Lời nói đầu 4
Phần I: Khảo sát nguồn tài trợ của Công ty 5
I. Giới thiệu về Công ty Dệt 19/5 Hà Nội 5
1.Quá trình hình thành và phát triển của Công ty 5
1.1 Sơ lược các giai đoạn phát triển 5
1.2. Chức năng, nhiệm vụ của Công ty 9
1.3 Vị trí của Công ty 9
1.4. Mô hình bộ máy quản trị của Công ty 9
2. Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến việc đảm bảo
nguồn tài trợ của Công ty 10
2.1 Chính sách tài trợ của Công ty 10
2.2 Quy mô của Công ty 11
2.3 Hiệu quả đầu tư của Công ty 11
2.4 Uy tín của Công ty đối với các chủ nợ 11
2.5 Môi trường kinh doanh 12
2.6 Hình thức pháp lý 13
72 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1236 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đảm bảo nguồn tài trợ của Công ty Dệt 19/5 Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ăm 2002
Vay ngân hàng
18769145236
33270953223
48251539420
Tín dụng TM
26316351480
12653719578
8367004169
Nợ tích luỹ
1527442225
-18107610
753376972
Nợ khác
2094594864
25820821488
23166429639
Nợ nội bộ
559881834
539707584
463968224
Tổng vốn nợ
49267416649
85944080654
85427154300
Vốn NSNN
14302624740
14540276384
23540276384
Vốn tự bổ sung
316033645
155875949
341152304
Vốn quỹ
2143740924
2251864875
205806443
Tổng vốn chủ
16762399309
16948017190
24087235131
Tổng vốn
66029815958
102892097844
109514389431
1.2. Chi phí vốn.
Để huy động vốn để tài trợ cho các tài sản , phục vụ sản xuất kinh doanh nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra, Công ty phải chi phí một lượng tiền nhất định gọi là chi phí vốn.
Vốn mà Công ty sử dụng được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, và chi phí đối với mỗi nguồn cũng không giống nhau. Để đạt được chi phí sử dụng vốn thấp thì Công ty phải tìm ra một cơ cấu vốn hợp lý.
Sau đây là chi phí ứng với từng nguồn tài trợ của Công ty.
ă Chi phí vốn chủ sở hữu :
Như ta đã biết, vốn chủ của Công ty gồm vốn ngân sách Nhà nước cấp , vốn tự bổ sung và nguồn vốn quỹ. Nhìn vào bề ngoài, khi sử dụng vốn chủ Công ty chỉ phải nộp một khoản goại là thu về sử dụng vốn ngân sách Nhà nước với tỷ lệ 1,8%/năm, khoản này lấy từ lợi nhuận sau thuế. Chính vì vậy mà hiện nay người ta cho rằng chi phí vốn chủ đối với doanh nghiệp Nhà nước là thu về sử dụng vốn. Nhưng theo em, quan điểm đó là sai lầm, bởi vì thực chất chi phí vốn là số lợi nhuận cần phải đạt được trên nguồn vốn huy động để giữ không làm thay đổi số lợi nhuận dành cho chủ sở hữu của doanh nghiệp. Mà đối với doanh nghiệp Nhà nước thì Nhà nước chính là chủ sở hữu, còn ban lãnh đạo Công ty chỉ đại diện cho Nhà nước, được Nhà nước trao quyền quản lý điều hành Công ty và chịu trách nhiệm trước Nhà nước về kết quả và hiệu quả hoạt động kinh doanh. Như vậy, thu về sử dụng vốn có là bao nhiêu đi nữa thì nó vẫn thuộc sở hữu Nhà nước , nó không phải là chi phí sử dụng vốn ngân sách Nhà nước. Cũng phải nói thêm rằng, chính từ việc dùng thuật ngữ không chuẩn trong các văn bản quy định về tài chính đã khiến người ta lầm tưởng thu về sử dụng vốn (trong báo cáo tài chính gọi là thu trên vốn) là chi phí sử dụng vốn ngân sách Nhà nước. Thu về sử dụng vốn được trích từ lợi nhuận sau thuế, vẫn thuộc sở hữu Nhà nước nên ta phải gọi nó là khoản trích nộp lợi nhuận mới chuẩn.
Như vậy chi phí vốn chủ sở hữu đối với doanh nghiệp Nhà nước không phải là thu về sử dụng vốn( hay theo em là khoản trích nộp lợi nhuận), mà nó liên quan đến chi phí cơ hội đối với nguồn vốn đó. Nếu gói chi phí đó là Ks thì nếu doanh nghiệp không đảm bảo đạt được mức lợi nhuận Ks trên phần vốn này thì doanh nghiệp có thể đầu tư vào các lĩnh vực khác để thoả mãn lãi suất mong đợi Ks đó. Theo cách hiểu như vậy, Ks được xác định như sau:Ks=Krf+RP.
