Đề tài Đánh giá hiệu quả sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước Việt Nam thập kỷ 90 và những năm đầu thế kỉ 21

MỤC LỤC

Phần I: Mở đầu . Trang 2

Phần II:Nội dung . .4

Chương 1: Tổng quan về CSTT và các công cụ của CSTT

 1.1 : Mục tiêu của chính sách tiền tệ . .4

 1.1.1 : Khái niệm chính sách tiền tệ . .4

 1.1.2 : Mục tiêu của chính sách tiền tệ . . .4

 1.1.2.1: Ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát 5

 1.1.2.2: Tạo việc làm .6

 1.1.2.3: Tăng trưởng kinh tế 7

 1.1.2.4: Quan hệ giữa các mục tiêu .8

 1.1.3 : Công cụ của chính sách tiền tệ . .9

 1.1.3.1: Nghiệp vụ thị trường mở . 9

 1.1.3.2: Chính sách tái chiết khấu . . . . . . . . .11

 1.1.3.3: Dự trữ bắt buộc 12

Chương 2: Thực trạng của việc sử dụng các công cụ CSTT của NHNN Việt Nam trong thập kỷ 90 và những năm đầu thế kỷ 21

 2.1. : Thực trạng của việc sử dụng các công cụ CSTT của NHNN

 Việt Nam 16

 2.1.1: Nghiệp vụ thị trường mở .17

 2.1.1: Dự trữ bắt buộc .20

 2.2. : Những kết quả đạt được . .27

 2.1.1: Hoạt động thị trường mở .27

 2.2.2: Dự trữ bắt buộc 28

 2.3. : Khó khăn, tồn tại . . . 29

 2.3.1: Đối với nghiệp vụ thị trường mở 29

 2.3.2: Đối với chính sách dự trữ bắt buộc .30

 2.4. : Nguyên nhân . .30

Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả của việc sử dụng các công cụ dự trữ bắt buộc ở Việt Nam trong thời gian tới.

