Đề tài Đánh giá chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian qua và phương hường giải pháp hoàn thiện

Xử lý linh hoạt các hình thức đầu tư, đa dạng hoá các hình thức đầu tư nước ngoài, phát triển các KCN, KCX : mở rộng danh mục dự án để lựa chọn hình thức đầu tư, chuyển đổi hình thức đầu tư. Cho chuyển nhượng, chuyển đổi mục tiêu đầu tư của các dự án không hiệu quả một cách thuận lợi, mở rộng áp dụng hình thức BOT.

_ Đổi mới và đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư : Chuẩn bị tốt các điều kiện thực hiện hiệp định thương mại Việt – Mỹ khi được quốc hội hai nước thông qua. Thực hiện chủ trương đa phương hoá các đối tác đầu tư nước ngoài để tạo thế chủ động trong mọi tình huống, nhằm tranh thủ tiềm lực vốn, công nghệ kỹ thuật hiện đại, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.

Các ngành, địa phương chủ chủ động tiến hành vận động, xúc tiến đầu tư nước ngoài với từng dự án, tập đoàn, nhà đầu tư có tiềm năng trên cơ sở quy hoạch và danh mục đã được phê duyệt. Nhanh chóng triển khai và thực hiện Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Ngoại giao và Bộ Thương mại tổ chức phối hợp nghiên cứu tình hình kinh tế, thị trường đầu tư, chính sách của các nước, tập đoàn đa quốc gia, nghiên cứu pháp luật, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của các nước trong khu vực để kịp thời có đối sách thích hợp.

Cần tập trung chỉ đạo, hỗ trợ kịp thời các nàh đầu tư hiện đang có dự án hoạt động, giúp họ giải quyết tốt các vấn đề phát sinh, đó là biện pháp có ý nghĩa quan trọng để vận động có hiệu quả và có sức thuyết phục nhất đối với các nhà đầu tư mới.

 

doc35 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1274 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian qua và phương hường giải pháp hoàn thiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tại Việt Nam, các nước Châu á chiếm trên 76% số dự án và trên 70% vốn đăng ký; các nước Châu Âu chiếm gần 16% số dự án và gần 24% vốn đăng ký; Hoa Kỳ chiếm 4,2% số dự án và 2,8% vốn đăng ký; còn lại là các nước ở khu vực khác. Riêng 5 nền kinh tế đứng đầu trong đầu tư vào Việt Nam là Singapore, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc và Hông Kông đã chiếm 63,4% về số dự án và 62,2% tổng vốn đăng ký. Việt Kiều từ 15 nước khác nhau chủ yếu là từ CHLB Đức, Liên Bang Nga và Pháp đã đầu tư 118 dự án với vốn đầu tư đăng ký 362,66 triệu USD chỉ bằng 0,8% tổng vốn đầu tư đăng ký của cả nước. Phân theo địa phương: Các thành phố lớn, có điều kiện kinh tế xã hội thuận lợi thuộccác vùng kinh tế trọng điểm vẫn là nhựng địa phương dãan đầu thu hút ĐTNN theo thứ tự như sau: TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu, Hải Phòng. Riêng vùng trọng điểm phía Nam( TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu) chiếm 56,1% tổng vốn ĐTNN của cả nước. Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc ( Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh) chiếm 25,2% tổng vốn ĐTNN đăng ký của cả nước. Hiện tại các dự án ĐTNN đầu tư vào các KCN, KCX( không kể các dự án đầu tư xây dựng hạ tầng KCN) còn hiệu lực, chiếm 33% về số dự án và 29,8% tổng vốn đầu tư đăng ký của cả nước. 2.1.1.2. Tình hình cấp mới và tăng vốn của khu vực ĐTNN: Tính đến 20/10/2004 đã có 579 dự án được cấp Giấy phép đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng ký 1.740,1 triệu USD, bằng 98% về số dự án và tăng 17,2% về vốn đăng ký mới so với