Đề tài Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp tại xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế

Phần 2. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

2.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu

2.1.1. Cơ sở lý luận

Luật đất đai hiện hành đã khẳng định: “Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các công trình kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng”. Như vậy đất đai là điều kiện chung nhất đối với mọi quá trình sản xuất và hoạt động của con người. Nói cách khác, không có đất sẽ không có sản xuất cũng như không có sự tồn tại của chính con người.

Đối với ngành phi nông nghiệp đất đai giữ vai trò thụ động với chức năng là cơ sở không gian và vị trí để hoàn thiện quá trình lao động, là kho tàng dự trữ trong lòng đất. Đối với ngành này, quá trình sản xuất và sản phẩm được tạo ra không phụ thuộc vào đặc điểm, độ phì nhiêu của đất cũng như chất lượng thảm thực vật và tính chất tự nhiên sẵn có trong đất.

Đối với các ngành nông lâm nghiệp đất đai có vai trò vô cùng quan trọng. Đất đai không chỉ là cơ sở không gian, là điều kiện vật chất cần thiết cho sự tồn tại mà còn là yếu tố tích cực của các quá trình sản xuất. Điều này thể hiện ở chỗ đất luôn chịu tác động như: cày, bừa, làm đất nhưng cũng đồng thời là công cụ sử dụng để trồng trọt và chăn nuôi do đó nó là đối tượng lao động nhưng cũng lại là công cụ hay phương tiện lao động.

Quá trình sản xuất nông lâm nghiệp luôn gắn bó chặt chẽ với đất và các sản phẩm làm ra được luôn phụ thuộc vào các đặc điểm của đất mà cụ thể là độ phì nhiêu và quá trình sinh học tự nhiên của đất. [11]

Tuy nhiên độ phì nhiêu của đất không phải là yếu tố vĩnh viễn và cố định mà luôn thay đổi trong quá trình hình thành và phát triển của tự nhiên. Ngoài ra trong quá trình sản xuất dưới tác động của con người thì độ phì nhiêu ngày càng có sự biến động rất lớn. Nếu tác động xấu thì độ phì nhiêu ngày càng cạn kiệt, ngược lại nếu tác động của con người có sáng tạo và khoa học thì độ phì nhiêu của đất ngày càng được nâng cao vì ngoài nhân tố tự nhiên còn có xã hội tham gia vào quá trình hình thành và phát triển của đất đai.

2.1.2. Vai trò của sản xuất nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân

+ Cung cấp lương thực thực phẩm cho toàn xã hội.

Thực tế cho thấy rằng xã hội càng phát triển thì yêu cầu về dinh dưỡng do lương thực và thực phẩm ( đặc biệt là thực phẩm ) ngày càng tăng nhanh. Một đặc điểm quan trọng của hàng hóa lương thực, thực phẩm là không thể thay thế bằng bất kỳ một loại hàng hóa nào khác. Những hàng hóa này dù cho trình độ khoa học - công nghệ phát triển như hiện nay, vẫn chưa có ngành nào có thể thay thế được. Lương thực, thực phẩm là yếu tố đầu tiên có tính chất quyết định sự tồn tại phát triển của con người và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Những hàng hóa có chứa chất dinh dưỡng nuôi sống con người này chỉ có thể có được thông qua hoạt động sống của cây trồng và vật nuôi hay nói cách khác là thông qua quá trình sản xuất nông nghiệp.