Trong đó: -Ks: Chi phí vốn chủ sở hữu.
-Krf: Lợi tức từ tài sản không có rủi ro, thường lấy là lãi suất trái phiếu kho bạc.
- RP: Là phần thưởng rủi ro(theo các nước trên thế giới thì RP thương từ 3%->5%).
Lãi suất trái phiếu kho bạcvào khoảng7%/năm, và giả sử rằng phàn thưởng rủi ro RP=0.4%/năm, thì chi phí vốn chủ của Công ty là : Ks=7%+4%=11%/năm.
Như vậy lượng chi phí sử dụng vốn chủ của Công ty 3 năm qua như sau:
Năm 2000: 16 762 399 309 *11%=1 843 863 924 VND
Năm 2001: 16 948 117 190*11%=1 864 281 891 VND
Năm 2002: 24 087 235 131*11%=2 649 595 864 VND
Tuy nhiên, khoản chi phí trên là vô hình, khó nhận biết nhưng nó rất quan trọng , phản ánh đúng chi phí sử dụng vốn chủ sở hữu của Công ty.
ăChi phí sử dụng vốn nợ của Công ty.
Ngoài vốn chủ sở hữu,Doanh nghiệp còn sử dụng nợ thông qua phát hành trái phiếu, vay vốn ngân hàng và các tổ chức tin dụng khác.
Chi phí sử dụng vốn nợ của Doanh nghiệp là thu nhập mà các chủ nợ yêu cầu đối với các khoản vay mới của Doanh nghiệp hay đó chính là lãi suất mà Doanh nghiệp phải trả cho việc sử dụng khoản vây mới của mình. Chẳng hạn khi doanh nghiệp phát hành trái phiếu thì chi phí nợ và lãi suất yêu cầu của thị trường (hay của trái chủ ) đối với món nợ của doanh nghiệp (tương ứng với số lượng trái phiêu nhân với lãi suất một trái phiếu). Lãi suất này phải là lãi suất quan sát được trên thị trường vốn. Cần phân biệt lãi suất yêu cầu của thị trường với lãi suất coupon, bởi lãi suất coupon chỉ là chi phí nợ của doanh nghiệp trong quá khứ tại thời điểm trái phiếu được phát hành chứ không phải là chi phí nợ hiện tại. Tại thời điểm hiện tại thì có nhiều yếu tố thay đổi (lam phát, tỷ giá ...) làm cho lãi suất yêu cầu có thể thấp hơn hoặc cao hơn lãi suất coupon. Và chỉ có lãi suất yêu cầu mới có ý nghĩa trong việc phân tích chi phí vốn của doanh nghiệp
ă Chi phí sử dụng vốn vay ngân hàng.
Chi phí sử dụng vốn vay ngân hàng được tính căn cứ vào lãi suất mà doanh nghiệp phải trả, tức là doanh nghiệp phải đạt được số lợi nhuận trên nguồn vốn này để không làm giảm lợi nhuận dành cho chủ sở hữu. Tuy nhiên vì lãi vay được tính vào chi phí hợp lệ trước thuế nên chi phí vốn vay bằng chi phí lãi vay trừ đi khoản tiết kiệm nhờ thuế. Như vậy chi phí vốn vay ngân hàng được xác định bằng: Kdb(1-T), trong đó Kdb là lãi suất vay ngân hàng, T là thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp.
Chính vì doanh nghiệp được hưởng khoản tiết kiệm nhờ thuế nên đièu đó giải thích tại sao các doanh nghiệp có khuynh hướng thích sử dụng nợ hơn, nhất là khi thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp ở mức cao.
Đối với Công ty, chi phí vốn vay ngân hàngtrong 3 năm qua như sau:
*Với vay ngắn hạn:
Năm 2000: 9(1-0.32)=6.12%.
Năm 2001: 8.4(1-0.32)=5.71%.
Năm 2002: 8.4(1-0.32)=5.71%.
Với lãi suất đó Công ty phải trả lãi (sau thuế) các năm như sau:
Năm 2000:6.12%*18 369 145 236=1 124 191 688 VND
Năm 2001:22 451 060 980*5.71%=1 281 955 582 VND
Năm 2002:26 703 539 420*5.71%=1 524 772 101 VND
*Với vốn vay dài hạn.