cùng kỳ năm 2003. Đồng thời trong 10 tháng đầu năm 2004 đã có 388 dự án với tổng vốn đăng ký tăng thêm 1.496,77 triệu USD, tăng 66,9% so với cùng kỳ năm 2003 về vốn đăng ký tăng thêm. Trong tổng số các dự án tăng vốn, có 5 dự án có quy mô vốn tăng thêm trên 50 triệu USD, lớn nhất là Công ty Chinfon Hải Phòng với tổng số vốn tăng thêm 161,7 triệu USD, Công ty Sun Steel tăng 147 triệu USD và 2 công ty Canon và Saigon Mas đề tăng vốn thêm 100 triệu USD. Các dự án chủ yếu tăng vốn tập trung tronglĩnh vực công nghiệp và xây dựng, chiém 75% tổng vốn tăng thêm. Ba địa phương thuộc vùng trọng điểm phía Nam theo thứ tự là Bình Dương, TP Hồ Chí Minh và Đồng Nai đã chiếm 65,2% tổng vốn tăng thêm. Hai địa phương của vùng trọng điểm phía Bắc: Hải Phòng và Hà Nội chiếm 21,1% tổng vốn tăng thêm. Tính chung tổng vốn đăng ký của dự án cấp mới và dự án tăng vốn trong 10 tháng đầu năm đạt 3.236,9 triệu USD, tăng 35,9 so với cùng kỳ năm 2003 và bằng 95% dự kiến kế hoạch năm 2004( 3,4 tỷ USD). Với kết quả đã đạt được trong 10 tháng đầu năm, dự báo mục tiêu đề ra về thu hút và thực hiện vốn DTNN cho năm 2004 sẽ đạt và vượt. 2.2. Những thành tựu đạt được của các chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam : 2.2.1. Công tác xây dựng luật pháp, chính sách: Trong thời gian qua hệ thống pháp luật, chính sách về ĐTNN đã được cải thiện theo hướng tạo môi trường ngày càng thông thoáng, thuận lợi hơn cho hoạt động ĐTNN. Riêng từ năm 2000, sau khi Quốc Hội thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật ĐTNN, Chính Phủ đã ban hành Nghị Định 24/2000/NĐ-CP ngày 31 tháng 07 năm 2000 quy định chi tiết thi hành Luật ĐTNN tại Việt Nam. Ngày 19/03/2003 Chính Phủ đã ban hành Nghị Định 27/2003/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị Định 24/2000/NĐ-CP theo hướng: mở rộng lĩnh vực khuyến khích ĐTNN; xoá bỏ tỷ lệ xuất khẩu bắt buộc đối với một số sản phẩm công nghiệp cũng như hạn chế về tỷ lệ vốn góp bằng chuyển giao công nghệ và về tuyển dụng lao động; quy định cụ thể, minh bạch hơn các tiêu chí áp dụng ưu đãi đầu tư…Nghị Định 38/2003/NĐ-CP ngày 15/04/2003 của Chính Phủ về việc chuyển đổi một số doanh nghiệp ĐTNN sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần để tạo cơ sở pháp lý nhằm đa dạng hóa hình thức ĐTNN, mở thêm kênh mới để thu hút nguồn vốn này; Ngoài ra Chính Phủ cũng đã có Quyết định 146/2003/QQĐ-TTg ngày 11/03/2003 về việc góp vốn, mua cổ phần của nhà ĐTNN trong các doanh nghiêp Việt Nam. Hệ thống văn bản có liên quan đến hoạt động ĐTNN cũng tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện với việc Quốc hội thông qua các luật: Luật đất đai( sửa đổi, Bộ Luật lao động9 sửa đổi), Luật Xây dựng, Luật thuỷ sản, Luật Thuế TNDN, Luật Thuế GTGT…. Thủ tướng Chính Phủ cũng đã ban hành Quyết định số 53/2004/QQĐ_TTg ngày 05/04/2004 về một số chính sách khuyến khích đầu tư tại Khu công nghệ cao. Uỷ Ban Thường Vụ Quốc Hội cũng đã thông qua Pháp lệnh sửa đổi Thuế Thu nhập cá nhân có hiệu lực từ ngày 01/07/2004 theo hướng giảm thuế đối với người có thu nhập cao.Ngoài ra còn ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành có hiệu lực từ 01/01/2004 đã quy định danh mục lĩnh vực, địa bàn khuyến khích đầu tư cũng nhu thuế suất và các mức ưu đãi thống nhất cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, đồng thời bổ sung một só tiêu chí áp dụng ưu đãi mới nhằm khuyến khích các dự án đầu tư ứng dụng công nghệ, kỹ thuật cao và sử dụng