 

doc60 trang | Chia sẻ: lethao | Lượt xem: 12502 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp tại xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần 1. MỞ ĐẦU 1.1. Đặt vấn đề Từ buổi bình minh của lịch sử và trong suốt quá trình phát triển của nhân loại, đất đai luôn giữ vai trò hết sức quan trọng. Đó là cơ sở sinh sống và phát triển của thực vật; là tư liệu sản xuất đặc biệt không thể thay thế được trong các ngành sản xuất. Đặc biệt là sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp; là địa bàn của các khu dân cư, các cơ sở văn hoá, các khu công nghiệp,... Vì vậy, đất đai là tài sản vô cùng quý giá là vấn đề sống còn của mỗi quốc gia, với tính chất là một bộ phận của lãnh thổ. Xã Phong Hòa nằm về phía Đông Bắc huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, trải dài theo quốc lộ 49 B và dọc bờ sông Ô Lâu. Cách thị trấn Phong Điền khoảng 10 km và cách thành phố Huế khoảng 40 km, là một xã thuần nông, sản xuất nông nghiệp còn gặp khó khăn, cơ sở hạ tầng còn hạn chế, trình độ dân trí chưa đáp ứng được với yêu cầu sản xuất, tài nguyên đất đai và nhân lực chưa được khai thác đầy đủ. Trong những năm gần đây, quá trình đô thị hoá diễn ra nhanh dẫn đến quỹ đất nông nghiệp và đặc biệt là đất canh tác bị giảm nhiều. Trong khi đó, dân số gia tăng dẫn đến nhu cầu về lương thực, thực phẩm tăng nhanh tạo ra sức ép đối với đất canh tác. Đảng và Chính phủ đã có nhiều chủ trương, chính sách như: Giao đất nông nghiệp sử dụng ổn định lâu dài cho các hộ gia đình; chương trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi; chương trình “Xây dựng cánh đồng 50 triệu đồng trên 1 ha”; các chương trình khuyến nông nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất canh tác. Nhiều nơi đã xuất hiện các điển hình sản xuất thâm canh giỏi, các mô hình chuyển đổi từ đất trồng cây lương thực sang trồng các loại cây hàng hoá, cây đặc sản, các mô hình đa canh trên đất úng trũng cho hiệu quả kinh tế cao. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu đánh giá hiệu quả kinh tế sử dụng đất canh tác nhằm đề xuất các giải pháp nâng cao sức sản xuất của đất trên địa bàn xã là rất cần thiết. Với mục đích đó, được sự phân công của Khoa Tài Nguyên Đất và Môi Trường Nông Nghiệp thuộc Đại Học Nông Lâm Huế, cùng với sự hướng dẫn của Tiến Sĩ Trần Thị Thu Hà, chúng tôi xin tiến hành thực hiện đề tài: “Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp tại xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.” 1.2. Mục đích Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp của xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Đề xuất một số giải pháp kinh tế - kỹ thuật nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất trên địa bàn nghiên cứu. 1.3. Yêu cầu Nghiên cứu các điều kiện của xã một cách đầy đủ, chính xác và khoa học, các tiêu chí phải thống nhất, hệ thống. Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp một cách khách quan, khoa học và phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương. Các giải pháp đề xuất phải khoa học và có tính khả thi. Phần 2. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 2.