Năm 2000: 9.6(1-0.32)=6.53%
Năm 2001: 9(1-0.32)=6.12%.
Năm 2002: 9(1-0.32)=6.12%.
Lượng lãi sau thuế mà Công ty phải trả:
Năm 2000: 400 000 000*6.53%=2 612 000 VND.
Năm 2001: 10 719 846 253*6.12%=6 560 545 905 VND
Năm 2002: 21 548 000 000*6.12 %=1 318 737 600 VND
* Nguồn tín dụng thương mại.
Thực chất huy động vốn tín dụng thương mại cũng phải bỏ ra chi phí. Chi phí của nguồn vốn này có thể ẩn dưới hình thức nhà cung cấp thay đổi mức giá hoặc tính lãi suất tín dụng cho phần Công ty trả chậm, hoắc chiết khâu hàng bán...nếu giả sử việc mua bán theo giá thị trường thì chi phí sử dụng nguồn vốn này bằng 0.
* Nguồn vốn vay khác.
Cũng theo cách tính như vay ngân hàng, lãi suất trung bình của khoản vay khác của Công ty vào khoảng 0.8%/tháng hay 9.6%/năm, như vậy chi phí sau thuế của nguồn này là 9.6(1-0.32)=6.53% . Và Công ty phải trả chi phí nguồn vốn này ( sau thuế )3 năm qua như sau:
Năm 2000:2094594864*6.53%=136 777 032 VND.
Năm 2001:25820821488*6.53%=1 686 099 643 VND
Năm 2002:23166429639*6.53%=1 512 767 855 VND.
* Chi phí vốn nợ tích luỹ và nợ các đơn vị nội bộ:
Thực chất vốn nợ tích luỹ và nợ các đơn vị nội bộ là vốn mà Công ty chiệm dụng của các đơn vị nội bộ , của công nhân viên trong Công ty... Đối với Công ty chi phí nguồn vốn này coi như bằng 0.
Sau đây, ta sẽ tính được chi phí sử dụng vốn nợ trung bình của Công ty trong 3 năm qua như sau:
Kd(2000) =37.28% x 6.12% + 0.84% x 6.53% + 4.25% x 6.53% + 0 = 2.655%.
Kd(2001) = 26.12% x 5.71% + 28.73% x 6.12% + 30% x 6.53% +0 = 5.2%.
Kd(2002) = 31.26% x 5.71% + 25.22% x 6.12% + 27.12% x 6.53% + 0 = 5.1%.
Như vậy, do Doanh nghiệp tăng cường sử dụng nợ nên đã làm cho chi phí sử dụng nợ không ngừng tăng lên. Đây là điều dễ hiểu bởi khi tỷ lệ nợ tăng lên thì việc huy động vốn vây khó khăn hơn và lãi suất yêu cầu của các chủ nợ sẽ cao hơn vì họ phải chịu rủi ro cao hơn.Từ những tính toán trên đây, ta có thể ước tính chi phí vốn bình quân gia quyền(WACC) của HATEXCO 3 năm qua như sau:
WACC=ồwi x Ki
Trong đó, wi là tỷ trọng nguồn vốn thứ i, Ki là chi phí nguồn vốn tương ứng.
WACC(2000)=25.38%*11%+27.82%*6.12%+0.6%*6.53%+3.17* 6.53%+38.9%*0=4.47%
WACC(2001)=16.47%*11%+21.82%*5.71%+10.42%*6.12%+ 25.1%*6.53%+29.96%*0=5.33%.
WACC(2002)=22%*11%+24.38%*5.71%+19.67%*6.12%+ 21.15%*0=6.4%.
Như vậy,chi phí vốn bình quân gia quyền của Công ty trong 3 năm qua liên tục tăng, đó là do Công ty tăng cường tài trợ cho tài sản bằng vốn chủ và vay dài hạn thay vì tài trợ bằng vốn tín dụng thương mại, phải trả công nhân viên và phải trả các đơn vị nội bộ.
Đồ thị của WACC của Công ty 3 năm qua như sau:
WACC
(%)
6.4 (WACC)
6
5.33
4.47
4
2
2000 2001 2002 năm
2. Phân tích nguồn tài trợ.
Trên đây ta đã khảo sát về cơ cấu vốn và chi phí vốn của Công ty Dệt 19/5 Hà Nội. Phần tiếp theo trong mục này ta phân tích, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của Công ty qua các chỉ tiêu tài chính cơ bản, phân tích những rủi ro ứng với từng nguồn và mối quan hệ của Công ty với các chủ nợ. Việc phân tích này là rất thiết thực đối với việc đảm bảo nguồn tài trợ của Công ty.
