PHẦN 1: ĐẤT NƯỚC NHẬT BẢN 1
I.KHÁI QUÁT VỀ NHẬT BẢN 1
1.Vị trí địa lý 1
2. Khí hậu 2
II. KINH TẾ CHÍNH TRỊ 2
1. Tình hình chính trị 2
2. Kinh tế Nhật Bản 3
. III. TÔN GIÁO 5
PHẦN 2:CON NGƯỜI NHẬT BẢN 7
I. THÓI QUEN ĐỜI SỐNG 7
II.THÓI QUEN TRONG GIAO TIẾP 8
III XU HƯỚNG TIÊU DÙNG DU LỊCH CỦA NGƯỜI NHẬT BẢN 11
PHẦN 3:TÌNH HÌNH DU LỊCH 13
I.HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TẠI NHẬT BẢN 13
1. Kế hoạch chào đón thế kỷ 21 ( Welcome Plan 21). 13
2. Xúc tiến đăng cai các Hội nghị quốc tế: 14
3.Những điểm đến lý tưởng của Nhật 15
1. Những di chỉ Phật giáo ở vung Horyu-ji
2. Himeiji-jo : Lâu đài Sếu Trắng 15
3. Những cây cổ thụ vùng Yakushima. 15
4. Dãy núi Shirakami-shanchi 15
5. Cố đô Kyoto 16
6. Những làng cổ ở Shirakawa-go và Gokayama 1
7. Đài tưởng niệm hòa bình ở Hiroshima 16
8. Đền thờ Itsukushima 16
9. Quần thể di tích Nara 16
10. Đền và chùa ở Nikko
11. Cụm di tích Gukusu 17
12. Đường hành hương trên dãy Kii 17
II.DU LỊCH NƯỚC NGOÀI 18
III.XÂY DỰNG SẢN PHẨM DU LỊCH CHO KHÁCH NHẬT BẢN 22
25 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2512 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đặc trưng tâm lý khách du lịch Nhật Bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hai hoặc ba đạo, do đó vào năm 1995 theo thống kê của cuốn niên giám về tôn giáo của hiệp hội văn hóa thì tín đồ của tất cả các giáo phái cộng lại là 219,83 triệu, gần gấp đôi dân số Nhật lúc bấy giờ là 120triệu.Tuy vậy ở Nhật ngày nay đạo phật chiếm ưu thế hơn so với các đạo khác, với khoảng 92 triệu tín đồ, mặc dù trên thực tế thì các tín đồ này cũng không tuân theo các qui định của đạo phật một cách nghiêm ngặt. Đạo cơ đốc cũng khá thịnh hành với khoảng 1,7 triệu giáo dân. Đạo cơ đốc được đưa vào Nhật năm 1549 phát triển nhanh chóng vào nửa sau của thế kỷ đó, khi trong nước có nhiều xung đột, không ổn định và được chào đón bởi những người đang cần một biểu tượng tinh thần mới, cũng như những người hi vọng làm giàu trong buôn bán hay hy vọng tiếp thu kỹ nghệ mới đặc biệt là kỹ nghệ sản xuất vũ khí của tây phương. Tín đồ cơ đốc giáo hiện nay bao gồm có tín đồ tin lành và thiên chúa, nhưng tín đồ tin lành đông hơn. Các tín đồ tin lành đã kỷ nịêm 100 năm ngày tôn giáo của họ trên đất Nhật vào năm 1959. Trong số các tôn giáo khác, đạo Hồi có khoảng 155.000 tín đồ, bao gồm cả những người nước ngoài cư trú tạm thời trên đất Nhật. Đạo gốc của Nhật bản là Shinto (Thần đạo). Thần đạo có nguồn gốc từ thuyết vật linh của người Nhật cổ. Thần đạo cho rằng cây cối, loài vật trong thiên nhiên đều có quỉ thần nên phải được thờ cúng. Phát triển với tư cách tôn giáo của cộng đồng, thần đạo đã sản sinh ra những miếu thờ gia thần và các thần hộ mệnh của địa phương. Ngoài ra, người Nhật cũng thờ các anh hùng và các thủ lĩnh xuất chúng của nhân dân qua các thế hệ khác nhau và thờ cúng hương hồn tổ tiên theo lễ nghi của đạo thần.Người Nhật cũng coi trọng đạo Khổng, nhưng trên thực tế thì đạo khổng đối với người Nhật có tư cách như chuẩn mực đạo đức hơn là một tôn giáo.Đạo khổng du nhập vào Nhật từ đầu thế kỷ thứ 6, có ảnh hưởng lớn tợ nếp suy nghĩ và cách xử sự của người Nhật, sau này ảnh hưởng của đạo này cũng suy yếu đi nhiều.