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu 2.1.1. Cơ sở lý luận Luật đất đai hiện hành đã khẳng định: “Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các công trình kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng”. Như vậy đất đai là điều kiện chung nhất đối với mọi quá trình sản xuất và hoạt động của con người. Nói cách khác, không có đất sẽ không có sản xuất cũng như không có sự tồn tại của chính con người. Đối với ngành phi nông nghiệp đất đai giữ vai trò thụ động với chức năng là cơ sở không gian và vị trí để hoàn thiện quá trình lao động, là kho tàng dự trữ trong lòng đất. Đối với ngành này, quá trình sản xuất và sản phẩm được tạo ra không phụ thuộc vào đặc điểm, độ phì nhiêu của đất cũng như chất lượng thảm thực vật và tính chất tự nhiên sẵn có trong đất. Đối với các ngành nông lâm nghiệp đất đai có vai trò vô cùng quan trọng. Đất đai không chỉ là cơ sở không gian, là điều kiện vật chất cần thiết cho sự tồn tại mà còn là yếu tố tích cực của các quá trình sản xuất. Điều này thể hiện ở chỗ đất luôn chịu tác động như: cày, bừa, làm đất nhưng cũng đồng thời là công cụ sử dụng để trồng trọt và chăn nuôi do đó nó là đối tượng lao động nhưng cũng lại là công cụ hay phương tiện lao động. Quá trình sản xuất nông lâm nghiệp luôn gắn bó chặt chẽ với đất và các sản phẩm làm ra được luôn phụ thuộc vào các đặc điểm của đất mà cụ thể là độ phì nhiêu và quá trình sinh học tự nhiên của đất. [11] Tuy nhiên độ phì nhiêu của đất không phải là yếu tố vĩnh viễn và cố định mà luôn thay đổi trong quá trình hình thành và phát triển của tự nhiên. Ngoài ra trong quá trình sản xuất dưới tác động của con người thì độ phì nhiêu ngày càng có sự biến động rất lớn. Nếu tác động xấu thì độ phì nhiêu ngày càng cạn kiệt, ngược lại nếu tác động của con người có sáng tạo và khoa học thì độ phì nhiêu của đất ngày càng được nâng cao vì ngoài nhân tố tự nhiên còn có xã hội tham gia vào quá trình hình thành và phát triển của đất đai. 2.1.2. Vai trò của sản xuất nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân + Cung cấp lương thực thực phẩm cho toàn xã hội. Thực tế cho thấy rằng xã hội càng phát triển thì yêu cầu về dinh dưỡng do lương thực và thực phẩm ( đặc biệt là thực phẩm ) ngày càng tăng nhanh. Một đặc điểm quan trọng của hàng hóa lương thực, thực phẩm là không thể thay thế bằng bất kỳ một loại hàng hóa nào khác. Những hàng hóa này dù cho trình độ khoa học - công nghệ phát triển như hiện nay, vẫn chưa có ngành nào có thể thay thế được. Lương thực, thực phẩm là yếu tố đầu tiên có tính chất quyết định sự tồn tại phát triển của con người và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Những hàng hóa có chứa chất dinh dưỡng nuôi sống con người này chỉ có thể có được thông qua hoạt động sống của cây trồng và vật nuôi hay nói cách khác là thông qua quá trình sản xuất nông nghiệp. + Quyết định an ninh lương thực quốc gia, góp phần thúc đẩy sản xuất công nghiệp, các ngành kinh tế khác và phát triển đô thị. Nông nghiệp cung cấp các nguyên liệu cho công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến. Nông nghiệp là khu vực dự trữ và cung cấp nguồn lao động dồi dào cho phát triển công nghiệp, các ngành kinh tế khác và đô thị. Nông nghiệp nông thôn là thị trường tiêu thụ rộng lớn cho hàng hóa công nghiệp và các ngành kinh tế khác. [1] + Nguồn thu ngân sách quan trọng của nhà nước. Nông nghiệp là ngành kinh tế sản xuất có quy mô lớn nhất nước ta. Tỷ trọng giá trị tổng sản lượng và thu nhập quốc dân trong khoảng 25 % tổng thu ngân sách trong nước. Việc huy động một phần thu nhập từ nông nghiệp được thực hiện dưới nhiều hình thức: Thuế nông nghiệp, các loại thuế kinh doanh khác,... Bên cạnh nguồn thu ngân sách cho nhà nước việc xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp làm tăng nguồn thu ngoại tệ góp phần thiết lập cán cân thương mại đồng thời cung cấp vốn ban đầu cho sự phát triển của công nghiệp. [1] + Hoạt động sinh kế chủ yếu của đại bộ phận dân nghèo nông thôn. Nước ta với hơn 70 % dân cư tập trung ở nông thôn họ sống chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, với