pháp đã tiến hành quốc hữu hoá ở các ngành công nghiệp than đá, điện lực, đường sắt, một phần công nghiệp luyện kim đen và một số các ngân hàng quan trọng, cơ quan bảo hiểm.
Vai trò của sở hữu độc quyền nhà nước: nó là một công cụ có vị trí trọng yếu để nhà nước can thiệp vào nền kinh tế để tạo điều kiện thuận lợi cho sở hữu tư bản tư nhân tự do phát triển. Hình thức sở hữu độc quyền nhà nước là một hình thức xã hội của sở hữu phù hợp với tính chất xã hội hoá của sản xuất, là một cách thức giải quyết mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá của sản xuất với hình thức chiếm hữu hoá tư nhân tư bản chủ nghĩa đây là một hình thức vận động mới của chủ nghĩa tư bản ngày nay.
Sở hữu độc quyền xuyên quốc gia được hình thành do quá trình tích tụ và tập trung sản xuất đựợc đẩy mạnh trong điều kiện quốc tế hoá đời sống kinh tế và cuộc cách mạng khoa học công nghệ làm tiền đề cho các tổ chức độc quyền vươn ra khỏi biên giới quốc gia. Đó cũng chính là hình thức mang tính chất khách quan do tác động của quá trình xã hội hoá sản xuất dưới hình thức quốc tế hoá trong điều kiện tư bản.
Tóm lại:
Sự biến đổi về quan hệ sở hữu trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa để thích ứng với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất đã có tác động trở lại nhất định đến sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tuy sự tác động này có hạn chế song đây là quá trình mang tính khách quan và là xu thế vận động của chủ nghĩa tư bản ngày nay. Đồng thời sự biến đổi của quan hệ sở hữu cũng đã đặt ra những vấn đề mới đòi hỏi quan hệ quản lý và phân phối phải có sự biến đổi tương ứng
2. Sự điều chỉnh về quan hệ tổ chức, quản lý.
Quan hệ quản lý nói lên địa vị của con người trong quá trình sản xuất, xuất hiện trong quá trình sản xuất.
Cùng với những biến đổi về quan hệ sở hữu, hình thức tổ chức và cơ chế quản lý cũng có sự biến đổi theo. Những hình thức tổ chức quản lý mới đến lượt nó vừa mang lại hiệu quả cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, xí nghiệp và cả nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, vừa có tác động củng cố, thúc đẩy quan hệ sở hữu ngày càng phù hợp với sự phát triển cao của lực lượng sản xuất .
Sự biến đổi về hình thức tổ chức quản lý trong nền kinh tế của chủ nghĩa tư bản đã diễn ra cả trong lĩnh vực vi mô và vĩ mô, từ trong các công ty, xí nghiệp, đến họat động quản lý của nhà nước tư sản.
Trên cơ sở những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin, tự động hoá như các thiết bị điều khiển số hoá, thiết kế và chế tạo với sự trợ giúp của máy tính điện tử, các hệ thống sản xuất linh hoạt, người máy... Phương thức tổ chức quản lý sản xuất vật chất có sự thay đổi từ sản xuất lớn hàng loạt sang quản lý tổ chức theo loạt nhỏ hay đơn chiếc đáp ứng nhu cầu thị hiếu đa dạng của khách hàng và đa dạng hoá các sản phẩm. Thực hiện tổ chức quản lý từ xa để sản xuất trên diện rộng ở nhiều vùng khác nhau trong những thời điểm khác nhau. Nền kinh tế mang tính chất toàn cầu và hoạt động như một đơn vị kinh tế cấp toàn cầu, vì vậy hoạt động tổ chức quản lý cũng mang tính quốc tế hoá, toàn cầu hoá. Tất cả những biến đổi trên cho ta thấy việc tổ chức quản lý sản xuất và hoạt động kinh tế đã dịch chuyển từ kiểu đại trà sang kiểu sản xuất loạt nhỏ ngày càng linh hoạt, cũng như sự dịch chuyển từ các tổ chức có quy mô lớn liên kết theo chiều dọc sang phi liên kết theo chiều dọc và sang các mạng lưới theo chiều ngang giữa các đơn vị kinh tế trong và ngoài nước.