nhiều lao động. Ngoài một số hạn chế cần được nghiên cứu giải quyết trong thời gian tới, việc ban hành các văn bản nói trên là bước tiến quan trọng trong lộ trình hướng tới xây dựng một mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong nước và ĐTNN. Tại kỳ họp thứ 4 tháng 11 năm 2003 Quốc hội đã thông qua Chương trình xây dựng pháp luật năm 2004 trong đó có việc chuẩn bị xây dựng Luật Đầu tư chung cho đầu tư trong nước và ĐTNN. Khung pháp lý song phương và đa phương về đầu tư tiếp tục được hoàn thiện. Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA) có hiệul ực từ tháng12/2001 mở ra cơ hội mới cho doanh gnhiệp trong nước và doanh nghiệp ĐTNN tiếp cận thị trường Hoa Kỳ và tạo điều kiện để thu hút ĐTNN vào các lĩnh vực có lợi thế xuất khẩu vào thị trường này. Mặt khác, những cam kết trong khuôn khổ Hiệp định này cũng tạo cơ sở pháp lý quan trọng để tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về ĐTNN. Nhiều cam kết đã được thực thi ngay khi Hiệp địn có hiệu lực( xoá bỏ sự phân biệt đối xử giữa ngươì tiêu dùng trong nước và nước ngoài về giá, phí một số hàng hoá,dịch vụ; giảm dần những hạn chế về chuyển giao công nghệ, quản lý ngoại hối, sử dụng đất đai). Cùng với việc thực hiện BTA, Chính Phủ Việt Nam đã ký kết Hiệp định song phương về đầu tư với một số đối tác đầu tư hàng đầu tại Việt Nam( Vương Quốc Anh, Hàn Quốc…). Trong tháng 11/2003, Hiệp định về tự do hoá, khuyến khích và bảo hộ đầu tư Việt Nam- Nhật Bản đã được ký kết với những cam kết mạnh mẽ của hai bên trong việc tạo dựng môi trường kinh doanh thuận lợi, minh bạch, ổn định và bình đẳng cho các nhà đầu tư.Tháng 12/2003 sáng kiến chung Việt Nam – Nhật Bản nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam đã được công bố với các nhóm giải pháp cơ bản gồm: xây dựng và thực hiện chíh sách thu hút đầu tư; hoàn thiện khung pháp luật về ĐTNN; nâng cao năng lực của các cơ quan chính phủ; cải tiến thủ tục đầu tư; phát triển hạ tầng kinh tế – xã hội. Cơ chế pháp lý đa phương về đầu tư cũng tiếp tục được củng cố, mở rộng với việc Chính Phủ Việt Nam ký kết Nghị định thư sửa đổi Hiệp định khung về Khu vực đầu tư ASEAN, tham gia Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN – Trung Quốc và các Hiệp định tương tự với Nhật Bản , ấn Độ… Đặc biệt, phải kể đến diễn đàn đầu tư được tổ chức mới đây trong hai ngày 17 và 18/08/2004 trên cơ sở phối hợp tổ chức và đồng chủ trì của Bộ KH&ĐT và Cơ quan đầu tư quốc tế Singapore(IE) đã thu hút được trên 500 các nhà đầu tư( trong đó có hơn 300 các nhà đầu tư nước ngoài đến từ Singapore và các nước khác) tham dự đã đạt được nhiều kết quả tốt đẹp đựoc cộng đồng quốc tế, các nhà đầu tư đánh giá cao, hứa hẹn tiềm năng mới trong thu hút ĐTNN trong thời gian tới. Việc triển khai “Sáng kiến chung Việt Nam – Nhật Bản”, “Họp nhóm đầu tư và thương mại Nật Bản - Việt Nam”,Thoả thuận hợp tác xúc tiến đầu tư với Singapore nhằm đẩy mạnh đầu tư với nước thứ ba( Nhật Bản), Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ cũng như các thoả thuận hợp tác đầu tư song phương và đa phương khác đã tạo điều kiện tăng cường quan hệ hợp tác đầu tư, mở rộng thị trường xuất khẩu cho các doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Chính Phủ cũng đã ban hành Nghị định số 61/2003/NĐ-CP ngày 6/6/2003 về chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức bộ máy của Bộ Kế hoạch đầu tư trong đó có việc thành lập Cục ĐTNN tạo điều kiện để thống nhất