 3.1 : Giải pháp đối với công cụ chính sách tiền tệ . .32

 3.1.1: Đối với nghiệp vụ thị trường mở .32

 3.1.2: Đối với công cụ dự trữ bắt buộc .34 Kết luận . .37

Danh mục tài liệu tham khảo . .38

Mục lục . 39

doc36 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1304 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá hiệu quả sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước Việt Nam thập kỷ 90 và những năm đầu thế kỉ 21, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng tín dụng tức chỉ tiêu tín dụng cho nền kinh tế còn được phép cung ứng thêm Bản thân các NHTM đem thương phiếu để tái chiết khấu phải là những thương phiếu tốt. Ưu điểm của biện pháp này là các khoản cho vay của NHTM được thực hiện trên cơ sở các giấy tờ có giá. Do đó, nó có khả năng thanh toán cao. Nhược điểm của biện pháp này là NHTW bị thụ động trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng. Bơỉ vì NHTW chỉ có thể thay đổi lãi suất chiết khấu nhưng không thể bắt buộc các NHTM vay chiết khấu ở NHTW. 1.1.3.3. Dự trữ bắt buộc. Ngân hàng TW được giao quyền bắt buộc các NHTM phải kí gửi tại NHTW một phần trong tổng số tiền gửi mà NHTM nhận từ dân cư và các thành phần kinh tế theo tỉ lệ dự trữ bắt buộc. Tỷ lệ phần trăm mà NHTW qui định như trên gọi là tỉ lệ dự trữ bắt buộc. NHTW sử dụng dự trữ bắt buộc tác động đến lượng tiền cung ứng trên hai phương diện. Tỉ lệ dự trữ bắt buộc tác động đến cơ chế tạo tạo tiền của NHTM. Theo thuyết tao tiền, từ lượng tiền ban đầu NHTM có thể tạo ra lượng tiền lớn gấp nhiều lần. Ta có công thức: Tiền gửi mới được tạo ra = Tiền dự trữ ban đầu*(1/ tỉ lệ dự trữ bắt buộc) (1/ tỉ lệ dự trữ bắt buộc) : là hệ số nhân tiền tệ. Với các giả thiết: Các NHTM không có tiền dự trữ dư thừa so với tỉ lệ dự trữ bắt buộc mà NHTW yêu cầu. Các khoản tiền gửi do các NHTM tạo ra đều được giữ lại trong hệ thống ngân hàng. Vậy việc tăng hoặc giảm lượng dự trữ bắt buộc có ảnh hưởng rất lớn đến lượng tiền được tạo ra. Ti lệ dự trữ bắt buộc tác động đến lãi suất cho vay của hệ thống NHTM. Mỗi NHTM phải mở tài khoản tiền dự trữ bắt buộc ở NHTW và không được hưởng lãi, trong khi đó NHTM vẫn phải trả lãi cho khoản tiền đó. Vì vậy, khi mức dự trữ tăng lên đòi hỏi NHTM phải tăng lãi suất cho vay đối với nền kinh tế, giá các khoản vay đắt hơn, khả năng cho vay của NHTM giảm xuống và theo đó lượng tiền cung ứng cũng giảm xuống. Ngược lại khi tỉ lệ dự trữ bắt buộc giảm, các NHTM có cơ hội giảm lãi suất cho vay đối với nền kinh tế, giá các khoản vay rẻ hơn, tăng khả năng cho vay của NHTM vì thế lượng tiền cung ứng tăng. Mục đích thực hiện dự trữ bắt buộc nhằm: Giới hạn khả năng thương mại của ngân hàng trung gian, tránh được việc ngân hàng này quá ham lợi nhuận mà cho vay quá mức có thể phương hại đến quyền lợi người gửi tiền tức là đảm bảo an toàn tiền gửi của khách hàng. Duy trì khả năng thanh toán của ngân hàng trung gian trong những trường hợp xảy ra tình trạng đồng loạt rút tiền gửi của công chúng, tránh được tình trạng khủng hoảng. Việc tập chung dự trù của ngân hàng trung gian ở NHTW còn là một phương tiện để NHTW có thêm quyền lực để điều khiển hệ thống ngân hàng, tạo sự lệ thuộc của NHTM với NHTW. Lượng dự trữ bắt buộc mà NHTW qui định đối với NHTM có ảnh hưởng rất lớn đến lợi nhuận mà NHTM thu được. Khi tỉ lệ dự trữ bắt buộc tăng, khả năng cho vay của NHTM giảm như vậy lợi nhuận thu được sẽ giảm. Ngược lại tỉ lệ dự trữ bắt buộc giảm, lượng tiền NHTM có khả năng cho vay lớn, lợi nhuận sẽ tăng, vì thế khi quyết định thay đổi tỉ lệ dự trữ bắt buộc NHTW đòi hỏi phải nghiên cứu một cách kỹ lưỡng để NHTW không bị lỗ và cộng tác với NHTM, trong việc thực thi chính sách tiền tệ. NHTW có thể trả lãi cho mức dự trữ thặng dư nào đó của NHTM, kèm theo một chính sách lãi