Mô hình tổ chức quản lý của thể chế này có hai loại. Theo quá trình nằm ngang và theo kiểu “tế bào sản xuất” :
Mô hình tổ chức quản lý theo quá trình nằm ngang được xây dựng nhằm khắc phục những khuyết tật của kiểu quản lý truyền thống, giảm bớt nhiều tầng cấp trung gian, chuyển từ việc lấy chức năng công việc làm hạt nhân sang quá trình làm hạt nhân để tổ chức nhân viên. Nội dung cơ bản của kết cấu tổ chức theo quá trình nằm ngang là việc tập hợp những viên chức có kỹ năng khác nhau vào một “tế bào sản xuất” để họ thấy được mục tiêu của một “ quá trình tác nghiệp”. Từ đó họ tự quản lý sản xuất phát huy cao độ tinh thần hợp tác và ưu thế của một tập đoàn hoàn chỉnh để giành thắng lợi trong cạnh tranh. Mô hình này có tác dụng kiểm tra và loại bỏ được mọi hoạt động không làm tăng giá trị sản phẩm, kích thích thi đua hợp tác nhân viên, tăng khả năng tiếp xúc, cuốn khách hàng mang hiệu quả kinh tế cao.
Mô hình kinh tế tổ chức quản lý theo kiểu “ tế bào sản xuất” là kiểu tổ chức quản lý trong đó công nhân được chia ra từng ca, kíp nhỏ có thể chế tạo, kiểm tra và hoàn thành toàn bộ sản phẩm. Mỗi công nhân có thể làm nhiều việc và mỗi tế bào phải chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm của mình. “tế bào sản xuất” là một “quá trình hẹp” nhưng lại rất linh hoạt, hiệu quả cao, đáp ứng được yêu cầu thay đổi kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm của khách hàng một cách nhanh chóng đáp với sự biến động mau lẹ của thị trường. Mỗi tế bào sản xuất một sản phẩm khác nhau, nếu sảy ra rủi ro thì chỉ ảnh hưởng tới tế bào “ đương sự”, tránh được rủi ro cho toàn xí nghiệp. Mô hình tổ chức quản lý này đem lại năng suất chất lượng hiểu hơn.
Hai mô hình tổ chức này nhằm phát huy nguồn lực con người- đó là hệ thống tổ chức sản xuất lấy con người làm trung tâm, định hướng vào loại nhân lực có trình độ cao trong quá trình sản xuất, bồi dưỡng kiến thức và nâng cao trình độ chuyên môn một cách liên tục và có hệ thống đội ngũ công nhân năng động và cách thức tổ chức linh hoạt đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn cả trang thiết bị mới hiện đại. Việc hoàn thiện công tác quản lý con người mang lại tác động mãnh mẽ hơn nhiều về mặt thành tựu so với việc mau sắm thiết bị kỹ thuật tiên tiến từ các máy công cụ điều khiển.
Để nâng cao hiệu quả công tác, các xĩ nghiệp lớn đang cải tiến cơ chế quản lý trước đây là phân công ngành quá chi tiết, quá nhiều tầng nấc...các xĩ nghiệp đã lập ra giám đốc tri thức hoặc chủ quản thông tin nhằm tăng cường công tác thông tin cũng như công tác nghiên cứu khoa học và đạo tạo. giám đốc cấp trên đi sâu vào cơ sở, tìm hiểu tình hình sản xuất kinh doanh phát huy tính chủ động của các ngành, giảm bớt sự can thiệp trực tiếp, từ đó làm cho công ty chuyển từ “ quản lý kiểu gia chưởng” thành công việc chung của bạn hàng.