đầu mối quản lý nhà nước về ĐTNN. Lộ trình áp dụng cơ chế một giá đã được đẩy nhanh. Từ đầu năm 2004, giá vé máy bay được áp dụng chung cho người Việt Nam và người nước ngoài. Chính Phủ đã áp dụng các biện pháp hỗ trợ nhà đầu tư giảm chi phí sản xuất như cắt giảm cước phí viễn thông, hỗ trợ chi phí các công trình điện ngoài hàng rào, nâng tỷ lệ chi phí quảng cáo tiếp tân khánh tiết. Việc mở thêm một số đường bay trực tiếp tới các nước như Hà Nội – osaka đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại của các nhà đầu tư. Từ ngày 01/01/2004, Chính Phủ cũng áp dụng quy chế miễn thị thực nhập cảnh đối với các nước trong khối ASEAN và khách du lịch từ một số nước( Nhật Bản) vào Việt Nam. Công tác chỉ đạo, điều hành của Chính Phủ, của các Bộ, ngành và sự quan tâm chỉ đạo của chính quyền địa phương đã đẩy nhanh lộ trình áp dụng cơ chế một giá, hỗ trợ nhà đầu tư giảm chi phí sản xuât, tiếp tục thực hiện viêc cải cách hành chính, kịp thời tháo gỡ những khó khăn co viẹc triển khia dự án trong công tác đền bù, giải phóng mặt bằng và đầu tư xây dụng, hỗ nhà đầu tư tới chân hàng rào công trình…Chính Phủ đã ban hành Nghị định số 61/2003/NĐ-Chính Phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ KH&ĐT trong đó có việc thành lập Cục ĐTNN, tạo điều kiện thống nhất công tác quản lý ĐTNN về một đầu mối trong Bộ KH&ĐT đã được dư luận và các nhà đầu tư rất quan tâm. 2.1.3. Công tác xúc tiến đầu tư: - Công tác xúc tiến đầu tư đã được triển khai tích cực: Thực hiện Nghị quyết 09 của Chính Phủ và Chỉ thị 19 của Thủ tướng Chính Phủ, kế thừa những năm trước( từ 2001 trở lại đây), công tác xúc tiến đầu tư đã có những bước chuyển biến mãnh mẽ. Việc vận động xúc tiến ĐTNN được tiến hành ở nhiều ngành, nhiều cấp, ở cả trong nước và nước ngoài dưới nhiều hình thức đa dạng như tổ chức các cuộc hội thảo vận động đầu tư ở trong nước và ngoài nước và đã đạt được một số kết quản bước đầu như số lượng doanh nghiệp ĐTNN tăng lên ở một số địa bàn các tỉnh thuộc đồng bằng Sông Hồng( như Vĩnh Phúc, Hải Dương …) phía Đông Nam Bộ( Đồng Nai, Bình Dương) và góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội của địa phương. Thêm vào đó, Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư cùng các ngành, các địa phương tổ chức hàng chục hội thảo xúc tiến đầu tư khác ở trong và ngoài nước, thể hiện sự chuyển biến tích cực về nhận thức của chính quyền các địa phương trong việc thu hút các nguồn vốn trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển. Tuy nhiên, để chấn chỉnh tình trạng tự phát, nội dung hội thảo đơn điệu, kém hiệu quả của các hội thảo xúc tiến đầu tư, Bộ trưởng Bộ KH&ĐT ký công văn số 4416BKH/ĐTNN ngày 22/07/2003 nhằm hướng dẫn, nâng cao chất lượng xúc tiến đầu tư của các địa phương. 2.1.4. Công tác thẩm định dự án: Việc tiếp nhận, thẩm định và cấp phép cho các dự án được tiếp tục thực hiện theo quyết định phân cấp của Thủ tướng Chính Phủ và quyết định uỷ quyền của Bộ trưởng Bộ KH&ĐT cho các Ban quản lý KCN – KCX. Công tác thẩm định cấp phép đầu tư được tiến hành chặt chẽ. Tuy nhiên thủ tục thẩm định vẫn còn phức tạp, thời gian thẩm định một số dự án kéo dài do các văn bản pháp quy và quy hoạch phát triển ngành chưa rõ ràng, phần khác đối với không ít dự án thiếu ý kiến thống nhất giữa các Bộ, ngành. Chính phủ không ngừng hoàn thiện môi trường đầu tư để tạo môi trường đầu tư để môi trường thuận lợi thu hút đầu tư nước ngoài, Luật đầu tư đã không ngừng được