hình thức sản xuất tự cấp tự túc đáp ứng nhu cầu cấp thiết hàng ngày. + Tái tạo tự nhiên. Nông nghiệp còn có tác dụng bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Trong các ngành sản xuất chỉ có nông nghiệp mới có khả năng tái tạo tự nhiên cao nhất mà các ngành khác không có được. Tuy nhiên nông nghiệp lạc hậu và phát triển không có kế hoạch cũng dẫn đến đất rừng bị thu hẹp, độ phì đất đai giảm sút, các yếu tố khí hậu thay đổi bất lợi. Mặc khác sự phát triển đến chóng mặt của thành thị, của công nghiệp làm cho nguồn nước và bầu không khí bị ô nhiễm trầm trọng. Đứng trước thảm họa này đòi hỏi phải có sự cố gắng của cộng đồng quốc tế nhằm đẩy lùi thảm họa đó bằng nhiều phương pháp, trong đó nông nghiệp giữ một vị trí cực kỳ quan trọng trong việc thiết lập lại cân bằng sinh thái động thực vật. Vì thế phát triển công nghiệp phải trên cơ sở phát triển nông nghiệp bền vững. [1] 2.1.3. Cơ sở thực tiễn Định hướng phát triển nông nghiệp và nông thôn đến năm 2010 đã được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII xác định: “Xây dựng nền nông nghiệp Việt Nam tăng trưởng nhanh và bền vững theo hướng nông nghiệp sinh thái, thực hiện đa canh đa dạng hóa sản phẩm, kết hợp nông nghiệp, lâm nghiệp và công nghiệp chế biến, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng nhanh nông sản hàng hóa, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân trong nước với nhu cầu ngày càng cao và xuất khẩu đạt hiệu quả cao, nâng cao đời sống nông dân, xây dựng nông thôn mới”. [1] Các chủ trương lớn phát triển nông nghiệp: + Đẩy mạnh sản xuất lương thực, đảm bảo an toàn lương thực quốc gia. Do vị trí đặc thù của nước ta, sản xuất nông nghiệp chịu nhiều thiên tai như : Bão, lũ lụt, ngập úng, hạn hán, sâu bệnh,.... gây thiệt hại nặng nề. Dân số nước ta đông và tăng trưởng nhanh nên vấn đề an toàn lương thực là một thách thức không nhỏ, phải được đặt thành một chủ trương có tầm chiến lược lâu dài. + Chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Trong giai đoạn tới cùng với việc chú trọng bảo đảm an toàn lương thực quốc gia, cả nước tiếp tục phấn đấu đẩy mạnh quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng phát huy cao độ lợi thế so sánh, khai thác có hiệu quả tiềm năng tất cả các vùng kinh tế nông nghiệp, từng bước thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thâm canh cao, tăng nhanh sản xuất lương thực để có nhiều sản lượng hàng hóa, thực hiện chiến lược an toàn lương thực trên cơ sở đa dạng hóa sản xuất, nâng cao năng suất và thu nhập của toàn ngành nông nghiệp. Chú trọng phát triển các loại cây nông nghiệp dài ngày như cây có sợi, rau quả sạch,... Phát triển mạnh dạn chăn nuôi, đưa vị trí chăn nuôi thành ngành sản xuất chính trong nông nghiệp, đáp ứng yêu cầu tiêu dùng nội địa và xuất khẩu. Xây dựng vùng sản xuất chuyên canh có kết cấu hạ tầng theo quy hoạch đồng bộ và hoàn chỉnh với công nghệ tiên tiến, đảm bảo cân đối sản xuất nông nghiệp với năng lực chế biến và nhu cầu thị trường. + Cải thiện đời sống nông dân và xây dựng nông thôn mới. Xây dựng nông thôn mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa là sự kết hợp hài hòa giữa các mối quan hệ giữa kinh tế - chính trị - xã hội, giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa công nhân và nông dân, giữa thành thị và nông thôn. Trợ giúp nông dân phát triển kinh tế tổng hợp, trên cơ sở chuyển đổi cơ cấu kinh tế nôngnghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thông qua các tổ chức tín dụng ưa đãi, các tổ chức hệ thống hiệp hội nông dân hay hợp tác xã ( làm nhiệm vụ cung ứng vật tư, khuyến