Các cuộc cải cách về tổ chức và quản lý xí nghiệp của các nước tư bản chủ nghĩa phát triển nhằm thích ứng yêu cầu chuyển sang thông tin hoá hiện nay vẫn ở giai đoạn mò mẫm chưa được định hình. Nhưng chỉ có cải cách mới có lối thoát, điều này đã trở thành nhận thức chung của mọi người. Hơn nữa có một số xí nghiệp thông qua cải cách, năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh thực tế có được nâng cao. Xét từ ý nghĩa này, những cải cách và sáng tạo của các xí nghiệp tư bản chủ nghĩa là một bước tiến bộ. Nhưng tính chất tư bản chủ nghĩa của xí nghiệp không hề thay đổi. Không những thế, mức độ lợi nhuận của các xí nghiệp lớn thu được qua cuộc cải cách này còn tăng lên. đồng thời, mặc dù thu nhập tiền lương của công nhân, đặc biệt là công nhân kiến thức và nhân tài chuyên môn cũng được nâng cao, nhưng mức độ được nâng cao rất ít. điều đó cũng có nghĩa là giá trị mà lao động của công nhân tạo ra phần lớn rơi vào tay các tập đoàn tư bản lớn. Mặc dù công nhân được giải phóng khỏi máy móc và dây chuyền sản xuất nhưng lại rơi vào mạng lưới vi tính; mặc dù họ được khuyến khích phát huy cao độ tinh thần chủ động và tinh thần sáng tạo, nhưng thành quả lao động sáng tạo của họ lại bị bọn tư bản chiếm đoạt nhiều hơn, quan hệ bóc lột và bị bóc lột trong nội bộ xí nghiệp bị che đậy một cách khéo léo hơn bởi phương thức quản lý và văn hoá xí nghiệp.
Sự xuất hiện của trí thức khoa học-công nghệ cao đã thúc đẩy sự ra đời nhanh chóng các mô hình chiếm lĩnh và khai thác thị trường quốc tế. Đó là sự quản lý tổng hợp thông qua máy vi tính một loạt những hoạt động sản xuất từ khâu đầu đến khâu cuối của quá trình sản xuất sản phẩm.
Cùng với sự biến đổi mô hình quản lý của các xí nghiệp,c ông ty, tập đoàn trong những thập kỷ qua, vai trò của tư bản tài chính và nhà nước tư sản trong quá trình quản lý, chi phối hoạt động kinh tế xã hội của chủ nghĩa tư bản là rất to lớn. Sự biến đổi về kết cấu tổ chức quyền lực là dựa trên sự biến đổi kết cấu sở hữu. ngày nay kết cấu mang tính gia tộc cơ chế thống trị thông qua chế độ tham dự được thay thế bằng kết cấu tập trung kiểu mạng lưới cơ chế uỷ nhiệm.
3. Sự điều chỉnh về quan hệ phân phối.
Do sự thay đổi các đối tượng trong quan hệ sản xuất nên quan hệ phân phối cũng có sự thay đổi theo, nhưng yếu tố trực tiếp là do sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới sự tác động của khoa học công nghệ.
Quan hệ phân phối nó trực tiếp thực hiện lợi ích kinh tế của các cá nhân tham gia vào sản xuất.
Trước hết là sự thay đổi quan hệ phân phối tư bản chủ nghĩa trước kia, nguyên tắc tuyệt đối quyết định quá trình phân phối lợi ích kinh tế là theo tỷ lệ khối lượng tư bản và khối lượng sức lao động mà các chủ thể bỏ ra. Quan hệ phan phối này không tính đến vai trò sáng tạo của sức lao động trong quá trình sản xuất ra giá trị mới cho xã hội, do đó ai nắm trong tay khôi lượng tư bản lớn là quyết định mức phân phối và thu được mức lợi ích cao hơn; người chỉ có duy nhất sức lao động để bán thì ngày càng nghèo đi, còn những người không bán được sức lao động của mình thì sẽ bị gạt ra ngoài nề xã hội. Những người bán sức lao động và những người không có điều kiện, khả năng bán sức lao động lại chiếm ở đại bộ phận dân cư là bộ phận tiêu dùng chủ yếu quyết định khối lượng cầu trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Nguyên tắc phân phối lợi ích này đã không khuyến khích tạo điều kiện để tiêu dùng. Cho nên nền sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn vận động trong trạng thái mất cân đối giữa sản xuấtc và tiêu dùng đã dẫn đến tình trạng khủng hoảng và mất ổn định chính trị, xã hội. Chủ nghĩa tư bản ngày nay với vai trò của nhà nước , tư bản độc quyền đã thực hiện sự điều chỉnh phân phối lợi ích kinh tế giữa các chủ thể của nền kinh tế. Nguyên nhân là do nhiều chủ thể tham gia vào sản xuất kinh doanh trên thị trường nên phải có sự tương quan giữa các lợi ích của các chủ thể có quan hệ chằng chịt, xoắn quện vào nhau, phụ thuộc lẫn nhau. Trong đó tương lợi ích giữa lao động và nhà tư bản là cơ bản và chủ yếu để thực hiện bản chất xã hội của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Cơ cấu chi tiêu của người công nhân được tăng lên đáng kể do đã thực hiện chủ trương kích cầu bằng cách nâng cao tiêu dùng và tăng đầu tư, việc nâng cao tiền lương và cải thiện đời sống cho công nhân không những không tổn hại đến lợi nhuận của các nhà tư bản mà nó còn có lợi cho quá trình tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa, làm dịu mâu thuẫn giữa tư bản va lao động, thúc đẩy sản xuất lợi nhuận cho nhà nước tư bản, giữ môi trường ổn định củng cố chính trị. Tuy cơ cấu chi tiêu của người công nhân đáng kể nhưng dù sao người lao động cũng chỉ nhận được phần V còn nhà tư bản nhận được phần m và phần độc quyền .