suất thích hợp. Thêm vào đó NHTW có thể vận dụng mức dự trữ bắt buộc một cách uyển chuyển hơn bằng cách phân biệt mức dự trữ bắt buộc. Chẳng hạn do tính chất thanh khoản của mỗi loại tiền gửi, NHTW có thể qui định tỷ lệ dự trữ bắt buộc của tiền gửi không kỳ hạn cao hơn tỉ lệ dự trữ bắt buộc của tiền gửi có kỳ hạn. Điểm lợi chính của việc sử dụng dự trữ bắt buộc là nó có thể tác động tới tất cả các ngân hàng như nhau và có tác dụng đầy quyền lực đến cung ứng tiền tệ. Nhưng hạn chế của nó là sự thay đổi nhỏ tỉ lệ dự trữ bắt buộc sẽ tạo ra một sự thay đổi lớn của lượng tiền cung ứng và nó có thể tạo ra một cú sốc với nền kinh tế. Khi bị “ lỡ tay “ trong việc qui định tỉ lệ dự trữ bắt buộc thì NHTW không kịp bổ sung. Đặc biệt với những nước có lượng tiền mặt lớn trong lưu thông như ở Việt Nam thì tỉ lệ dự trữ bắt buộc chưa có tác động mạnh đến lượng tiền cung ứng. Biện pháp thay đổi dự trữ bắt buộc cần phải thực hiên một cách thận trọng và muốn có hiệu quả phải đi kèm với các biện pháp khác, cần phải có nhà hoạch định chính sách có khả năng. CHƯƠNG 2. Thực trạng của việc sử dụng các công cụ chính Sách tiền tệ của NHNN Việt nam,trong thập kỷ 90 và những năm đầu thế kỷ 21 2.1. Thực trạng của việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước việt nam Từ những năm 1976 đến 1985 hệ thống Ngân hàng Việt Nam (NHVN) đã tập trung vào việc xây dựng một hệ thống ngân hàng XHCN thống nhất trong cả nước, củng cố tiền tệ, đẩy mạnh hoạt động tín dụng phục vụ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Đồng thời hệ thống ngân hàng Việt Nam đã mở rộng quan hệ với các ngân hàng trong khối XHCN và các nước khác. Trong gia đoạn hơn 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước hệ thống NHVN đã thực sự chuyển mình, góp phần nhất định vào việc chuyển đổi nền kinh tế sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Bộ mặt kinh tế Việt Nam cũng có những thay đổi đáng ghi nhận. Với sự ra đời của hai pháp lệnh ngân hàng, sự chuyển đổi hệ thống ngân hàng đã trả lại đúng vị trí, chức năng, nhiệm vụ cho từng hệ thống ngân hàng. Từ năm 1991 đến nay, cùng với công cuộc đổi mới ngân hàng , hệ thống các côn cụ chính sách tiền tệ cũng được hình thành và phát triển. Trong điều kiện thị trường tiền tệ và thị trường tài chính chưa phát triển, NHNNVN thực hiện kiểm soát tiền tệ thông qua việc sử dụng các công cụ trực tiếp: ấn định khung lãi suất tiền gửi cho vay, ấn định hạn mức tín dụng, cung ứng tiền mặt pháp định, kết hợp với công cụ gián tiếp: dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở và từng bước đổi mới chuyển từ sử dụng các công cụ trực tiếp sang công cụ gián tiếp phù hợp với thông lệ quốc tế và xu thế phát triển của nền kinh tế đất nước. Các công cụ chính sach tiền tệ đã phát huy tác dụng góp phần vào thành tựu hoạt động ngân hàng trong những năm qua. Trong giới hạn của đề án để tập trung đi sâu vào nghiên cứu nên trong phần này em tập trung vào nghiên cứu hai công cụ của chính sách tiền tệ: Nghiệp vụ thị trường mở và công cụ dự trữ bắt buộc. Trên thực tế, để đạt được những mục tiêu của chính sach tiền tệ, các công cụ chính sách tiền tệ đã được NHNN VN sử dụng như sau. 2.1.1 Nghiệp vụ thị trường mở. Đối với các nước có nền kinh tế phát triển lâu đời thì công cụ thị trường mở được xem như là một trong những công cụ linh hoạt nhất và lợi hại nhất, song ở Việt Nam lại mới được vận hành còn ở mức hết sức mới mẻ và sơ khai. Trên thực tế, để có thể sử dụng linh hoạt công cụ thị trường mở điều cần thiết đặt ra là phải có một thị trường giấy tờ có giá trị tồn tại và được vận hành trong guồng máy kinh tế. Mặt khác, thị trường mở được xem là bộ phận hoạt động của thị trường tiền tệ đã phát triển ở giai đoạn cao. Đến tháng 7 năm 1993 thị trường nội tệ liên ngân hàng