nông, dịch vụ kỹ thuật, chế biến và tiêu thụ sản phẩm ), xây dựng kiến trúc hạ tầng nông thôn, đầu tư phát triển giáo dục, y tế, văn hóa với mục đích nâng cao dân trí và sức khỏe cho nhân dân, chuuyển dần hộ sản xuất tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hóa, giảm dần hộ nghèo. + Tăng cường đầu tư cho nông nghiệp nông thôn. Một trong những giải pháp lớn có vai trò hết sức quan trọng đảm bảo được triển vọng của nông nghiệp và nông thôn nước ta đến năm 2010 có khả năng trở thành hiện thực là vấn đề đầu tư. Đến năm 2010 tổng nhu cầu vốn đầu tư cho nông nghiệp nông thôn là 50 000 đến 60 000 nghìn tỷ đồng, số vốn này tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ nông nghiệp, phát triển sản xuất và bảo vệ rừng. [1] + Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện các chính sách nông nghiệp. Đổi mới chính sách nhằm tăng cường lợi ích của người lao động ở khu vực nông thôn, khuyến khích phát triển sản xuất và công bằng xã hội. 2.2. Quan điểm về hiệu qủa sử dụng đất nông nghiệp 2.2.1. Quan điểm sử dụng đất bền vững Theo FAO, nông nghiệp bền vững bao gồm quản lý hiệu quả tài nguyên cho nông nghiệp ( đất đai, lao động... ) để đáp ứng nhu cầu cuộc sống của con người đồng thời giữ gìn và cải thiện tài nguyên thiên nhiên, môi trường và bảo vệ tài nguyên. Hệ thống nông nghiệp bền vững phải có hiệu quả kinh tế, đáp ứng nhu cầu xã hội về an ninh lương thực, đông thời giữ gìn và cải thiện môi trường tài nguyên cho đời sau. + Bền vững thường có ba thành phần cỏ bản: - Bền vững về an ninh lương thực trong thời gian dài trên cơ sở hệ thống nông nghiệp phù hợp điều kiện sinh thái và không tổn hại môi trường. - Bền vững về tổ chức quản lý, hệ thống nông nghiệp phù hợp trong mối quan hệ con người hiện tại và cả cho đời sau. - Bền vững thể hiện ở tính cộng đồng trong hệ thống nông nghiệp hợp lý. + Mục tiêu và quan điểm sử dụng đất bền vững là: - An toàn lương thực, thực phẩm - Tăng cường nguyên liệu cho công nghiệp và nông sản xuất khẩu theo yêu cầu của thị trường. - Phát triển môi trường bền vững. Ngày nay hiệu quả kinh tế cao cần được xem xét kỹ lưỡng trước áp lực xã hội đòi hỏi trừ khử căn nguyên làm băng hại sức khỏe loài người. Từ đó thấy rằng tính bền vững của sử dụng đất phải được xem xét đồng bộ trên cả ba mặt: kinh tế, xã hội và môi trường. + Việc quản lý và sử dụng đất bền vững bao gồm tổ hợp các công nghệ, chính sách và hoạt động nhằm liên hợp các nguyên lý kinh tế - xã hội với các quan tâm về môi trường để đồng thời: - Duy trì hoặc nâng cao sản lượng ( hiệu quả sản xuất) - Giảm rủi ro sản xuất (an toàn) - Có hiệu quả lâu bền (lâu bền) - Được xã hội chấp nhận ( tính chấp nhận) Quan hệ giữa tính bền vững và tính thích hợp: Tính bền vững có thể được coi là tính thích hợp được duy trì lâu dài với thời gian. + Nguyên tắc đánh giá bền vững: - Tính bền vững được đánh giá cho một kiểu sử dụng đất nhất định - Đánh giá cho một đơn vị lập địa cụ thể - Đánh giá là một hoạt động liên ngành - Đánh giá cả 3 mặt: Kinh tế, xã hội và môi trường - Đánh giá cho một thời gian xác định. [7] 2.2.2. Vấn đề hiệu quả và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất 2.2.2.1. Về hiệu quả sử dụng đất Bản chất của hiệu quả là sự thể hiện yêu cầu tiết kiệm thời gian, trình độ sử dụng nguồn lực xã hội. Các Mác cho rằng quy luật tiết kiệm thời gian là quy luật có tầm quan trọng đặc biệt tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất. Mọi hoạt động của con người đều tuân theo quy luật đó, nó quyết định động lực phát triển của lực lượng sản xuất, tạo điều kiện phát triển văn minh xã hội và nâng cao đời sống con người