cải thiện với tốc độ nhanh để phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo điều kiện cho quá trình hội nhập. 2.4.3.1 Nguyên nhân của những thành tựu đạt được a/ Thành công trong lĩnh vực thu hút vốn ĐTNN trước hết và chủ yếu bắt nguồn từ đường lối, chủ trương của Đảng về đổi mới kinh tế và những tiến bộ trong ổn định nền kinh tế vĩ mô. - Hệ thống chính sách của Việt Nam ngày một hoàn chỉnh đáp ứng với những đòi hỏi mới của nền kinh tế thị trường, nhất là các chính sách liên quan đến quá trình tự do hoá thương mại, lành mạnh hoá các quan hệ tài chính tiền tệ, tạo lập đồng bộ các yếu tố của thị trường hàng hoá và dịch vụ, thị trường lao động và vốn... - Công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động ĐTNN dần đi vào nền nếp; bộ máy tổ chức, quản lý FDI đã hình thành và từng bước kiện toàn từ Trung ương đến địa phương, đủ sức đảm đương nhiệm vụ mới mẻ và quan trọng này. - Các Bộ, ngành và địa phương đã có sự phối hợp với nhau trong việc xây dựng luật pháp, chính sách, quy hoạch liên quan đến FDI; xây dựng kế hoạch, danh mục dự án thu hút vốn FDI làm cơ sở cho việc tổ chức vận động, xúc tiến đầu tư; phối hợp trong việc thẩm định các dự án và cùng giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình hình thành, triển khai và thực hiện dự án ĐTNN. . Việc phân cấp Giấy phép đầu tư, giấy phép xuất nhập khẩu, và giao quyền thực hiện việc quản lý Nhà nước đối với các dự án FDI trên địa bàn lãnh thổ cho một số địa phương và Ban quản lý Khu công nghiệp theo hướng mở rộng quyền cho các địa phương đã góp phần đơn giản hoá thủ tục đầu tư, rút ngắn thời gian cấp giấy phép, nắm chắc hơn hoạt động của các doanh nghiệp FDI và có điều kiện xử lý kịp thời các vấn đề vướng mắc phát sinh... Ngoài Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến nay đã có 16 tỉnh, thành phố thuộc Trung ương và 10 Ban quản lý Khu công nghiệp đã được phân cấp giấy phép. 2.2.Những khó khăn, hạn chế còn tồn tại : 2.2.1.Những hạn chế trong quá trình thực hiện các chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam : Bên cạnh những thành tựu đạt được trong việc thực hiện thu hút vốn ĐTNN trong những năm qua việc ban hành các chính sách về ĐTNN còn thể hiện nhiều điểm hạn chế trên nhiều phương diện, cụ thể: Về Hải quan: + Thủ tục hải quan không rõ ràng, tuỳ tiện áp mã số để tính, giữ hàng để kiểm tra quá lâu, tuỳ tiện tịch thu hàng hoá, đặc biệt là tình trạng tiêu cực của cán bộ hải quan. + Hải quan cửa khẩu thực hiện không thống nhất với nhau và trong một số trường hợp không tuân thủ chỉ đạo của Tổng cục Hải quan. Khi có ý kiến khác nhau giữa Tổng cục Hải quan và Hải quan cửa khẩu, chủ đầu tư thường phải mất nhiều thời gian chờ đợi để được xử lý dứt điểm. Nhiều doanh nghiệp phàn nàn về thủ tục hành chính của Hải quan một số địa phương như thành phố HCM, Đồng Nai... còn nặng nề, làm cho họ mất nhiều thời gian. Những vướng mắc trên bắt nguồn từ những quy dịnh chồng chéo của nhiều cơ quan quản lý Nhà nước và sự thiếu cụ thể, chi tiết của các văn bản hướng dẫn của các Bộ, ngành đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Về thuế : - Thuế suất thuế nhập khẩu đánh vào linh kiện, phụ tùng, phụ kiện, nguyên vật liệu để tiến hành sản xuất trong nước thấp hơn không đáng kể, thậm chí cao hơn thuế suất thuế nhập khẩu sản phẩm hoàn chỉnh. Do vậy, không khuyến khích người sản xuất vì làm thương mại có lợi hơn. - Rất chậm quy định chính sách nội địa hóa, làm