đã được đưa vào hoạt động. Song thị trường này mới mua, bán bằng lãi suất chứ chưa sử dụng nghiệp vụ thị trường mở. Bên cạnh đó, các bộ phận quan trọng cấu thành thị trường vốn như thị trường hối đoái, thị trường chứng khoán thì mới ở dạng manh nha buổi ban đầu thiết lập. Tình hình hoạt động đấu thầu trái phiếu kho bạc NHNN mới chỉ hoạt động “một chiều“, kể cả sau đó NHTM và công chúng chuyển nhượng cho nhau thì cũng không thể vì thế mà làm thay đổi cơ số tiền tệ trong lưu thông. Trên thực tế, cũng có trường hợp một NHTM mang số trái phiếu đang nắm giữ đến thế chấp vào Ngân hàng Nhà nước xin vay chiết khấu nhưng đó chỉ là hoạt động cá biệt quan hệ tay đôi ngẫu nhiên để giải quyết tình huống đột xuất chứ không phải là một nghiệp vụ chủ động điều chỉnh cơ số tiền tệ trong lưu thông như chính sách thị trường mở các nước đang áp dụng. Như vậy, do thị trường chứng khoán ở nước ta còn sơ khai nên nghiệp vụ thị trường mở chưa phát triển mạnh . Tuy nhiên sau một quá trình nỗ lực chuẩn bị ngày 12/7/2000 nghiệp vụ thị trường mở do Ngân hàng Nhà nước chủ trì đã mở phiên giao dịch đầu tiên đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong điều hành chính sách tiền tệ của NHTW. Trong thời gian qua, việc điều hành đã diễn ra theo đúng quy định và luôn bám sát tình hình thực tế, diễn biến của thị trường tiền tệ. Từ đó, đưa ra những quyết định về hình thức, khối lượng và thời gian giao dịch. Nghiệp vụ thị trường mở đã hoạt động nhịp nhàng và đạt được những mục tiêu đã đề ra. Ngân hàng Nhà nước bước đầu đã sử dụng thành công một công cụ mới để điều hành chính sách tiền tệ. Sau hơn một năm hoạt động, tính đến cuối năm 2001, thị trường mở đã có 21 thành viên trong đó có 4 Ngân hàng Thương mại Quốc doanh, 10 Ngân hàng Thương mại cổ phần, 4 chi nhánh Ngân hàng ở nước ngoài, 1 Ngân hàng liên doanh, quỹ tín dụng Trung ương và 1 Công ty Tài chính. Số thành viên tham gia chưa đông bởi vì họ còn thăm dò hoạt động của thị trường còn mới mẻ này. Mặt khác, hàng hoá giao dịch trên thị trường chỉ có tín phiếu kho bạc và Tín phiếu Ngân hàng Nhà nước mà những loại hàng hoá này lại do một số ít Ngân hàng nắm giữ. Trong số 21 thành viên này, chỉ có 4 Ngân hàng Thương mại Quốc doanh thường xuyên giao dịch, do các Ngân hàng này nắm hơn 70% lượng hàng hoá chính thức đủ điều kiện để giao dịch trên thị trường mở. Trong các tháng cuối năm 2000, bình quân 10 ngày Ngân hàng Nhà nước tổ chức một phiên giao dịch thị trường mở. Trong thời gian này Ngân hàng Nhà nước áp dụng phương thức đấu thầu lãi suất, chỉ duy nhất 4 phiên đầu tiên áp dụng phương thức đấu thầu khối lượng. Lãi suất đăng ký dao động trong khoảng 4,00%/năm đến 5,58%/năm. Nhìn chung lãi suất này đã phần nào phản ánh được diến biến tình hình lãi suất của thị trường. Bởi vì trong những phương thức đấu thầu lãi suất Ngân hàng Nhà nước đã không quy định lãi suất chỉ đạo xét thầu. Trong tháng 8/2000, do lượng vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng có dư thừa nên Ngân hàng Nhà nước đã tiến hành bán tín phiếu Ngân hàng Nhà nước nhằm thu hút số vốn này, đồng thời có thể tạo thêm lượng hàng hoá cho thị trường mở. Trong ba phiên liên tiếp của tháng 8/2000, Ngân hàng Nhà nước đã bán hẳn 550 tỷ đồng đạt kết quả 100% so với dự kiến. Từ tháng 9 đến cuối tháng 12 năm 2000 do có sự hạn chế của Ngân hàng Nhà nước ở cửa số chiết khấu (có thể đây là hình thức hỗ trợ cho sự vận hành nghiệp vụ thị trường mở mới ra đời) và nhu cầu tín dụng đồng Việt Nam tăng nhanh (do vay ngoại tệ chịu rủi ro lớn tỉ giá chịu sức ép tăng cao) trong khi huy động tiền gửi tăng chậm có sự chuyển dịch cơ cấu huy động giữa ngoại tệ và nội tệ do lãi suất huy động ngoại tệ tăng, dẫn đến khan hiếm vốn khả dụng trong các tổ chức tài chính, Ngân hàng Nhà nước đã sử dụng