qua mọi thời đại. + Hiệu quả kinh tế Hiệu quả kinh tế được hiểu là mối tương quan so sánh giữa kết quả đạt được và lượng chi phí bỏ ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Kết quả đạt được là phần giá trị thu được của sản phẩm đầu ra, lượng chi phí bỏ ra là phần giá trị của các nguồn lực đầu vào. Mối tương quan đó cần được xem xét cả về phần so sánh tuyệt đối và tương đối cũng như xem xét mối quan hệ chặt chẽ giữa hai đại lượng đó. Kinh tế sử dụng đất: Với một diện tích đất đai nhất định sản xuất ra một khối lượng của cải vật chất nhiều nhất với lượng đầu tư chi phí về vật chất và lao động nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về vật chất của xã hội. Hiệu quả kinh tế là mục tiêu chính của các nông hộ sản xuất nông nghiệp. + Hiệu quả xã hội Hiệu quả về mặt xã hội sử dụng đất nông nghiệp chủ yếu được xác định bằng khả năng tạo việc làm trên một đơn vị diện tích đất nông nghiệp, thu nhập bình quân trên đầu người và bình quân diện tích trên đầu người. + Hiệu quả môi trường Hiệu quả môi trường là môi trường được sản sinh do tác động của hóa học, sinh học, vật lý,... Chịu ảnh hưởng tổng hợp của các yếu tố môi trường của các loại vật chất trong môi trường. Hiệu quả môi trường phân theo nguyên nhân gây nên gồm: Hiệu quả hóa học môi trường, hiệu quả vật lý môi trường, hiệu quả sinh vật môi trường: - Hiệu quả sinh vật môi trường là hiệu quả khác nhau của hệ thống sinh thái do phát sinh biến hóa của các loại yếu tố môi trường dẫn đến. - Hiệu quả hóa học môi trường là hiệu quả môi trường do các phản ứng hóa học gữa các vật chất chịu ảnh hưởng của điều kiện môi trường dẫn đến. - Hiệu quả vật lý môi trường là hiệu quả môi trường do tác động vật lý đẫn đến. [5] 2.2.2.2. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá + Chỉ tiêu hiệu quả về mặt kinh tế, bao gồm các chỉ tiêu sau: - Giá trị sản xuất (GO): là toàn bộ giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ được tạo ra trong một thời kỳ nhất định ( thường là một năm). - Chi phí trung gian (IC): là khoản chi phí vật chất thường xuyên bằng tiền mà chủ thể bỏ ra để thuê và mua các yếu tố đầu vào và dịch vụ sử dụng trong quá trình sản xuất. - Giá trị gia tăng (VA): là hiệu số giữa giá trị sản xuất (GO) và chi phí trung gian (IC), là giá trị sản phẩm xã hội được tạo ra thêm trong thời kỳ sản xuất đó: VA=GO - IC - Hiệu quả kinh tế trên một đồng chi phí trung gian (IC):GO/IC; VA/IC. - Hiệu quả kinh tế trên một ngày công lao động (LĐ) quy đổi: GO/ LĐ; VA/LĐ. Các chỉ tiêu phân tích được đánh giá định lượng (giá trị) bằng tiền theo thời giá hiện hành và định tính (phân cấp) được tính bằng mức độ cao, thấp. Các chỉ tiêu đạt mức càng cao thì hiệu quả kinh tế càng lớn. + Chỉ tiêu hiệu quả về mặt xã hội, bao gồm các chỉ tiêu: - Bình quân diện tích đất nông nghiệp trên đầu người. - Thu hút lao động, giải quyết công ăn việc làm. - Thu nhập bình quân trên đầu người ở vùng nông thôn. - Đảm bảo an toàn lương thực và gia tăng lợi ích của nông dân. - Trình độ dân trí, trình độ hiểu biết xã hội. + Chỉ tiêu hiệu quả về môi trường, bao gồm các chỉ tiêu: Diện tích đất cây trồng lâu năm + - Độ che phủ = diện tích đất lâm nghiệp có rừng x 100 % Diện tích đất tự nhiên - Hệ số sử dụng đất = Tổng diện tích gieo trồng hàng năm Tổng diện tích đất trồng cây hàng năm - Đánh giá hệ thống sản xuất cây trồng. - Sự thích hợp với môi trường đất khi thay đổi loại hình sử dụng đất. - Đánh giá về quản lý và bảo vệ tự nhiên. 2.2.