2.1. Các chỉ tiêu tài chính cơ bản.
2.1.1. Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán.
Trong nhóm chỉ tiêu này, ta cần tính toán và phân tích 3 chỉ tiêu cơ bản là khả năng thanh toán hiện hành, khả năng thanh toán nhanh và tỷ lệ dự trữ trên vốn lưu động ròng.
Bảng 9: Khả năng thanh toán của HATEXCO.
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
ăNợ ngắn hạn
VND
48867416647
61284232920
59454318424
ăvốn lưu động ròng(NWC)
VND
3168496370
983231790
-9453285331
ăTài sản lưu động
VND
52035913017
62267964710
50001033093
ăTài sản quay vòng nhanh
VND
41480891838
46321479076
32665638227
ăDự trữ
VND
10145291655
14112659646
15575236135
ăkhả năng thanh toán hiện hành.
-Mức tăng:
-Tỷ lệ tăng(%):
Lần
1,065
________
________
1,016
-0,049
-4,6
0,841
-0,224
-17,2
ăkhả năng thanh toán nhanh.
- Mức tăng:
-Tỷ lệ tăng(%):
Lần
0,85
_______
_______
0,786
-0,064
-7.53
0,55
-0,3
--35,3
ăTỷ lệ nợ/NWC
-Mức tăng:
-Tỷ lệ tăng(%)
Lần
3,2
________
________
14,35
11,15
348,4
-1,65
-4.85
-151,5
Nhìn vào bảng trên ta thấy cả khả năng thanh toán thanh toán hiện hành và khả năng thanh toán thanh toán nhanh của doanh nghiệp đều ở mức thấp và giảm nhanh trong 3 năm qua. Năm 2000 và 2001, tỷ lệ khả năng thanh toán hiện hành tương ứng là 1,065 và 1,016 (đều >1), tức là Công ty có thể dùng tài sản lưu động của mình để hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn trong năm. Đến năm 2002 thì tỷ lệ này chỉ còn 0,841(<1), Công ty nếu dùng toàn bộ tài sản lưu động của mình cũng không đủ thanh toán cho các khoản nợ ngắn hạn( chỉ thanh toán được 84,1%). Như vậy , có thể nói khả năng thanh toán của Công ty là rất yếu và luôn giảm. Điều này sẽ ảnh hưởng đến uy tín của Công ty đối với các chủ nợ ngắn hạn. tất nhiên nó cũng ảnh hưởng không tốt đến khả năng huy động nguồn vốn ngắn hạn của Công ty.
Tỷ lệ dự trữ/NWC năm 2001 là 14,35%, tăng so với năm 2000 là 11,15 (ứng với 348,4%), nhưng tỷ lệ này vẫn ở mức thấp, doanh nghiệp chỉ cần dùng 14,35% vốn lưu động ròng là đã đủ để tài trợ cho dự trữ của mình. Nhưng đến năm 2002 tỷ lệ này là âm do vốn lưu động ròng giảm mạnh xuống còn –9453285331 VND, tức doanh nghiệp đã dùng cả nguồn nợ ngăn hạn để tài trợ cho tài sản cố định( nợ ngắn hạn đã vượt tổng tài sản lưu động). Điều đó cho thấy tình hình tài chính của Công ty năm 2002 là rất mạo hiểm.
Nói chung, tình hình dự trữ của Công ty năm 2000 và 2001 là khá hiệu quả, đến năm 2002 thì rất xấu.
2.1.2. Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng cân đối vốn.
Nhóm chỉ tiêu này dùng để đo lường phần vốn góp của chủ sở hữu Công tyso với phàn tài trợ của các chủ nợ đối với Công ty. Nó thể hiện mức độ tin tưởng vào sự bảo đảm an toàn cho các món nợ. Nó có ảnh hưởng rất lớn đến quyết định và yêu cầu khi cho vay của các chủ nợ. Nhóm chỉ tiêu này gồm 2 chỉ tiêu cơ bản là tỷ lệ nợ trên tổng tài sản và khả năng thanh toán lãi vay.
Bảng 10: khả năng cân đối vốn của HATEXCO.