cho các nhà đầu tư lúng túng trong việc xây dựng kế hoạch đầu tư cho sản xuất. Hệ thống phân loại thuế theo tiêu chuẩn SKD, CKD, IKD (tiêu chuẩn riêng có ở Việt Nam) không rõ ràng và rất phức tạp, gây khó khăn cho việc tính thuế đối với phụ tùng linh kiện nhập khẩu, đặc biệt là những phụ tùng, linh kiện nhập khẩu để sản xuất lắp ráp ô tô, xe máy, ti vi, hàng điện gia dụng là những sản phẩm mới có ở Việt Nam. Một số doanh nghiệp phản ánh rằng, cùng một loại linh kiện nhập khẩu, Hải quan có thể áp dụng nhiều mã thuế khác nhau làm cho doanh nghiệp không biết trước được mức thuế phải chịu để tính giá thành sản xuất và ký hợp đồng bán sản phẩm. - Thời hạn hoàn thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu nhập vào để sản xuất hàng xuất khẩu chỉ có 90 ngày (theo quy định tại Luật thuế xuất, nhập khẩu) quá ngắn. Hơn nữa, thủ tục hoàn trả thuế phức tạp, chưa rõ ràng làm cho doanh nghiệp mất nhiều thời gian. Nếu được hoàn trả thì doanh nghiệp cũng không được nhận tiền mà thường để khấu trừ vào các khoản phải nộp sau. - Thuế thu nhập cá nhân còn khá cao mặc dù trong năm 2004 Pháp lệnh thuế Thu nhập cá nhân và theo đó là các văn bản hướng dẫn( Nghị định 147/2004/NĐ-Chính Phủ và Thông tu số 81/2004/TT-BTC đã được sửa đổi bổ sung theo hướng có lợi người nộp thuế. Một số doanh nghiệp phản ánh về việc họ không thể tuyển chuyên gia trình độ cao vào làm việc tại Việt Nam vì sự bất hợp lý trong việc đánh thuế thu nhập cá nhân. Nhiều doanh nghiệp Về đất đai : - Giá đất của ta còn quá cao so với nhiều nước trong khu vực. Nếu tính cả chi phí đền bù giải toả thì giá đất bị đẩy lên quá cao. Đây là một yếu tố làm giảm sức cạnh tranh thu hút đầu tư. - Thủ tục cấp đất còn phức tạp, kéo dài. - Việc giao đất, nhất là đối với các dự án có đền bù giải toả kéo dài, nhiều khi vài ba năm, thậm chí có dự án đến 5 năm. - Thời điểm tính giá trị quyền sử dụng đất để góp vốn liên doanh hợp lý. - Trong thực tế, vệc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho doanh nghiệp rất chậm, thông thường phải mất từ 3-6 tháng, có dự án tới 2 năm. Khi chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, doanh nghiệp không thể triển khai dự án được nhưng nhà đầu tư vẫn phải trả tiền thuê đất. Về Xây dựng: - Nhiều địa phương, đặc biệt là ở Hà nội và thành phố HCM chưa có đủ quy hoạch chi tiết tất cả các khu vực nên không thể cấp ngay chứng chỉ quy hoạch cho chủ đầu tư để tiến hành các công việc tiếp theo như lên phương án kiến trúc, thiết kế kỹ thuật... - Thủ tục, phân công trách nhiệm và trình tự thẩm kế công trình xây dựng thuộc nhóm B ở một số địa phương như Hà nội, thành phố HCM chưa rõ ràng. - Việc áp dụng quy chế đấu thầu còn làm chậm tiến độ triển khai dự án. Về nhập thiết bị đã qua sử dụng. - Quy định chất lượng thiết bị còn lại không ít hơn 80% so với nguyên thuỷ và mức tăng tiêu hao nguyên liệu, năng lượng không vượt quá 10% so với nguyên thuỷ cần phải cụ thể hoá mới có thể thực hiện được. - Quy định trong mọi trường hợp khi nhập khẩu thiết bị đã qua sử dụng phải nộp chứng thư giám định chất lượng hàng hoá mà không có bất cứ miễn trừ nào gây phiền hà cho các doanh nghiệp. Quy định phải có văn bản xác nhận tư cách pháp nhân của tổ chức giám định chất lượng do cơ quan chức năng của nước sở tại cấp cho phép hành nghề giám định kỹ thuật chỉ mang tính hình thức và dễ gây bất bình cho nhà đầu tư. - Quy định việc kiểm tra bắt buộc đối với thiết bị, dây chuyền, cxí nghiệp lớn