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất Trong quá trình sử dụng đất, con người là nhân tố chi phối chủ yếu, ngoài ra, việc sử dụng đất còn chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố sau: + Nhân tố điều kiện tự nhiên: Khi sử dụng đất đai, ngoài bề mặt không gian cần chú ý đến việc thích ứng với điều kiện tự nhiên và quy luật sinh thái của đất cũng như các yếu tố bao quanh mặt đất như nhiệt độ, ánh sáng, lượng mưa, không khí và các khoáng sản dưới lòng đất. Trong nhóm nhân tố này thì điều kiện khí hậu là nhân tố hạn chế hàng đầu của việc sự dụng đất, sau đó là điều kiện đất đai mà chủ yếu là điều kiện địa hình, thổ nhưỡng và các nhân tố khác. - Khí hậu: Khí hậu là yếu tố rất quan trọng, nó quyết định số vụ trồng trong năm vì mỗi cây trồng yêu cầu một điều kiện thời tiết khí hậu phù hợp với nó. Nắm vững yếu tố khí hậu và bố trí cây trồng hợp lý sẽ tránh được những thiệt hại do khí hậu gây ra. Đồng thời, giảm được tính thời vụ trong sản xuất nông nghiệp nhằm đem lại năng suất cao, từ đó cũng nâng cao hiệu quả sử dụng đất. - Loài cây trồng và hệ thống cây trồng: Việc lựa chọn loài cây trồng và hệ thống cây trồng nào đó phù hợp với điều kiện khí hậu và đất đai của từng vùng là vô cùng quan trọng, nó không những đem lại năng suất, sản lượng, chất lượng cây trồng cao mà còn thể hiện được hiệu quả quản lý và sử dụng đất của vùng đó. + Nhân tố kinh tế - xã hội: Bao gồm các yếu tố như: chế độ xã hội, dân số và lao động, thông tin và quản lý, chính sách môi trường và chính sách đất đai, yêu cầu quốc phòng, sức sản xuất và trình độ phát triển của kinh tế hàng hóa, cơ cấu kinh tế và phân bố sản suất, các điều kiện về công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, giao thông vận tải, sự phát triển của khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý, sử dụng lao động,... Mặc dù nhóm nhân tố này xếp sau nhân tố điều kiện tự nhiên nhưng thường có ý nghĩa quyết định, chủ đạo đối với việc sử dụng đất đai. Thật vậy, phương hướng sử dụng đất được quyết định bởi yêu cầu của xã hội và mục tiêu kinh tế trong từng thời kỳ nhất định. Điều kiện tự nhiên của đất đai cho phép xác định khả năng thích ứng về phương thức sử dụng đất. Còn sử dụng đất như thế nào được quyết định bởi sự năng động của con người và các điều kiện kinh tế - xã hội, kỹ thuật hiện có, quyết định bởi tính pháp lý, tính khả thi về kinh tế kỹ thuật và mức độ đáp ứng của chúng, quyết định bởi nhu cầu của thị trường. - Nhân tố lao động: Lao động với tư cách là chủ thể của quá trình lao động, có khả năng nhận thức được các quy luật khách quan. Chính vì vậy, lực lượng lao động sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Song điều đó lại phụ thuộc rất lớn vào trình độ lao động, trình độ học vấn, trình độ tay nghề của người lao động. Hiện nay, nông nghiệp đang dần có những bước phát triển nhanh đặc biệc là công nghệ sinh học. Từ đó đòi hỏi chủ thể lao động phải có khả năng nắm bắt nhanh chóng những thay đổi đó và ứng dụng có hiệu quả vào sản suất nông nghiệp. - Phương thức canh tác: Phương thức canh tác bao gồm các biện pháp kỹ thuật canh tác, là những tác động của con người vào đất đai, cây trồng, vật nuôi nhằm tạo nên sự hài hòa giữa các yếu tố của quá trình sản suất để đạt hiệu quả kinh tế cao. Bên cạch đó, tập quán canh tác cũng ảnh hưởng đến việc lựa chọn các tác động kỹ thuật, lựa chọn chủng loại cây trồng và sử dụng các đầu vào nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế. Trong trồng trọt, mỗi loại cây trồng đều có một phương thức cach tác khác nhau, đòi hỏi cần phải nắm vững được yêu cầu các biện pháp kỹ thuật để canh tác thì mới có hiệu quả, đồng thời loại bỏ những phương thức tập quán canh tác lạc hậu gây tác hại cho đất, mang lại hiệu quả kinh tế