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Tổng tài sản
VND
66029815958
102892097844
109514389431
Tổng nợ
VND
49267416649
85944080654
85427154300
EBIT
VND
1366392260
1541053906
3180984185
Lãi vay
VND
794052819
1305177957
2889440825
ă Hệ số nợ
-Mức tăng:
-Tỷ lệ tăng(%):
Lần
0,746
________
________
0,835
0,09
12
0,78
0,034
4,5
ă Khả năng thanh toán lãi vay
- Mức tăng:
-Tỷ lệ tăng(%):
Lần
1,72
_________
_________
1,11
-0,61
-35,5
1,1
0,62
36
Bảng trên cho biết hệ số nợ (tỷ lệ nợ/ tổng tài sản) có khuynh hướng gia tăng, cao nhất là năm 2001với mức 0,835 lần, tăng 12% so với năm 2000. năm 2002 tỷ lệ này có giảm so với năm 2001 nhưng vẫn tăng so với năm 2000 là 4,5%. chỉ tiêu này ở 3 năm qua đều ở mức rất cao, điều đó cho thấy Công ty chủ yếu hoạt động trên vốn vay, nó rất dễ đưa Công ty đến chỗ mất khả năng thanh toán nếu Công ty không kiếm được mức lợi nhuận cần thiết.
chỉ tiêu 6 trong bảng phản ánh mức độ lợi nhuận đảm bảo khả năng trả lãi hàng năm như thế nào. Tỷ lệ này năm 2000 là rất thấp(1,74 lần), nhưng đến năm 2001 và 2002 lại giảm xuống thấp hơn. năm 2002, nếu Công ty dùng toàn bộ lợi nhuận trước thuế và lãi vay(EBIT: earning Before Interest and Taxes) thì xem như vừa đủ để trả lãi ( dư 10% lãi vay là lợi nhuận trước thuế). Điều này phản ánh hiệu quả sử dụng vốn của Công ty là rất thấp. Như vậy Công ty khó có thể huy động vốn vay được nữa vì tỷ lệ nợ/tổng tài sản của Công ty đã quá cao mà khả năng hoàn trả lãi vay rất thấp. Công ty đang đứng trong “vùng nguy hiểm “ của viếc tài trợ.
Tuy nhiên nếu ta xem xét trong bối cảnh kinh doanh hiện nay, trong khi hàng ngàn doanh nghiệp Nhà nước hoà vốn, hơn 300 doanh nghiệp Nhà nước lỗ vốn, thì Công ty là một tỏng khoảng 200 doanh nghiệp làm ăn có lãi thì đó cũng là kết quả của một nỗ lực lớn của CBCNV toàn Công ty.
2.1.3 Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng hoạt động của Công ty.
Khả năng hoạt động của Công ty thể hiện ở hiệu quả sử dụng vốn. Nó được đánh giá bằng 4 chỉ tiêu cơ bản là vòng quay của tiền, vòng quay dự trữ, kỳ thu tiền bình quân, và hiệu suất sử dụng tài sản cố định.
Bảng 11. khả năng hoạt động của HATEXCO.
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
ăDoanh thu thuần
VND
41599535399
31153283181
68702951340
ăTiền và chứng khoán ngắn hạn
VND
182787857
3346621383
1294936890
ăTồn kho
VND
10145291655
14112659646
15575236135
ăCác khoản phải thu
VND
41298103981
42974857693
31370701337
ă Tài sản cố định
VND
11659901865
37154413756
36084645765
ă Vòng quay của tiền
-Mức tăng:
-Tỷ lệ tăng(%):
vòng
227.5
________
________
9.31
-218.2
-95.9
53
-174.5
-76.7
ă Vòng quay dự trữ
- Mức tăng:
-Tỷ lệ tăng(%):
Vòng
4.1
_______
_______
2.21
-1.89
-46.1
4.41
0.31
7.56
ăKỳ thu tiền bình quân.
-Mức tăng:
-Tỷ lệ tăng(%)
Vòng
357
_______ ________
946.6
584.6
165
164.4
-192.6
-5.4
ăHiệu suất sử dụng TSCĐ
-Mức tăng:
-Tỷ lệ tăng(%)
Vòng
3.57
________
________
0.835
-2.735
-76.6
1.9
-1.6
-46.7
* Chỉ tiêu vòng quay của tiền của Công ty năm 2000 là rất cao (227.5 vòng/năm), làm tốc độ luân chuyển vốn rất nhanh, nhưng đến năm 2001, chỉ tiêu này giảm mạnh đến mức không thể chấp nhận được (còn 9.31 vòng/năm), tức đã giảm so với năm 2000 là 218.2 vòng/năm (ứng với 95.9%). Nguyên nhân do lượng tiền mặt tăng cao trong khi doanh thu tiêu thụ giảm mạnh. Đến năm 2002, chỉ tiêu này được cải thiện(53 vòng/ năm), đây là mức có thể chấp nhận được.