PHẦN 2:CON NGƯỜI NHẬT BẢN
I. THÓI QUEN ĐỜI SỐNG
Tính cách nổi bật của người Nhật là trung thành, yêu nước, tôn kính, giữ gìn danh dự gia đình,thực tế. lạc quan và hài hước, tinh tế và nhạy cảm, lễ phép và lịch sự, ôn hòa và độ lượng.Tình cảm thẩm mĩ là nền tảng của bản sắc dân tộc Nhật.Nhà dù nghèo mấy cũng phải có một chậu cảnh và một bức họa khổ lớn.Độ tuổi trên 50 dành nhiều thời gian để thưởng ngoạn thiên nhiên.Truyền thống sung mộ cái đẹp thể hiện trong cả tình cảm hành động lẫn ngôn từ, thích ngắm hoa thưởng nguyệt.Rất mê tín, hay đi xem tướng số, thích các số 3,5,7, sợ số 4 và số 9, đàn ông ít đi chơi cùng vợ.Vợ chồng rất ít khi đi du lịch cùng nhau.
Người Nhật bao giờ cũng lao động hết mình.Họ coi doanh nghiệp là nhà, tuyệt đối trung thành với doanh nghiệp, bất kỳ một người lao động bình thường nào cũng làm việc không dưới 9 tiếng một ngày dù hưởng lương chỉ 8 tiếng.Tính kỉ luật là một đặc trưng của người Nhật, sự phục tùng dưới trên, sau trước hành động theo thủ lĩnh, xử thế điềm tĩnh ôn hòa.Người Nhật cần sự ngăn nắp,trật tự và sạch sẽ ở mức độ tuyệt hảo.Người Nhật không có thói quen cho và nhận tiền boa(pourboire).Người Nhật thích tắm ở nhà tắm công cộng, nước tắm phải thật nóng.Khi ăn đĩa bát phải cùng nhau.Màu hồng được nữ giới rất ưa thích, thích cây liễu rủ,cành liễu dung làm đũa quý chỉ đem ăn trong dịp tết.Người Nhật thích các món ăn chế biến từ hải sản, trong bữa ăn phải có cá và rau,thích có bình tương Nhật dặt sẵn trên các bàn ăn ở nơi đến du lịch,thích các món súp tự pha lấy(mỳ tôm).Thích cơm rang với trứng.Trong buồng ngủ phải có ít nhất hai loại dép, thích có bồn tắm, trong nhà tắm phải có đầy đủ bàn chải, thuốc dánh răng, dao cạo râu, bàn chải, máy sấy tóc, kem xoa, dầu gội đầu, dầu xà. Trong tủ lạnh phải có đủ thứ rượu, bia, nước ngọt, hoa quả, thích uống trà, rót nước ra cốc để uống.
Người Nhật rất thích hoa anh đào,hoa cúc,thích màu đỏ và đen,chán ghét màu vàng
II.THÓI QUEN TRONG GIAO TIẾP
Quần áo diện mạo
Biểu hiện bân ngoài trang phục sạch sẽ là phẳng,đeo phù hiệu công ty,tóc không che mắt, nữ giới bôi son môi vừa phải,momgs tay không sơn màu sang chói(nhũ trắng), nam giới tất màu đen, màu tối, nữ giới mang đồ nữ trang giản dị, mang tất dài màu dịu tự nhiên, giày bóng loáng luôn tươi cười.
Giao tiếp và ngôn ngữ
Bộc lộ thẳng tình cảm được coi là ấu trĩ, không phù hợp với cách ứng xử của người lớn và không được coi là thanh nhã. Đặc biệt người Nhật không thể hiện tình yêu trước mặt người khác. Có lẽ vì thế mà người ta cho rằng khó dò biết được tình cảm và suy nghĩ bên trong của người Nhật
Cúi người cũng là một tập quán đặc biệt của người Nhật. Khi chào hỏi, khi nhờ vả, khi xin lỗi, cũng như khi cảm ơn, người Nhật đều cúi người. Thậm chí như khi nói chuyện điện thoại, biết rằng mình và người đối thoại không nhìn thấy nhau, song nhiều người vẫn bất giác cúi người để biểu thị sự tôn trọng hoặc biết ơn. Có ba kiểu cúi người căn cứ vào mức độ quan hệ giữa bản thân người chào và người đối diện, căn cứ vào địa điểm, thời gian, hoàn cảnh. Trước hết là kiểu "chào nhẹ" thường dùng khi gặp khách hay cấp trên ở hành lang, đầu chỉ hơi cúi chào. Kiểu cúi người thứ hai là kiểu "chào bình thường" cúi người thấp hơn một chút khi chào tương đối trịnh trọng. Cuối cùng là kiểu "chào lễ phép", cúi người thấp hẳn xuống, dùng khi chào một cách trịnh trọng như chào khách. Bất kể thế nào cũng không cúi đầu mà phải để thẳng lưng và và hơi gập người ở chỗ thắt lưng. Ngoài ra, khi cúi chào, cách để tay của nam và nữ cũng khác nhau. Thường thì nam giới để tay ở hai bên hông còn nữ giới để tay phía trước. Bắt tay vốn không có trong tập quán chào hỏi của người Nhật nhưng khi chào hỏi người nước ngoài, người Nhật cũng thường bắt tay đúng như câu tục ngữ "Nhập gia tuỳ tục". Có thể nói đây là ví dụ thể hiện tính linh hoạt trong lối ứng xử của người Nhật.