giao dịch đảo chiều, mua giấy tờ có giá trị trong 14 phiên liên tục với doanh số 1353,5 tỉ đồng. Từ đầu năm 2001, Ban điều hành nghiệp vụ thị trường mở quyết định tiến hành giao dịch thường xuyên hàng tuần vào thứ 4 nhằm làm cho các thành viên kịp thời theo dõi, nắm bắt kịp thời các thông tin về thị trường. Từ 10/1/2001 đến 15/2/2001, lượng vốn khả dụng tiếp tục thiếu hụt do nhu cầu tiền mặt tăng, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục mua vào giấy tờ có giá chủ yếu là mua có kì hạn do tính đến yếu tố lượng vốn khả dụng có thể tăng lên sau tết. Từ ngày 21/2 đến ngày 14/3/2001, lượng vốn khả dụng có biểu hiện dư thừa, để rút bớt phương tiện thanh toán khỏi hệ thống tổ chức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước thực hiện bán hẳn lượng giấy tờ có giá với giá trị là 470 tỉ đồng. Từ 21/3 đến 30/5/2001, do nhu cầu vốn khả dụng tăng, Ngân hàng Nhà nước thực hiện mua có kì hạn giấy tờ có giá trị với tổng giá trị 745 tỉ đồng. Duy nhất có một phiên giao dịch 11/4/2001, do các tổ chức tín dụng bỏ thầu không hợp lệ nên không có tổ chức nào trúng thầu mặc dù vẫn có nhu cầu về vốn khả dụng. Hai phiên giao dịch tiếp theo Ngân hàng Nhà nước thực hiện giao dịch mua hẳn với tổng khối lượng trúng thầu đạt 60 tỉ đồng. Từ 20/6 đến 31/10/2001 Ngân hàng Nhà nước lại tiến hành mua có kì hạn tín phiếu (kì hạn 15 - 30 ngày), tổng giá trị đạt 2308,81 tỉ đồng. Trong tháng 11/2001, do lượng vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng vẫn ở mức cao nên 4 phiên giao dịch liên tiếp không có thành viên nào tham gia giao dịch. Đầu tháng 12/2001 lần đầu tiên kể từ khi khai trương Ngân hàng Nhà nước đã tiến hành giao dịch bán với kỳ hạn 1 tháng, hai phiên đầu tháng khối lượng chào bán là 250 tỉ đồng nhưng khối lượng trúng thầu chỉ đạt 150 tỉ đồng. Trong năm 2002, đến ngày 5/9 Ngân hàng Nhà nước đã tổ chức 52 phiên giao dịch. Tháng 5/2002 Ban điều hành nghiệp vụ thị trường mở Ngân hàng Nhà nước quyết định tổ chức thường xuyên hai phiên giao dịch mỗi tuần vào thứ 3 và thứ 5. Trong 52 phiên giao dịch đó có 9 phiên thực hiện bán hẳn với tổng khối lượng trúng thầu là 900 tỉ đồng trong tổng số 2500 tỉ dự kiến bán. Còn 43 phiên giao dịch mua có 20 phiên không có tổ chức tín dụng nào trúng thầu, đặc biệt sau khoảng thời gian từ 20/6 đến 15/8 tổng khối lượng trúng thầu của các phiên giao dịch mua có kì hạn từ đầu năm đến 5/9/2002 là 5771.53 tỉ đồng. Như vậy, kể từ khi khai trương đến 5/9/2002 Ngân hàng Nhà nước đã tổ chức được 118 phiên giao dịch thị trường mở với tổng khối lượng trúng thầu đạt 7671,53 tỉ đồng. Lãi suất hình thành trên thị trường mở đã bám sát lãi suất của các tổ chức tín dụng. Đặc biệt với việc cung ứng vốn thông qua nghiệp vụ thị trường mở đã góp phần thực hiện chủ trương kích cầu của Chính phủ. Có thể nói, Ngân hàng Nhà nước đã thành công trong việc đưa một công cụ mới vào chính sách điều hành tiền tệ. Nó góp phần quan trọng vào việc điều hành vốn khả dụng trong nền kinh tế và còn là “van an toàn” để đảm bảo khả năng thanh toán trong trường hợp thị trường có đột biết khiến các tổ chức tín dụng lâm vào tình trạng thiếu vốn khả dụng. 2.1.2 Dự trữ bắt buộc. ở Việt Nam, việc thực hiện dự trữ bắt buộc là một trong những điều kiện cần thiết để tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước xem xét là đối tượng để Ngân hàng Nhà nước tái cấp vốn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Mà còn có tác dụng nâng cao an toàn khả năng chi trả của Ngân hàng và các tổ chức tín dụng có hoạt động nhận tiền gửi của dân cư. Như vậy, xét về mặt nguyên tắc lâu dài, dự trữ bắt buộc vừa là quyền lợi và nghĩa vụ của Ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Công cụ dự trữ bắt buộc lần đầu tiên được pháp luật quy định trong pháp lệnh về