* Vòng quay tồn kho năm 2001của Công ty rất thấp(2.21 vòng/năm), điều này thể hiện những bất cập trong chính sách dự trữ của doanh nghiệp: Dự trữ nhiều nhưng tiêu thụ chậm. Nhưng đên năm 2002, chỉ tiêu này đã được cải thiện (4.41 vòng/năm), tăng so với năm 2000 là 7.56%. Đây là mức chấp nhận được.
* Kỳ thu tiền bình quân của Công ty năm 2000 là 375 ngày (tức tương đương 1 năm), đây là mức rất cao chứng tỏ năm 2000 Công ty bị chiếm dụng vốn rất nhiều. Đến năm 2001, chỉ tiêu này đã tăng lên đến 946.6 ngày, chứng tỏ năm 2001 Công ty gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiêu thụ, vốn bị ứ đọng. Năm 2002, chỉ tiêu này được rút ngắn xuống còn 164.4 ngày, đây là mức còn cao nhưng so với hai năm trước thì đây quả là một điều chỉnh lớn.
* Hiệu suất sử dụng tài sản cố định của Công ty năm 2000 là 3.57, nhưng thông thường tỷ lệ này phải là >5 thì mới tốt. Như vậy Công ty năm 200 sử dụng tài sản cố định chưa hiệu quả. Hơn nữa năm 2001, tỷ lệ này lại giảm xuống chỉ còn 0.835. Đến năm 2002, tỷ lệ này được cải thiện hơn so với năm 2001, nhưng vẫn còn ở mức thấp và thấp hơn nhiều so với năm 2000.
Nhin chung trong 3 năm 2000, 2001 và 2002 thì năm 2000 Công ty Công ty sử dụng vốn có hiệu quả hơn cả, năm 2001 do môi trường kinh doanh có nhiều biến động, thị trường bị thu hẹp nên Công ty sử dụng vốn kém hiệu quả. Đên năm 2002 tình hình sử dụng vốn của Công ty đã có bước khởi sắc. các chỉ tiêu tài chínhphản ánh khả năng hoạt động của Công ty năm 2002 đều bién động theo hướng tích cực, chứng tỏ Công ty đã có những điều chỉnh kịp thời. Đây là một tín hiệu đáng mừng.
2.1.4. Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lãi.
Nếu như các nhóm tỷ lệ nêu trên phản ánh hiệu quả của từng hoạt động riêng biệt của Công ty thì tỷ lệ khả năng sinh lãi phản ánh tổng hợp nhất hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu năng quản lý của Công ty. Nhóm chỉ tiêu này gồm 3 chỉ tiêu cơ bản là doanh lợi tiêu thụ sản phẩm, doanh lợi vốn tự có và doanh lợi vốn.
Bảng 12: khả năng sinh lãi của HATEXCO.
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
1. Doanh thu thuần
VND
41599535399
31153283181
68702951340
2.Vốn tự có
VND
16762399309
16948017190
24087235131
3.Tổng vốn
VND
66029815958
102892097844
50001033093
4. Lợi nhuận sau thuế
VND
472385620
69273952
291543360
5. Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm.
-mức tăng:
-Tỷ lệ tăng:
%
%
1.135
_______
_______
0.22
-0.915
-80.6
0.425
-0.71
-62.5
6.Doanh lợi vốn tự có.
-Mức tăng:
-Tỷ lệ tăng:
%
%
2.82
________
________
0.41
-2.41
-85.5
1.21
-1.61
-57.1
7. Doanh lợi vốn
-Mức tăng:
-Tỷ lệ tăng
%
0.715
________
________
0.067
-0.648
-90.6
0.045
-0.67
-93.7
Tỷ lệ doanh lợi tiêu thụ sản phẩm của Công ty năm 2001 và 2002 đều suy giảm nhiều so với năm 2000 và ở mức rất thấp doanh lợi vốn của Công ty năm 2002 là rất thấp (0.045%), thấp nhất trong ba năm nhưng tỷ lệ doanh lợi vốn tự có là 1.21%, tăng so với năm 2001. từ bảng khả năng sinh lãi trên ta có nhận xét chung là từ 2000 đến 2002, tình hình kinh doanh của Công ty giảm sút, gặp nhiều khó khăn, kém hiệu quả. Nghiêm trọng nhất là năm 2001 , đến năm 2002 đã có dấu hiệu phục hồi nhưng vẫn ở mức thấp. Do vậy Công ty cần phải tiếp tục điều chỉnh cính sách tài chính để cải thiện tình hình khó khăn hiện nay, đem lại niềm tin cho các nhà đâu tư và từng giá trị cho chủ sở hữu.