Để mình ngồi cao hơn người khác cũng bị coi là thất lễ. Ngoài vị trí ngồi cao thấp, người Nhật còn rất để ý đến thứ tự ngồi được gọi là Kamiza (ngồi trên) và Shimoza (ngồi dưới). Lúc ngồi trên xe cũng như khi ngồi trên phòng, thứ tự ngồi được ngầm quy ước. Trong phòng, chỗ (ngồi trên) là chỗ xa cửa vào phòng nhất, dành cho người trên hay cho khách. Khi dẫn khách vào phải mời khách "chỗ ngồi trên" rồi thứ tự lần lượt ra phía cửa. Trong phòng khách của những ngôi nhà Nhật Bản từ thời Edo (từ thế kỷ XVII) có một khoảng trống gọi là Tokonoma. Đó là khoảng trống lõm trong tường và cao hơn sàn nhà một chút, trên vách có treo tranh và bày biện lọ hoa hay đồ trang trí. Chỗ ngồi phía trước Tokonoma là "chỗ ngồi trên". Trong gia đình người cha là trưởng gia ngồi ở vị trí cao nhất. Kế đến là con trai cả. Rồi đến là con trai thứ ngồi phía dưới và con dâu ngồi dưới cùng
Giao tiếp mắt: người Nhật thường tránh nhìn trực diện vào người đối thoại, mà họ thường nhìn vào một vật trung gian như caravat, một cuốn sách, đồ nữ trang, lọ hoa..., hoặc cúi đầu xuống và nhìn sang bên. Nếu khi nói chuyện mà nhìn thẳng vào người đối thoại thì bị xem như là một người thiếu lịch sự, khiếm nhã và không đúng mực. Sự im lặng: người Nhật có khuynh hướng nghi ngờ lời nói và quan tâm nhiều đến hành động, họ sử dụng sự im lặng như một cách để giao tiếp và họ tin rằng nói ít thì tốt hơn nói quá nhiều. Trong buổi thương thảo, người có vị trí cao nhất thường ít lời nhất và những gì anh ta nói ra là quyết định sau cùng, im lặng cũng là cách không muốn làm mất lòng người khác. Gián tiếp và nhập nhằng: thường thì họ giải thích ít những gì họ ám chỉ và những câu trả lời thì cũng rất mơ hồ. Họ không bao giờ nói “không” và chẳng nói cho biết rằng họ không hiểu. Nếu cảm thấy bất đồng hoặc không thể làm những yêu cầu của người khác họ thường nói “điều này khó”.
Bất kỳ lời nói, cử chỉ nào của người Nhật kể cả sự thúc giục hay từ chối cũng đều mang dấu ấn của sự lịch thiệp, nhã nhặn. Vì người Nhật có ý thức tự trọng cao nên họ đặc biệt tránh trở thành kẻ lố bịch, không đúng mực, khiếm nhã khi giao tiếp. Người Nhật rất chú trọng làm sao cho người đối thoại cảm thấy dễ chịu. Họ không bao giờ muốn làm phiền người khác bởi những cảm xúc riêng của mình, cho dù trong lòng họ đang có chuyện đau buồn nhưng khi giao tiếp với người khác họ vẫn mỉm cười. Khi bước vào tiếp xúc, sau những lời chào hỏi xã giao, với cương vị chủ nhà, họ thường chủ động đi vào vấn đề cần bàn bạc trước. Lúc câu hỏi được đưa ra có nghĩa là công việc đã chính thức bắt đầu. Trong không khí căng thẳng, nếu bạn tạo được tình huống vui vẻ gây cười thì sẽ tạo được ấn tượng tốt, nhưng nên dừng lại đúng lúc. Người Nhật khi đang thực thi nhiệm vụ hoặc đang suy nghĩ thì không nên đưa ý kiến chệch vấn đề đang bàn, nói những câu thiếu thông tin, hỏi về đời tư. Bạn sẽ bị đánh giá là thiếu nghiêm túc, thậm chí sẽ gây ác cảm với họ. Dù người Nhật rất khoan dung với người nước ngoài về khoản này, nhưng sẽ là một lỗi trong giao tiếp nếu không dùng ngôn ngữ lễ phép và kính ngữ khi dùng tiếng Nhật để nói chuyện với người có địa vị cao hơn. Kính ngữ “san” có thể dùng khi bạn nói tiếng Anh nhưng đừng dùng nó để gọi chính mình. Tên người Nhật có họ để phía trước nhưng họ cũng thường để ngược lại vì lợi ích của người Tây phương trong giao tiếp.