Ngân hàng Nhà nước tháng 5/1990, trong đó Ngân hàng Nhà nước quy định tỉ lệ dự trữ bắt buộc ít nhất ở mức 10% và nhiều nhất 35% trên toàn bộ tiền gửi của các tổ chức tín dụng. Song xét hoàn cảnh thực tế, tiềm lực của các Ngân hàng Thương mại còn nhỏ bé và mức lạm phát đã được kiểm soát đáng kể nên Ngân hàng Nhà nước Viêt Nam quy định dự trữ bắt buộc ở trên dưới 10% đối với từng loại tiền gửi vào các năm 1994. Trước sự phát triển của các tổ chức tín dụng và diễn biến của nền kinh tế tăng trưởng liên tục, lạm phát có xu hướng giảm dần, năm 1995, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã thay đổi cơ cấu tiền dự trữ bắt buộc cho phù hợp cụ thể là: Thống nhất một tỷ lệ dự trữ bắt buộc 10% cho tiền gửi không kỳ hạn thay cho 13% và 8% đối với tiền gửi có kỳ hạn như trước đây. Dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi (tính theo %) Loại tiền gửi Tỉ lệ dự trữ mức tối thiểu 1/3/1994 1/11/1994 1/10/1995 Tiền gửi không kỳ hạn 13 13 10 Tiết kiệm không kỳ hạn 13 13 10 Tiền gửi kỳ hạn 3 tháng 7 8 10 Tiền gửi kỳ hạn 6 tháng 7 8 10 Kì phiếu có mục đích, tín phiếu 7 8 10 (Nguồn: vụ nghiên cứu kinh tế - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) Tuy nhiên tính đến năm 1995, công cụ dự trữ bắt buộc vẫn còn kém hiệu quả do phương thức thanh toán chủ yếu bằng tiền mặt để thực hiện các giao dịch thanh toán, giao dịch của nước ta, nhiều Ngân hàng có mức dự trữ rất cao để đáp ứng nhu cầu rút tiền của khách hàng. Theo tính toán tỉ lệ dự trữ của Ngân hàng Thương mại quốc doanh khoảng 30%. Trong khi đó theo quy định các Ngân hàng Thương mại phải giữ mức dự trữ bắt buộc tối thiểu vào tài khoản tại NHTW song trên thực tế các NHTM đã không thực hiện nghiêm túc: theo điều tra chỉ có Ngân hàng Ngoại thương đảm bảo được mức dự trữ bắt buộc còn Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Nông nghiệp, Ngân hàng Đầu tư phát triển chỉ thực hiện ở mức 6-7%. Còn các Ngân hàng Thương mại Quốc doanh có tỉ lệ dự trữ bắt buộc 1%. Mặt khác chế độ xử phạt với các Ngân hàng Thương mại vi phạm không được nghiêm túc nên trong chừng mực nhất định đã giảm hiệu quả của công cụ dự trữ bắt buộc. Từ 1996 dến 1997 Ngân hàng Nhà nước tiếp tục thực hiện cơ chế dự trữ bắt buộc ban hành tháng 10/1995 nhằm tăng thêm hiệu lực của công cụ này để kiểm soát sự tăng hệ số và tổng phương tiện thanh toán của nền kinh tế. Tỉ lệ dự trữ bắt buộc được áp dụng cho các tổ chức tín dụng trừ Quỹ tín dụng nhân dân, Ngân hàng cổ phần Nông thôn, Hợp tác xã tín dụng. Tiền gửi dự trữ bắt buộc được hợp nhất với tiền gửi thanh toán vào một tài khoản không kỳ hạn tại Ngân hàng Nhà nước. Tiền gửi dự trữ bắt buộc vượt mức được hưởng lãi suất 0,1%/tháng, đồng thời các tổ chức tín dụng thiếu dự trữ bắt buộc bị phạt theo lãi suất phạt quy định. Những quy định này đã khuyến khích các Ngân hàng Thương mại chủ động trong hoạt động kinh doanh và thực hiện dự trữ bắt buộc phù hợp mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ trong giai đoạn đó. Từ năm 1997 đến nay, do những yêu cầu mới về chính sách tiền tệ cũng như những yêu cầu mới của sự phát triển hệ thống tài chính tín dụng trong điều kiện nền kinh tế sau một thơì gian tăng trưởng mạnh nay đã có dấu hiệu chững lại do ảnh hưởng của nền kinh tế khu vực. Ngày 12/12/1997 Quốc hội thông qua Luật Ngân hàng Nhà nước và các Tổ chức tín dụng, đây là bước ngoặt quan trọng, nó tạo ra hành lang pháp lý hoàn thiện hơn đáp ứng những đòi hỏi khách quan của nền kinh tế thị trường. Quy chế dự trữ bắt buộc lần này được quy định cụ thể hơn, linh hoạt hơn thể hiện ở việc quyết định tiền gửi dự trữ bắt buộc tại Ngân hàng Nhà nước chung cho các tổ chức tín dụng và các loại tiền gửi huy động có kỳ hạn dưới 12 tháng là 10%. Đối với Ngân hàng Nông thôn và Quỹ tín dụng nhân dân