2.2. Rủi ro của các nguồn tài trợ.
Chính sách cơ cấu vốn liên quan tới việc’’trao đổi’’ giữa rủi ro và lãi suất:
Việc tăng sử dụng nợ làm tăng rủi ro của luồng tiền thu được của Công ty.
Tuy nhiên, tỷ lệ nợ cao hơn thường dẫn đến lãi suất mong đợi cao hơn. Vì vậy rủi ro cao hơn cùng với nợ lớn hơn có khuynh hướng làm giảm giá trị dành cho chủ sở hữu, nhưng lãi suất mong đợi cao hớn sẽ làm tăng giá trị của chủ sở hữu. Cơ cấu vốn tối ưu của Doanh nghiệp phải hướng về sự cân bằng giữa rủi ro và lãi suất.
Rủi ro của Doanh nghiệp thường bao gồm 2 loại là rủi ro có hệ thống và rủi ro không có hệ thống.
+ Rủi ro có hệ thống: là loại rủi ro tác động đến toàn bộ các tài sản trong nền kinh tế quốc dân. Đây là những rủi ro bất khả kháng đối với Doanh nghiệp(như rủi ro lãi suất, rủi ro sức mua, rủi ro thị trường).
4Rủi ro thị trường: Xuất hiện do có những phản ứng của các nhà đầu tư đối với các sự kiện hữu hình hay vô hình. Sự phán đoán với chiều hướng suy giảm lợi nhuận của các nhà đầu tư có thể là nguyên nhân làm cho phần lớn các loại cổ phiếu thường giảm giá. Các nhà đầu tư thường phản ứng dựa trên cơ sở các sự kiện thực như các sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội.
Các sự kiện vô hình nảy sinh do yếu tố tâm lý của thị trường. Rủi ro thị trường thường xuất phát từ những sự kiện hữu hình, nhưng do tâm lý không vững vàng của các nhà đầu tư nên họ hay phản ứng thái quá đối với các sự kiện đó. Những sự giảm sút đầu tiên trên thị trường là nguyên nhân gây sợ hãi đối với các nhà đầu tư và họ sẽ cố gắng rút vốn. Những phản ứng dây chuyền làm tăng vượt số lượng giá bán, giá cả chứng khoán sẽ rơi xuống thâp so với giá trị sơ sở.
4Rủi ro lãi suất nói đến sự không ổn định trong giá trị thị trường và số tiền thu nhập trong tương lai do dao động trong mức lãi suất chung. Chi phí vay vốn đối với các loại chứng khoán không rủi ro như lãi suất tín phiếu hay lãi suất trái phiếu kho bạc sẽ dẫn đến sự thay đổi về chi phí vay vốn của các loại chứng khoán có rủi ro. Giả sử lái suất trái phiếu Chính phủ tăng từ 7% lên 8% thì những người đang nắm giữ trái phiếu có lãi suất 7% sẽ bị thiệt do giá chứng khoán giảm xuống. Vì lãi suất cố định là 7% ngay từ lúc phát hành nên những người năm giữ chứng khoán chỉ có thể bán được nếu họ chịu giảm giá xuống tới mức đảm bảo cho lãi suất đáo hạn của những trái phiếu này đạt 8%. Do lãi suất trái phiếu của Chính phủ tăng, nó trở nên hấp dẫn hơn và các loại chứng khoán khác sẽ bị kém hấp dẫn đi. Hệ quả là những người mua trái phiếu sẽ mua trái phiếu Chính phủ thay vì trái phiếu Công ty, cho nên lãi suất trái phiếu Công ty sẽ tăng lên, tức là chi phí nợ tăng lên.
Rủi ro thị trường và rủi ro lãi suất có thể được định nghĩa là những biến cố về số tiền thu được hiện nay của các nhà Doanh nghiệp. rủi ro sức mua là biến cố của sức mua của đồng tiền thu được. Rủi ro sức mua là tác động của lạm phát đối với khoản đầu tư .
Nếu coi khoản đầu tư là một khoản thu nhập ngay thì chi phí cơ hội mà nhà đầu tư mất đi để nắm giữ cổ phiếu đó là lượng hàng hoá và dịch vụ có thể mua được. Trong khoảng thời gian nắm giữ cổ phiếu đó , nếu giá cả hàng hoá dịch vụ tăng, các nhà đầu tư sẽ mất đi một phần sức mua. Do vậy rủi ro sức mua tác động lớn đến giá của các loại trái phiếu Chính phủ, trái phiếu và cổ phiếu công ty.