Nụ cười hay tiếng cười của người Nhật có thể là do họ cảm thấy bối rối hoặc khó chịu, và có thể không mang nghĩa là họ đang vui.Sẽ là thô lỗ nếu khi không gửi thiệp trong ngày Tết của Nhật khi nhận được thiệp gửi cho bạn. Nhưng nếu gửi thiệp ấy tới một tang gia chưa giáp năm là lỗi trong giao tiếp. Với người Nhật, việc tặng tiền thường bị xem là thô lỗ, tiền mặt là loại quà cáp quy chuẩn trong đám cưới hay cho trẻ em trong năm mới.Khi gọi ai đó bằng cách vẫy tay, nên để tay thẳng, lòng bàn tay hướng xuống, sau đó quạt các ngón tay xuống, việc cong một vài ngón tay trong không khí là cử chỉ tục tĩu. Sẽ là một lỗi trong giao tiếp nếu chỉ tay trực tiếp vào người khác, thay vào đó ta mở rộng bàn tay ngửa lên trên như thể đang bưng một cái mâm và chỉ về phía người đó. Người Nhật thích tặng quà cho từng người khách và khi được tặng quà thường không mở món quà đó trước mặt người tặng quà, như luật bất thành văn, họ tặng quà nhau trong các ngày lễ tết hoặc khi có tin vui, thăng quan tiến chức. Việc gói quà tặng là cả một nghệ thuật, bạn nên nhờ nhân viên bán hàng làm giúp để tránh sai sót. Không nên tặng quà có số lượng 4 hoặc 9, những vật nhọn hoặc trà uống vì chúng tượng trưng cho điều kém may mắn tại Nhật. Khi đến nhà người khác chơi, được chủ nhà mời vào nhà thì người khách phải đáp “cảm ơn, rất hân hạnh” và cởi bỏ áo khoác trước cửa nhà. Nếu là người đến thăm lần đầu thì chỉ ở chơi không quá nửa giờ, sau đó vào lúc thích hợp phải xin phép ra về với câu “Tôi đã làm phiền ngài quá lâu, xin lượng thứ”. Sau khi cởi đôi dép đi trong nhà, người khách phải quay mũi dép vào trong phòng, ở cửa người khách phải cúi chào một lần nữa và cảm ơn chủ nhà vì sự tiếp đón rồi mới đi ra. Phụ nữ Nhật khi nói chuyện với người ít quen biết thì họ phải im lặng và nhìn đi chỗ khác, đó được coi là những hành vi đức hạnh, được đánh giá là người phụ nữ đức hạnh, còn nếu nhìn chăm chú sẽ bị đánh giá là người không đứng đắn, thiếu đức hạnh vì hành vi đó được đánh giá như lời mời gọi dẫn tới sự thân mật.
III XU HƯỚNG TIÊU DÙNG DU LỊCH CỦA NGƯỜI NHẬT BẢN
Chính phủ Nhật khuyến khích dân chúng nước mình đi du lịch ở nước ngoài.
Người Nhật thường chọn nơi du lịch có nắng, cảnh sắc hấp dẫn, nước biển trong xanh, cát trắng cso thể tắm được quanh năm quen với phương tiện sinh hoạt hiện đại và thuận lợi
Chương trình du lịch của họ thường chọn 7 ngày để một năm cớ thể đi du lịch được ba lần
Nội dung đầu tiên của chuyến đi mà người Nật quan tâm đó là cước vận chuyển.Nếu học thấy rẻ thì đi còn không tính đến việc tiêu tiền như thế nào trong chuyến đi.