Cách mạng khoa học công nghệ không những tạo ra tiền đề để nâng cao sản xuất mà còn tạo cơ sơ vật chất để nâng cao mức sống của người lao động. Thực tế tại các nước tư bản phát triển cho thấy tốc độ tăng lương thực tế của người lao động nhanh hơn tốc độ tăng giá. Cùng với việc tăng lương thì đời sống của công nhân cũng được nâg cao làm cho kết cấu tiêu dùng của công nhân có sự thay đổi lớn, tỉ lệ chi cho ăn, mặc giảm xuống , chi cho cải thiện đời sống tăng lên . Việc sử dụng hàng tiêu dùng lâu bền đều tăng lên và được cải thiện rất nhiều. Nhưng tương quan giữa việc nâng cao chất lượng cuộc sống của người công nhân với việc nâng cao khối lượng lợi nhuận của nhà tư bản là tương quan cùng chiều nhưng không cùng mức độ. Thu nhập của nhà tư bản tăng nhanh hơn thu nhập thực tế của người lao động.
Như vậy, mặc dù đời sống của công nhân có được nâng lên, nhưng chênh lệch về thu nhập và tài sản giữa công nhân và tư bản càng tăng. Việc tăng lương thực tế, tăng mức sống của công nhân chỉ là nhằm tăng lên mức cầu hiệu quả có lợi cho quá trình tái sản xuất của chủ nghĩa tư bản mà thôi. Do vậy trong lòng của chủ nghĩa tư bản vẫn chứa đựng xung đột gay gắt, vẫn chứa đựng khả năng khủng hoảng, đòi hỏi nhà nước phải trực tiếp tham gia vào quả trính phân phối lợi ích.
Điều chỉnh quan hệ lợi ích của nhà nước được diễn ra bắt đầu từ những tác động vào thị trường sức lao động, thông qua quan hệ mua bán giữa người bán ( người lao động) và người mua ( nhà tư bản). đây là thị trường luôn biến động bởi mối tương quan giữa nhà tư bản và người lao động, giữa giới chủ và người thợ, là mối quan hệ vừa thống nhất vừa mâu thuẫn không thể thay thế cho nhau được. đòi hỏi nhà nước bằng cách quy định các mức tối thiểu, độ dài ngày lao động, số ngày nghỉ việc trong năm, quy tắc sa thải, quy chế làm việc trong doanh nghiệp, phương tiện bảo hộ; bằng các luật và các quy định pháp luật khác nhau.