tạm thời chưa phải thực hiện dự trữ bắt buộc. Ngân hàng Nhà nước không trả lãi suất cho tiền gửi dự trữ bắt buộc, đối với khoản tiền dự trữ vượt quá được hưởng lãi suất 0,2%/tháng đối với VNĐ và hưởng lãi 4,86% /1 năm đối với ngoại tệ USD. Đồng thời, những tổ chức thiếu dự trữ bắt buộc thì bị phạt ở mức 200% lãi suất cho vay tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước (đối với dự trữ bằng VNĐ ) 200% trần lãi suất cho vay bằng USD do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định trong từng thời kỳ (đối với dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ). Mặc dù năm1998 là một năm đầy khó khăn đối với Việt Nam. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 đã nhanh chóng lan ra và ảnh hưởng đến diện mạo của nền kinh tế, thiên tai liên tiếp xảy ra đe doạ nền sản xuất và cuộc sống của hơn 76 triệu người. Song có thể thấy Ngân hàng Nhà nước đã cố gắng bằng mọi biện pháp đồng bộ thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt trên cơ sở thực hiện đúng tinh thần của Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng mới ban hành. Kết quả là cơ cấu tổng phương tiện thanh toán đã có sự thay đổi theo hướng tích cực. Tỉ trọng tiền mặt tính đến 31/12/1998 là 26,6% giảm mạnh so với tỉ trọng 30,8% năm 1997. Tỉ trọng tiền gửi tăng cao trong đó tỉ trọng tiền gửi có kỳ hạn đang ở mức 41% năm 1997 đã tăng lên ở mức 50,6% năm 1998. Như vậy, từ đầu thập kỷ 90 cho đến năm 1998 Ngân hàng Nhà Nước đều thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt để thực hiện mục tiêu kìm chế lạm phát ở mức phù hợp với điều kiện tăng trưởng kinh tế và trên thực tế chúng ta đã đạt được điều ấy. Tuy nhiên bước vào năm 1999, tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại, sức mua trên thị trường giảm mạnh. Trong tháng 8 giá cả liên tiếp xuống. Để tháo gỡ khó khăn này, kích thích tăng trưởng kinh tế một trong những biện pháp quan trọng là kích cầu mà trước hết là nới lỏng chính sách tiền tệ. Ngày 10/2/1999 Thống đốc Ngân hàng Nhà Nước đã ban hành quy chế dự trữ bắt buộc kèm theo quyết định số 51/1999/QĐ - NHNN1 và có hiệu lực thi hành từ kì duy trì dự trữ bắt buộc tháng 3/1999. Về cơ bản nội dung và kĩ thuật tính toán vẫn được thực hiện như quy chế dự trữ bắt buộc ban hành kèm theo quyết định 396/1998/QĐ - NHNN1 ngày 1/12/1998 của Thống đốc Ngân hàng Nhà Nước và bổ sung một số điều cho phù hợp với Luật Ngân hàng Nhà Nước như sau: Đối tượng áp dụng mở rộng thêm Quỹ tín dụng nhân dân, Ngân hàng HT, Hợp tác xã tín dụng. Quy định tiền dự trữ bắt buộc phải gửi tại Ngân hàng Nhà Nước để thực hiện chính sách tiền tệ Quốc gia thay cho quy định về cơ cấu tiền dự trữ bắt buộc gồm 70% gửi tại Ngân hàng Nhà Nước và 30% tiền mặt ngân phiếu có thời hạn thanh toán. Quy định tỉ lệ dự trữ bắt buộc cho từng loại hình tổ chức tín dụng, từng loại tiền gửi. Quy định tỉ lệ 0% đối với trường hợp miễn và chưa phải dự trữ bắt buộc trước đây. Việc trả lại tiền dự trữ bắt buộc do Chính phủ quy định. Trong năm 1999 để thực hiện mục tiêu nới lỏng tiền tệ nhằm kích cầu, tạo đà phát triển kinh tế, Ngân hàng Nhà Nước đã 2 lần điều chỉnh giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với các Tổ chức tín dụng trong tổng số dư tiền gửi có kì hạn dưới 12 tháng đối với Ngân hàng Thương Mại quốc doanh, Ngân hàng Thương Mại cổ phần đô thị, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, Ngân hàng liên doanh và công ty TC, từ 5% xuống 1% đối với các Ngân hàng Thương Mại cổ phần nông thôn, Ngân hàng hợp tác, Quỹ tín dụng trung ương, Quỹ tín dụng khu vực. Việc giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với các Tổ chức tín dụng đã góp phần nhất định vào việc mở rộng tín dụng, giảm chi phí hoạt động, tăng khả năng sinh lời của Tổ chức tín dụng. Tuy nhiên