Tầng một và hai tầng ở trên cùng của loại khách sạn cao tầng thường không thích hợp với người Nhật vì lý do an toàn.Trước khi ra nước ngoài du lịch người Nhật được đén các phòng tư vấn về vấn đề an ninh đảm bảo sự an toàn tính mạng và tài sản của họ
Người Nhật chi tiêu nhiều cho dịch vu lưu trú và ăn uống,chẳng hạn so với khách du lịch Nhật chi tiêu tại Hồng Koong là 312USD/ngày thì khách du lịch Mỹ là 198USD/ngày.
Ở Nhật có phong trào đi du nghỉ tuần trăng mật ở nước ngoài,trung bình chi tiêu cho chuyến đi là 10000USD.
Khách du lịch ở độ tuổi thanh niên thích phiêu lưu, mạo hiểm.
Khách du lịch là thương gia đòi hỏi tính chính xác rất cao:-Thời gian làm việc(bắt đầu từ 7h30,kết thúc 17h30).Thời gian, địa điểm đưa đón,chủng loại phương tiện,người điều khiển,chương trình làm việc,nộ dung và con người cụ thể khi làm việc,chương trình tham quan giải trí.
Loại khách này sử dụng các dịch vụ có thứ hạng cao.Nếu sử dụng các dịch vụ thấp kém nghĩa là hạ thấp uy tín,là sự xỉ nhục đối với công ty mà họ đại diện.Thời gian rỗi loại khách này thích đi dạo phố phường chợ thường trực nghệ thuật dân gian…Nhìn chung khách Nhật ít kêu ca phàn nàn.ít nổi nóng, rất khéo léo trong đối nhân xử thế nhưng lại có yêu cầu quá khắt khe về chất lượng sản phẩm và dịch vụ.
Hầu như tất cả các khách du lịch Nhật đều bắt buộc phải mua nhiều quà lưu niệm vì phong tục tập quán của người Nhật
Thích các di tích cổ
Thích ăn món Pháp và rượu Pháp.
Giữ gìn bản sắc dân tộc khi ra nước ngoài,luôn thể hiện là người lịch sự có kỷ luật
PHẦN 3:TÌNH HÌNH DU LỊCH
I.HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TẠI NHẬT BẢN
Nhật Bản là một trong những thị trường gửi khách lớn nhất thế giới. Hàng năm, có hàng chục triệu lượt khách Nhật đi du lịch nước ngoài. Năm 1985, có 4,49 triệu lượt khách Nhật đi du lịch nước ngoài. Đến năm 2004 có tới trên 16,8 triệu lượt khách Nhật đi du lịch nước ngoài. Khách Nhật có khả năng thanh toán cao, hiệu quả mang lại lớn. Vì vậy, Nhật luôn là thị trường được nhiều nước chú trọng khai thác.
Trong mấy năm gần đây, Nhật Bản bắt đầu coi trọng phát triển du lịch nhằm thu hút khách quốc tế, biến Nhật Bản không chỉ là một thị trường gửi khách lớn mà còn là một điểm đến du lịch thông dụng của du khách quốc tế.
Để thu hút khách du lịch quốc tế, năm 1999, Nhật Bản đã đề ra chính sách xúc tiến du lịch quốc tế. Chính sách này bao gồm những nội dung sau:
1. Kế hoạch chào đón thế kỷ 21 ( Welcome Plan 21).
Kế hoạch này nhằm mục tiêu tăng gấp đôi lượng khách đến, tăng tổng lượng khách quốc tế đến Nhật Bản đến năm 2005 đạt 7 triệu lượt và đến 2007 đạt 8 triệu lượt; Tạo ra hình ảnh của Nhật Bản như một điểm đến du lịch được chọn; giảm chi phí đi lại và tạo điều kiện thuận lợi cho khách đi du lịch ở Nhật bản; Đa dạng hoá các điểm đến du lịch của nước ngoài từ các thành phố lớn như Tokyo và Osaka tới một loạt các địa phương khác của Nhật Bản.
Nhiều khu vực ở Nhật Bản có nguồn tài nguyên du lịch thiên nhiên, lịch sử và văn hoá phong phú, rất thích hợp cho việc thu hút khách du lịch quốc tế. “ Các khu chuyên đề du lịch quốc tế “ đã được thiết lập để nhấn mạnh tiềm năng này của một số khu vực bằng việc xây dựng các tuyến tham quan dưới chủ đề chung. Hiện nay, ở Nhật Bản có 10 “Khu chuyên đề du lịch quốc tế”.
Để giảm chi phí du lịch ở Nhật Bản, thẻ giảm giá “Welcome Cards” đã được giới thiệu ở 8 thành phố lớn. Bằng việc xuất trình thẻ này, du khách nước ngoài có thể nhận được giảm giá phí vào cửa tại các cơ sở du lịch như bảo tàng, nhà hàng, cơ sở lưu trú và cửa hàng lưu niệm. Các hãng hàng không và hãng tàu hoả giành vé giảm giá cho du khách nước ngoài.