Sự can thiệp của nhà nước còn nhằm vào việc điều chỉnh nguồn cung cấp và nhu cầu sử dụng sức lao động. Việc điều chỉnh nguồn cung cấp sức lao động được chú ý được nâng cao cả về số lượng, chất lượng lao động đáp ứng với yêu cầu phát triển của quá trình hiện đại hoá của các ngành, lĩnh vực kinh tế, sự phát triển của khoa học công nghệ. Nhà nước thực hiện sự đầu tư của mình nhằm nâng cao tri thức , trình độ cho người lao động thông qua việc tăng cường đầu tư và mở rộng các hình thức giáo dục đào tạo, thực hiện xã hội hoá các hình thức giáo dục, thực hiện xã hội hoá các hình thức giáo dục, giảm thuế doanh thu liên quan đến chi phí đào đạo, có chính sách ưu đãi, kích thích đội ngũ giáo viên nâng cao tay nghề và gắn đào tạo với sản xuất. việc điều chỉnh nhu cầu sử dụng sức lao động của nhà nước hướng vào việc kích thích tổng cầu về sức lao động , tức là kích thích việc mở rộng sản xuất , tạo việc làm để thu hút trở lại đội ngũ lao động bị sa thải. Các giải pháp tập trung chủ yếu vào các hướng sau: ổn định và phát triển kinh tế, kích thích tiêu dùng, khuyến khích tăng đầu tư đặc biệt là đầu tư sản xuât nhỏ và vừa, nâng cao công suất máy móc thiết bị tạo điều kiện giảm thời gian lao động, qua đó mà giảm nhịp độ giãn thợ.
Những biến đổi trong quan hệ lợi ích trong chủ nghĩa tư bản hiện đại đã và đang đem lại những cải thiện mới đối với đời sống người lao động và những tiến bộ xã hộ nói chung. Sở dĩ có sự tăng thêm đó thì nói chung vì sự trao đổi sản phẩm diễn ra ngày càng nhiều hơn, sự trao đổi này làm cho dân cư thành thị và ở nông thôn, dân cư ở các khu vực địa lý khác khác vv...cũng tiếp xúc với nhau nhiều hơn. Sở dĩ có sự tăng thêm đó lại còn là vì mật độ và tập trung đông đúc giai cấp công nhân làm cho trình độ giác ngộ và ý thức về nhân phẩm của giai cấp đó được nâng cao khiến họ có thể đấu tranh thắng lợi chống những xu hướng tham tàn của chế độ tư bản chủ nghĩa. Nhu cầu chính đáng đó đã được thể hiện rõ ràng trong lịch sử và cũng chính trong quá trình lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản cho thấy việc chủ nghĩa tư bản thực hiện điều hoà lợi ích, nâng cao mức sống của người lao động là hiện tượng biểu hiện thích nghi mới nhằm xoá nhoà bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, làm dịu bớt những mâu thuẫn vốn có trong lòng của chủ nghĩa tư bản.
Trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, quan hệ sản xuất đã có sự điều chỉnh. đây là sự điều chỉnh theo hướng xã hội hoá sản xuất ngày càng tăng, là cách thức giải quyết mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất với hình thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Quan hệ sản xuất được giải quyết theo hướng xã hội hoá ngày càng nhiều, quản lý dân chủ hơn, phân phối lợi ích đã chú ý tới người lao động và được coi là nguồn lực chủ yếu của sự phát triển xã hội. Đặc biệt, hình thức tư bản độc quyền nhà nước là hình thức vận động mới của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, là kết quả của quá trình xã hội hoá sản xuất là “ sự chuẩn
bị vật chất đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội”. Sự điều chỉnh này là một quá trình khách quan buộc các nhà tư bản và nhà nước tư sản phải đưa ra những hình thức quan hệ sản xuất thích hợp, vừa là để thúc đẩy nền kinh tế xã hội phát triển, đảm bảo lợi ích của tư bản độc quyền, vừa là để làm dịu bớt những mâu thuẫn căng thẳng xã hội, duy trì sự phát triển của chủ nghĩa tư bản.
III. Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản hiện đại.
1. Nguyên nhân của sự điều tiết .
Đối phó với tình hình biến động về kinh tế chính trị-xã hội đang diễn ra ở trong và ngoài nhà nước tư bản. Cụ thể là khôi phục nền kinh tế sau chiến tranh để chạy đua kinh tế và chuyển hướng hoạt động kinh tế sang hoạt động phục vụ quốc phòng để giành ưu thế trong quân sự quốc phòng, và chủ nghĩa xã hội, giải quyết những mâu thuẫn luôn luôn nảy sinh trong quá trình tái sản xuất, đặc biệt là khủng hoảng thất nghiệp va những khuyết tật của nền kinh tế thị trường.
Nguyên nhân sâu xa của sự điều tiết kinh tế bắt nguồn từ sự phát triển nhanh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35673.doc