với tổng giá trị hợp đồng mua từ 1tr.USD trở lên làm cho nhiều nhà đầu tư lo ngại. Vấn đề lao động: - Thủ tục tuyển dụng lao động là người nước ngoài quá phức tạp, khó thực hiện. - Việc tuyển dụng lao động phải qua trung tâm dịch vụ gây mất nhiều thời gian, chi phí cao nhưng chất lượng lại thấp - Tỷ lệ lao động người nước ngoài trong một số lĩnh vực bị hạn chế( thậm chí có nhữnh lĩnh vực bị hạn chế lao động người nước ngoài chỉ phép được 3 người) 2.2.2.Nguyên nhân gây ra những hạn chế trong việc thu hút ĐTNN : Nguyên nhân chính gây ra những hạn chế trên là do sự kém hấp dẫn của môi trường đầu tư tại Việt Nam. Hiện nay, các nhà ĐTNN đánh giá môi trường đầu tư Việt Nam đang mất dần tính cạnh tranh và hấp dẫn so các nước trong khu vực, cụ thể là : -Thủ tục hành chính rườm rà, mất quá nhiều thời gian : Thủ tục cấp phép đã cải tiến nhưng lại dẫn đến tình trạng một cửa nhiều khoá, phối hợp giữa các ngành còn chưa kịp thời, địa phương cần xin ý kiến của trung ương cần mất nhiều thời gian, thủ tục sửa giấy phép đầu tư thường quá rườm rà, tỉ mỉ làm hạn chế đầu tư thêm; phương thức nộp thuế, thủ tục, thời gian hoàn thuế giá trị gia tăng, chế độ tài chính kế toán, chế độ quản lí ngoại hối …cũng nhiều hạn chế, phức tạp.Chính những thủ tục hành chính này đã gây cản trở đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Đặc biệt là các tiêu cực phát sinh trong quá trình thực hiện các thủ tục ( hiện tượng sách nhiễu, phiền hà, làm biến dạng chính sách, việc hình sự hoá các quan hệ kinh tế…) đã làm gia tăng những ảnh hưởng không tốt đến những nhà đầu tư nước ngoài làm ăn chân chính, nghiêm túc. -Hệ thống pháp luật, chính sách đang trong quá trình thực hiện nên thiếu tính đồng bộ và không hoàn chỉnh, chưa đảm bảo tính rõ ràng và dự báo được trước. - Một số trường hợp chưa tính kĩ đến lợi ích chính đáng của nhà đầu tư nên đã làm đảo lộn phương án kinh doanh và gây thiệt hại cho họ. Nhiều văn bản dưới luật ban hành chậm so với quy định, chậm đi vào cuộc sống. Một số văn bản hướng dẫn của các bộ, ngành địa phương có xu hướng xiết lại, “đẻ” thêm qui định, dẫn đến tình trạng trên thoáng dưới chặt, thậm chí chồng chéo, thiếu thống nhất gây khó khăn cho hoạt động của doanh nghiệp. - Danh mục lĩnh vực không cấp phép và cấp giấy phép đầu tư có điều kiện của ta còn chung chung, ít hình thức đầu tư. - Hệ thống pháp luật về ĐTNN còn thiếu những quy định chặt chẽ để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, loại trừ những mâu thuẫn, chồng chéo đặc biệt là trong quy định của các Bộ, ngành và địa phương. - Hệ thống pháp luật về ĐTNN hiện chưa phát huy hết hiệu quả định hướng thu hút đầu tư. - Hình thức tổ chức doanh nghiệp có vốn ĐTNN chưa đa dạng. - Những biện pháp bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của nhà đầu tư trong trường hợp có sự thay đổi chính sách, pháp luật chưa cụ thể, chưa thể hiện sự nhất quán và ổn định của pháp luật, do vậy gây tâm lý thiếu tin tưởng cho các nhà đầu tư. - Đặc biệt việc thi hành luật pháp chưa nghiêm, đôi khi còn tuỳ tiện, công tác kiển tra, thực thi luật pháp chưa nghiêm, đôi khi còn tuỳ tiện, công tác kiểm tra, thực thi luật pháp còn lỏng lẻo. . Hệ thống pháp lý chung về kinh tế tạo môi trường cho hoạt động kinh doanh còn chưa hoàn thiện. Chẳng hạn còn thiếu các Luật về Ngân hàng, Hải quan, Luật kinh doanh bất động sản, Luật cạnh tranh và chống độc quyền... Các nghị định hướng dẫn luật thương mại ban hành chậm và chưa