thấp. - Vốn đầu tư: Vốn đầu tư vào sản xuất, bồi dưỡng, cải tạo đất đối với người dân là một yêu cầu cấp thiết. Hiện nay, đa số người dân vẫn còn phải đối mặt với việc thiếu vốn để mua sắm các tư liệu sản xuất, mua phân bón đầu tư cho cây trồng trong khi giá phân bón trong những năm gần đây lại có xu hướng tăng cao. Từ đó, dẫn đến năng suất cây trồng không cao trong khi độ phì nhiêu của đất ngày càng giảm,... - Nhân tố thị trường: Thị trường là một nhân tố vô cùng quan trọng của mọi ngành sản xuất kinh doanh. Hiện nay, cả thị trường đầu vào và đầu ra của sản xuất nông nghiệp ngày càng được mở rộng và có tác động to lớn đến phát triển sản xuất. Tuy nhiên, phần lớn vẫn còn mang tính tự phát, thiếu định hướng, ngẫu nhiên và thiếu sự vận hành đồng bộ. Điều này đã gây không ít trở ngại, bất lợi cho nông dân và các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nông sản. + Nhân tố không gian: Trong thực tế, mọi ngành sản xuất vật chất và phi vật chất đều cần đến đất đai như điều kiện không gian để hoạt động, vì vậy không gian trở thành một trong những nhân tố hạn chế cơ bản nhất của việc sử dụng đất. Do vị trí và không gian của đất đai không bị mất đi và cũng không tăng thêm trong quá trình sử dụng không chỉ hạn chế khả năng mở rộng không gian sử dụng đất mà còn chi phối giới hạn thay đổi của cơ cấu đất đai. Vì vậy, cần phải thực hiện nghiêm nghặt nguyên tắc sử dụng đất hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả kết hợp bảo vệ tài nguyên đất và môi trường. [12] Phần 3. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng nghiên cứu Toàn bộ qũy đất nông nghiệp của xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. 3.2. Phạm vi nghiên cứu + Nghiên cứu điểm về tình hình quản lý sử dụng đất, hiệu quả sử dụng đất qua đó phát hiện những thuận lợi và khó khăn trong quá trình sử dụng đất. Phân tích và phát hiện những mặt được và chưa được trong việc sử dụng đất nông nghiệp tại xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế + Đánh giá hiệu quả sử dụng đất chỉ đi sâu đánh giá hiệu quả kinh tế. Còn hiệu quả về mặt xã hội và môi trường chủ yếu dựa vào các tiêu chí định tính để đánh giá. Hiệu quả kinh tế chỉ tính cho một số loại cây trồng chính/1ha. 3.3. Nội dung nghiên cứu + Đặc điểm về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. + Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp về các mặt : kinh tế, xã hội và môi trường. + Đề xuất định hướng các giải pháp sử dụng đất bền vững. 3.4. Phương pháp nghiên cứu + Phương pháp điều tra khảo sát, thu thập số liệu Đây là phương pháp dùng để thu thập số liệu, thông tin qua các báo cáo, thống kê của các phòng, ban ngành để phục vụ cho quá trình thực hiện đề tài. + Phương pháp phân tích và xử lý số liệu Đây là phương pháp phân tích và xử lý các số liệu thô đã thu thập được để thiết lập các bảng biểu để so sánh được sự biến động và tìm nguyên nhân của nó. Trên cơ sở đó đưa ra các biện pháp cần thực hiện. + Phương pháp điều tra, phỏng vấn hộ nông dân Đây là phương pháp tiến hành bằng cách sử dụng bảng câu hỏi để điều tra ngẫu nhiên một số hộ nông dân nhằm đảm bảo tính thực tế, khách quan cũng như chính xác của số liệu thu được. + Phương pháp kế thừa Đây là phương pháp mà trong quá trình thực hiện nghiên cứu đã kế thừa các hương pháp, các số liệu có sẵn để làm tài liệu tham khảo và nghiên cứu. + Phương pháp chuyên gia, chuyên khảo Tham khảo các ý kiến của cán bộ địa chính, cán bộ phòng tài nguyên, các chủ hộ sản xuất,...

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp tại xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.doc
Tài liệu liên quan