+ Rủi ro không có hệ thống: gồm rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính. Rủi ro kinh doanh bắt nguồn từ bản thân ngành nghề kinh doanh mà Doanh nghiệp lựa chọn và không thể tránh được. Rủi ro tài chính là kết cục bất lợi cho Doanh nghiệp như phá sản do tác động tiêu cực của đòn bẩy tài chính, tức là Doanh nghiệp sử dụng nợ quá nhiều dẫn đến mất khả năng thanh toán.
Do đó, tổng rủi ro mà Doanh nghiệp có thể phải gánh chịu là rất lớn. Đồng thời việc định lượng rủi ro là công việc hết sức khó khăn và thường mang tính chất cảm tính. Mức dộ định lượng chính xác phụ thuọc vào sự nhạy cảm của các nhà đầu tư khi đánh giá Doanh nghiệp.
Từ việc đánh giá rủi ro, Doanh nghiệp có thể biết được việc huy động vốn của mình có hiệu quả không và nên huy động từ nguồn nào thì có lợi, cụ thể: Khi nền kinh tế hưng thịnh, rủi ro hệ thống thấp(bỏ qua rủi ro kinh doanh ) thì Doanh nghiệp nên huy động nợ, bởi vì như vậy Doanh nghiệp có cơ hội kinh doanh htuận lợi và có thể khuyếch đại mức lợi nhuận của mình. Tuy nhiên khi những cơ hội kinh doanh mất đi trong nền kinh tế suy thoái thì việc tài trợ cho tài sản của Doanh nghiệp bằng nợ lại có tác động tiêu cực, lúc này việc huy động vốn chủ là có hiệu quả nhất vì tránh cho Doanh nghiệp phải chịu gánh nặng tài chính, hạn chế nguy cơ phá sản.
* Đối với vốn chủ.
Đối với bất kỳ loại hình doanh nghiệp nào, hoạt động trong lĩnh vực nào thì thì đều phải sử dụng vốn chủ với một lượng nhất định. Thông thường nhà nước quy định lượng vốn chủ tối thiểu mà doanh nghiệp phải có và nó được gọi là vốn pháp định. Trong qúa trình kinh doanh doanh nghiệp có thể tăng hoặc giảm vốn chủ nhưng không được thấp hơn vốn pháp định.
Sử dụng được coi là an toàn nhất, nhưng không phải là không có rủi ro. Rủi ro của vốn chủ thường được gọi là rủi ro kinh doanh của Công ty, đó là rủi ro cố hữu trong tài sản của Công ty nếu Công ty không sử dụng nợ.
Thông thường trong trường hợp Công ty gặp khó khăn, khả năng sinh lời thấp thì Công ty ưu tiên sử dụng vốn chủ hơn để đảm bảo khả năng thanh toán và tránh cho Công ty đi đến chỗ phải phá sản.
* Đối với vốn nợ.
Trong nền kinh tế thị trường, hầu như doanh nghiệp nào cũng sử dụng nợ cho việc tài trợ của mình, các doanh nghiệp thường có xu hướng sử dụng nợ cao. Vì như vậy, rủi ro trong kinh doanh của doanh nghiệp được san sẻ cho củ nợ gánh chịu. Mặt khác, tăng vốn thông qua vay nợ, các chủ sở hữu vốn nắm quyền quản lý điều hành doanh nghiệp. Ngoài ra , nếu doanh nghiệp thu được lợi nhuận từ tiền vay lớn hơn số tiền lãi phải trả thì lợi nhuận dành cho chủ sở hữu sẽ tăng đáng kể.
Việc sử dụng nợ sẽ làm tăng rủi ro của luồng tiền thu được của Công ty, đó là vì Công ty phải chịu sức ép hoàn trả lãi và vốn gốc theo đúng thời hạn quy định. Và theo quy định của pháp luật, nếu Công ty mất khả năng thanh toán trong thời hạn nhất định thì sẽ rơi vào tình trạng phá sản.
Nhìn chung, quyết định sử dụng nợ của Công ty phụ thuộc vào bốn nhân tố chính:
Thứ nhất: là rủi ro kinh doanh của Công ty, rủi ro kinh doanh càng cao thỉ tỷ trọng vốn nợ càng thấp.
Thứ hai: Đó là thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp; nếu thuế suất thuế thu nh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0070.doc