2. Xúc tiến đăng cai các Hội nghị quốc tế:
Các thành phố lớn ở Nhật Bản nhận thấy hiệu quả đáng kể, cả về kinh tế và văn hoá, của việc đăng cai các hội nghị quốc tế và đã phát triển các trung tâm hội nghị hiện đại. Với nhận thức rằng hội nghị là một trong những nhân tố chủ yếu làm tăng dòng chảy du khách, ngành du lịch Nhật bản chú trọng thu hút đăng cai tổ chức nhiều hội nghị quốc tế. Một “ Thành phố du lịch và hội nghị quốc tế” được Chính phủ chỉ định có thể được hưởng những đặc ân với điều kiện Chính phủ ủng hộ các hoạt động marketing và quảng cáo ở nước ngoài cũng như tài trợ cho các hội nghị quốc tế được tổ chức ở địa phương.
Cơ quan Du lịch quốc gia Nhật Bản (JNTO) là cơ quan đảm nhiệm công tác marketing và xúc tiến du lịch của Nhật Bản. Thực thi chính sách xúc tiến với chủ đề “Chào đón thế kỷ 21”, các hoạt động marketing của JNTO được tập trung vào việc tạo ra một hình ảnh mới cho điểm đến Nhật Bản; marketing ở nước ngoài về “các khu chuyên đề du lịch quốc tế”; cải thiện mạng lưới thông tin du lịch.
Nhằm biến Nhật Bản thành một trong những trung tâm du lịch trong khu vực, năm 2003, Nhật Bản quyết định tổ chức Năm Du lịch Nhật Bản và thực hiện thông qua Chiến dịch Visit Japan. Khẩu hiệu quảng bá cho Chiến dịch Visit Japan là “Yokoso! JAPAN” nghĩa là “Hãy đến với Nhật Bản
Năm 2002, khi World Cup được tổ chức ở Nhật Bản, Thủ tướng Nhật đã phát biểu rằng Nhật Bản sẽ cam kết tăng du lịch inbound. Từ đó, xúc tiến du lịch trở thành cột trụ của chính sách của Nhật. Trong diễn văn phát biểu năm 2003, Thủ tướng Koizumi đã đặt mục tiêu thu hút 10 triệu khách du lịch nước ngoài tới tham quan du lịch Nhật Bản vào năm 2010.
Bằng sự nỗ lực, năm 2004, Nhật Bản thu hút được 6,14 triệu lượt khách quốc tế, tăng 17,8% so với năm 2003 và 6 tháng đầu năm 2005, thu hút được 3,26 triệu lượt khách quốc tế, tăng 8,7% so với cùng kỳ năm 2004. Với sự quyết tâm của Chính phủ Nhật Bản và sự nỗ lực thực hiện chiến lược xúc tiến quảng bá du lịch của Bộ đất đai hạ tầng và giao thông vận tải Nhật Bản, JNTO và các bộ ngành hữu quan, Nhật Bản hoàn toàn có thể đạt được mục tiêu 10 triệu khách quốc tế vào năm 2010.
3.Những điểm đến lý tưởng của Nhật
1. Những di chỉ Phật giáo ở vung Horyu-ji Được xây dựng vào thế kỷ thứ 7 , tòa tháp 5 tầng và gian thờ chính trong ngôi chùa Horyu-ji đã được toàn thế giới ngưỡng mộ bởi đây là công trình kiến trúc bằng gỗ cổ nhất thế giới vẫn còn được gìn giữ nguyên vẹn cho tới ngày nay . Hàng loạt những di chỉ Phật giáo rải rác trong vùng Horyu-ji đã được công nhận là di sản văn hóa thế giới bởi đã có ảnh hưởng quan trọng đối với sự phát triển của kiến trúc chùa chiền Nhật Bản trong suốt cả chiều dài lịch sử . 2. Himeiji-jo : Lâu đài Sếu Trắng
Lâu đài này mang vẻ thanh thoát với những bức tường đất được tô màu trắng và những trang trí bằng gỗ rất tinh xảo . Được xây dựng vào thời kì hoàng kim của kiến trúc lâu đài và thành quách Nhật Bản (bắt đầu từ giữa thế kỉ thứ 16 ), lâu đài Sếu Trắng hiện vẫn còn giữ được nguyên vẹn vẻ đẹp và sự bền vững bất chấp những thử thách của thời gian . 3. Những cây cổ thụ vùng Yakushima.