những khó khăn về cơ cấu kinh tế và thời gian điều chỉnh còn ngắn nên tác động tích cực của công cụ này chưa được thể hiện rõ. Rõ ràng, các biện pháp của Ngân hàng Trung ương đưa ra trên cơ sở phân tích thực trạng kinh tế phù hợp với nhu cầu thực tiễn và xu hướng chung của khu vực (Thái Lan, Malaixia, Singapone, Indonexia, Philipin và Nhật Bản đều trong thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng.) Năm 2000, hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế đã được khắc phục và nền kinh tế Việt Nam cũng như các nước có dấu hiệu phục hồi thì chính sách dự trữ bắt buộc cũng có một số thay đổi. Trong năm 2000, việc thực hiện dự trữ bắt buộc của các Tổ chức tín dụng tiếp tục căn cứ theo quy chế dự trữ bắt buộc ban hành theo quyết định số 51/1999/QD – NHNN1 ngày 10/2/1999 của Thống đốc Ngân hàng Nhà Nước. Tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VNĐ tiếp tục áp dụng như năm 1999 là 5% đối với các Ngân hàng Thương Mại quốc doanh, Ngân hàng Thương Mại cổ phần đô thị, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, Ngân hàng liên doanh, công ty tài chính, 1% đối với Ngân hàng Thương Mại cổ phần nông thôn, Ngân hàng hợp tác, Quỹ tín dụng Trung Ương, Quỹ tín dụng khu vực, 0% đối với quỹ tín dụng cơ sở, Hợp tác xã tín dụng, Ngân hàng phục vụ người nghèo. Tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với loại tiền gửi bằng ngoại tệ, để tạo tín hiệu hạn chế các Tổ chức tín dụng huy động tiền gửi bằng ngoại tệ gửi ra nước ngoài. Ngày 10/10/2000 Thống đốc Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam điều chỉnh tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ không kì hạn và có kì hạn của Ngân hàng Thương Mại quốc doanh, Ngân hàng Thương Mại cổ phần đô thị, Ngân hàng Thương Mại cổ phần nông thôn, Ngân hàng hợp tác, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, Ngân hàng liên doanh, Công ty Tài chính Quỹ tín dụng Trung ương và Quỹ tín dụng đô thị từ 5% - 8% kể từ kì duy trì dự trữ bắt buộc 11/2000. Sau đó tiếp tục nâng tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền bằng ngoại tệ không kì hạn và có kì hạn dưới 12 tháng lên 12% áp dụng từ kì duy trì dự trữ bắt buộc 12/2000 việc Ngân hàng Nhà Nước điều chỉnh tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ có tác động nhất định đến việc hạn chế dòng tiền chuyển đổi từ VNĐ sang USD góp phần thúc đẩy huy động tiền gửi bằng VNĐ của các Tổ chức tín dụng. Vào những tháng cuối năm 2001, nền kinh tế Việt Nam vẫn đang trên đà tăng trưởng và theo lệnh dự trữ bắt buộc vẫn được duy trì như cuối năm 2000. Điều đó cho thấy Chính sách tiền tệ phần nào ổn định từ sau cuộc khủng hoảng. 2.2. Những kết quả đạt được. 2.2.1 Đối với hoạt động thị trường mở Hoạt động thị trường mở năm qua đã đạt những kết qủa sau: Một là: Góp phần củng cố thêm vị thế, vai trò quản lí của Ngân hàng Nhà Nước trong nền kinh tế tiền tệ phù hợp với xu hướng hội nhập và toàn cầu hoá. Hai là: Nghiệp vụ tiền tệ mở tương đối linh hoạt giải quyết được nhu cầu vốn khả dụng cũng như giải quyết được vấn đề dư thừa vốn trong một số thời kì. Góp phần đạt được mục tiêu của các Ngân hàng Nhà Nước đặt ra ổn định thị trường tiền tệ và hoạt động Ngân hàng. Thứ 3: Bằng cách “ bơm tiền” ra lưu thông, nghiệp vụ thị trường mở đã góp phần thúc đẩy sản xuất nâng cao sức mua của xã hội và thực hiện đúng chủ trương kích cầu của Chính phủ trong điều kiện nền kinh tế có dấu hiệu giảm phát. Thứ 4: Việc hoàn thiện các văn bản pháp lí cho hoạt động nghiệp vụ thị trường mở phù hợp với thực tiễn đã góp phần cho hoạt động thị trường mở thông suốt. Việc lắp đặt trang thiết bị thiết kế các chương trình phần mềm phục vụ cho hoạt động nghiệp vụ thị

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0610.doc
Tài liệu liên quan