đầy đủ. . Hệ thống pháp lý liên quan trực tiếp đến FDI đang không ngừng bổ sung hoàn thiện nhưng vẫn còn có những quy định chưa thực sự khuyến khích ĐTNN. - Luật pháp, chính sách chưa tạo ra một "sân chơi bình đẳng" giữa đầu tư trong nước và nước ngoài, chưa đa dạng hoá các hình thức thu hút vốn đầu tư. - Một mặt, do các văn bản hướng dẫn thi hành Luật ĐTNN quá nhiều, được soạn thảo bởi nhiều cơ quan và ban hành ở những thời điểm khác nhau, trong khi tuyên truyền, giải thích các văn bản không kịp thời nên cán bộ các cấp không nắm được đầy đủ và có tính hệ thống về pháp luật FDI dẫn đến vận dụng, xử lý không đúng. Mặt khác, do xuất pháp từ chức năng quản lý ngành, kể cả lợi ích của ngành, nên có những văn bản hướng dẫn của ngành siết lại, của các địa phương đẻ thêm các quy trình tạo nên tình trạng "trên thoáng dưới chặt". Nhiều trường hợp do quy định thiếu cụ thể nên mỗi nơi hiểu và vận dụng một cách, thậm chí có trường hợp cố tình vận dụng sai để mưu lợi ích cá nhân. - Sau khi ban hành Luật, những biện pháp ưu đãi đầu tư về tài chính, ngân hàng, ngoại hối... chưa được cụ thể hoá đầy đủ hoặc chưa có quy định rõ ràng làm yên tâm các nhà đầu tư, đặc biệt là những biện pháp ưu đãi đối với những địa bàn và lĩnh vực khuyến khích đầu tư. - Sự hiểu biết pháp luật, chính sách về ĐTNN của cán bộ các cấp, các ngành còn nhiều hạn chế dẫn đến việc vận dụng tuỳ tiện, thiếu nhất quán trong không ít trường hợp làm giảm tính hấp dẫn và hiệu lực của hệ thống pháp luật về đầu tư. Qua 17 năm xây dựng và thực hiện pháp luật về ĐTNN tại Việt Nam, đội ngũ cán bộ làm về đầu tư ở các Bộ, ngành và địa phương đã có sự trưởng thành đáng kể. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn nhiều trường hợp vận dụng tuỳ tiện và thiếu nhất quán pháp luật, chính sách về ĐTNN do hạn chế về trình độ của những cán bộ thực hiện pháp luật. Điều này đã làm ảnh hưởng đến môi trường đầu tư ở Việt Nam. Trong những năm vừa qua, thấy rõ được tầm quan trọng và tính quyết định của công tác cán bộ, ta đã chủ động mở nhiều lớp đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn những kiến thức cơ bản về hợp tác đầu tư với nước ngoài nhưng mới chỉ giải quyết được yêu cầu trước mắt, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển lâu dài. - Những biện pháp quản lý, kiểm tra còn thiếu cụ thể và chặt chẽ để vừa bảo đảm hiệu lực quản lý nhà nước, vừa tránh phiền hà cho hoạt động của các dự án ĐTNN. - Thủ tục đầu tư đã được cải tiến đơn giản và thuận tiện hơn nhưng ở một số khâu như thủ tục liên quan đến đất đai, hải quan, xuất nhập khẩu còn chậm, phức tạp gây phiền hà cho các nhà đầu tư - Việc thực thi của các cấp dưới chưa nghiêm, nhưng việc kiểm tra xử lý của cấp trên lại chưa chặt chẽ, kịp thời gây nhiều trở ngại phiền hà, làm mất lòng tin của nhà đầu tư nước ngoài. Một số chính sách của chính phủ còn chậm đưa vào cuộc sống mà các cơ quan cấp dưới lại không chấp hành nghiêm chỉnh làm giảm lòng tin cộng đồng đầu tư nước ngoài đối với các quyết định của Chính Phủ, như việc thanh toán chậm tiền đầu tư công trình hạ tầng ngoài hàng rào doanh nghiệp do các nhà đầu tư nước ngoài đã ứng trước để xây dựng, giảm lệ phí tham quan … Chương III giải pháp hoàn thiện công tác quản lý Nhà nước về Đầu tư nước ngoài 3.2.1. Thống nhất quan điểm nhận thức chung về FDI : Cần thống nhất quan điểm nhận thức chung về FDI, đặc biệ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0205.doc
Tài liệu liên quan