Những cây Yakusugi cổ thụ trên 1.000 năm tuổi đã tạo nên vẻ huyền bí của các cánh rừng cổ rậm rạp vùng Yakushima . Một trong những cây nổi tiếng nhật là cây Jomonsugi có 7.200 năm tuổi . Vùng Yakushima được công nhận là một di sản thiên nhiên của thế giới bởi nơi đây vẫn còn giữ được một hệ sinh thái vô cùng phong phú và một môi trường sống lý tưởng cho hàng loạt loài động , thực vật đặc hữu.4. Dãy núi Shirakami-shanchi
Dãy núi này bao gồm hàng loạt những đỉnh núi cao trên 1.000 mét và có một dải thực vật vô cùng phong phú . Trên những đỉnh núi này hiện còn tồn tại những rừng sồi nguyên thủ với tuổi trung binh khoảng 8000 năm . Shirakami-shanchi là nơi đựoc các nhà khoa học coi là duy nhất ở đông á có những rừng sồi nguyên thủy vẫn đang phát triển suốt từ kỉ Băng Hà cho tới tận ngày nay .
5. Cố đô Kyoto
Được đức vua Kanmu xây dựng vào năm 794 , Kyoto là một trong những điểm du lịch hàng đầu của Nhật Bản với 17 đền đài , thành quách , cung điện có kiến trúc độc đáo và còn lưu giữ khá nguyênvẹn 6. Những làng cổ ở Shirakawa-go và Gokayama
Do nằm ở vùng có tuyết rơi dày nhất đất nước nên những ngôi nha trong làng cổ này được thiết kế vô cùng đặc biệt.Chúng được xây theo lối gasho-zukuri , không hề dùng đinh và có mái rạ dốc đứng để tuyết không thể đóng nặng trên mái nhà .7. Đài tưởng niệm hòa bình ở Hiroshima
Đài tưởng niệm này được tạo nên chính trên những gì còn sót lại của Tòa nhà phát triển công nghiệp quận Hiroshima -nơi đã bị phá hủy bởi bom nguyên tử của Mỹ . Với kiểu kiến trúc tương tự trại tập trung Auschwitz tại Ba Lan , đài tưởng niệm này là biểu tượng cho khát vọng hòa bình và ghi dấu một nỗi đau tột cùng của nhânloại. 8. Đền thờ Itsukushima
Đền thờ đạo Shinto này nằm ở điểm cuối đảo Itsukushima , trên biển hồ Seto . Ngôi đền này hiện còn lưu giữ 6 bảo vật quốc gia và là nơi có sự hòa hợp tuyệt vời giữa thiên nhiên và kiến trúc .9. Quần thể di tích Nara
Nền văn hóa của cả một thời kì mà trong đó nước Nhật đã xây dựng nên nền móng đầu tiên hiện vẫn còn lưu dấu tại Nara -nơi đã được chọn làm kinh đô từ năm 714 đến năm 794 . Một khoảng không gian lịch sử vẫn còn nguyên vẹn tại đây với sự hòa hợp của ngôi chùa cổ mang tên Todaji và khu rừng nguyên thủy Kasugayama. 10. Đền và chùa ở Nikko Quần thể những đền và chùa cổ kính , hầu hết được xây dựng vào thế kỉ 17,tọa lạc trên những ngọn núi bao quanh vùng Nikko đã ghi dấu lại một thời kì phát triển rực rỡ của văn hóa Nhật 300 năm về trước. 11. Cụm di tích Gukusu
Những dấu ấm của vương quốc Ryukyu trên đảo Ryukyu phía Nam quần đảo Nhật Bản là chứng minh cho thời kì phát triển rực rỡ của một vuơng triều tồn tại từ thế kỷ 14 đến thể kỉ 18 trên vùng đất xinh đẹp này .12. Đường hành hương trên dãy Kii
Dãy núi Kii nằm ở cực Nam của hòn đảo chính gồm những đỉnh núi có độ cao từ 1 đến 2 nghìn mét . Vùng đất này mang giá trị đặc biệt đối với tâm linh người Nhật
II.DU LỊCH NƯỚC NGOÀI
Nhật Bản được biết đến như thị trường gửi khách lớn trên thế giới. Hàng năm khách du lịch Nhật Bản đi du lịch ra nước ngoài 17-18 triệu lượt và là thị trường mục tiêu của nhiều nước trên thế giới. Trong thời gian gần đây với những xu hướng biến đổi thị trường của các thị trường mới nổi, nhất là trong khu vực Bắc á, theo WTO thì khách du lịch Trung Quốc ra nước ngoài bắt đầu vượt thị trường khách Nhật vào năm 2002, tuy nhiên về chi tiêu thì thị trường Nhật Bản vẫn là thị trường có khả năng chi trả cao hơn, sử dụng những dịch vụ đắt tiền hơn và tổng số chi tiêu du lịch ra nước ngoài của khách Nhật vẫn rất đáng quan tâm.
Là thị trường gửi khách lớn, sự dao động về lượng khách của thị trường Nhật có ảnh hưởng lớn tới các thị trường nhận khách, thể hiện rõ trong những giai đoạn thị trường này chững lại hoặc giảm do các yếu tố kinh tế chính trị như thời điểm sau sự kiện 11/9 hoặc khủng bố tại Ba li, Sars…
Tháp dân số Nhật cho thấy có hai thế hệ lớn trong dân số là nhóm dân số trong khoảng 50-59 tuổi do sự bùng nổ dân số lần thứ nhất và trong khoảng 25-39 do sự bùng nổ dân số lần thứ hai tạo ra những đặc điểm đi du lịch của khách Nhật ở trong các nhóm tuổi này lớn. Cũng do sự phát triển kinh tế xã hội Nhật Bản mà lượng khách nữ Nhật đi nước ngoài lớn hơn so với các thị trường khác.
Theo các nghiên cứu của Trung tâm Nhật Bản – ASEAN thì các phân đoạn thị trường khách lớn nhất đi outbound là:
- Khách trung niên là nam giới tuổi trung bình từ 45-59 chiếm 16,7%
- Khách trung niên nữ giới tuổi 45-59 chiếm 14,4%
- Khách nam giới đứng tuổi (trên 60) chiếm 11,9%
- Khách nữ độc thân tuổi từ 15-29 chiếm 7,6%
- Khách nữ có gia đình và công việc tuổi từ 15-44 chiếm 6,2%
Trong số này phân đoạn 4 có mục đích đi du lịch cao nhất, tới 81% là đi du lịch thuần túy, sau đó đến phân đoạn 2, phân đoạn 3, và 5. Phân đoạn 1 có lượng khách đi du lịch do mục đích công vụ lớn, và một phần thuộc phân đoạn 3. Khách thuộc phân đoạn 5 có một lượng khoảng 10% đi du lịch thăm thân, 15% đi du lịch tuần trăng mật.
Khách du lịch Nhật Bản đi du lịch Đông Nam á có thời gian lưu trú trong khoảng 5-7 ngày là nhiều nhất.
Các hoạt động du lịch khách Nhật ưa thích tại Đông Nam á: thăm quan cảnh quan thiên nhiên, du lịch mua sắm, thăm quan di tích lịch sử, thưởng thức ẩm thực địa phương, nghỉ dưỡng.
Theo từng phân đoạn quan trọng của thị trường thì các hoạt động được ưa thích lại có những đặc điểm khách hơn. Khách nữ độc thân thích hoạt động mua sắm và ẩm thực cao hơn nhiều so với các thị trường khác, ngoài ra còn có thích thăm quan bảo tàng rất nhiều, khác hẳn so với các thị trường khác. Hoạt động mua sắm được các thị trường hưởng ứng đông đảo, kể cả nam và nữ, chỉ có phân đoạn khách đứng tuổi ít sử dụng hơn. Khách trung niên nữ và khách nam đứng tuổi lại có sở thích gần hơn là thích thăm thú di tích lịch sử và nghỉ dưỡng nhiều hơn các thị phần khác.
Nghiên cứu các phương thức khách đặt chuyến du lịch cho thấy các phân đoạn thị trường khách nhau có các phương thức khác nhau. Giới trẻ, khách nữ độc thân và nữ trẻ có gia đình sử dụng Internet như phương thức hiện đại trong mua tour du lịch nhiều, xu hướng này có hướng phát triển cao. Khách nữ có gia đình và chạc trung niên cũng dựa vào hãng lữ hành nhiều hơn các thị phần khách khi tổ chức chuyến du lịch. Trong khi đó, thị phần khách nam đứng tuổi thì tin tưởng chính vào hãng lữ hành và hãng hàng không, thể hiện sự ít năng động tự tìm hiểu thông tin và tự đặt chuyến hơn các thị phần khác.
Các vấn đề trở ngại chính khách gặp phải khi đi du lịch nước ngoài là: sự an toàn, các vấn đề liên quan đến ngôn ngữ, sức khỏe, không quen đồ ăn thức uống địa phương, tốn kém.
Với trên 300.000 du khách đến Việt Nam nêu trên thì Nhật Bản thực sự là một thị trường đầy tiềm năng. Điều đáng khí
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26493.doc