Tào Sơn là một xã nông nghiệp với 86,58 % diện tích đất nông nghiệp. Lao động và thu nhập chủ yếu từ hoạt động nông nghiệp. Trong khi đó một diện tích đất chưa sử dụng khá lớn ( 2,98 %) chưa được khai thác triệt để. Tuy nhiên, đây là loại đất khó khai thác chỉ được khai thác một diện tích nhỏ cho nông nghiệp đó là trồng rừng và nuôi trông thủy sản nhưng hiệu quả vẫn chưa cao, nên có thể đưa phần lớn diện tích vào sử dụng với mục đích phi nông nghiệp. Vì vậy, trong tương lai đất nông nghiệp sẽ không tăng thêm mà còn bị giảm xuống do quá trình đô thị hóa. Điều đó sẽ dẫn đến một điều là cơ cấu sử dụng đất sẽ bất hợp lý. Trong tương lai cần có chính sách bảo vệ hoặc có thể mở rộng những diện tích có thể sản xuất nông nghiệp để đảm bảo an ninh lương thực cho người dân.
57 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 14315 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá hiệu quả sử dụng đất sản xuất nông nghiệp tại xã Tào Sơn, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sơn
STT
Chỉ tiêu
Đơn vị
Số lượng
1
Tổng số hộ
Hộ
1.165
2
Tổng số nhân khẩu
Người
4.899
Trong đó: Nam
Người
2.409
Nữ
Người
2.490
3
Mật độ dân số
Người/km2
240
4
Tỷ lệ tăng dân số
%
4,7
5
Lao động
Người
2.193
Lao động nông nghiệp
Người
1.776
Lao động CN-XDCB
Người
142
Lao động TM-DV
Người
83
Lao động khác
Người
192
Nguồn[13]
4.1.2.2. Thực trạng phát triển cơ sở hạ tầng
+ Giao thông: Hệ thống giao thông của xã ngày càng được mở rộng và không ngừng được hoàn thiện về chất lượng. Đến năm 2009 trên địa bàn xã có 46.6 km đường giao thông. Trong đó tỉnh quản lý 6 km ( đường 7B), xã quản lý 40,6 km.
Chiều dài đường giao thông mặc dù lớn xong chất lượng đường còn thấp. Hiện nay, có 4 km đường đã được nhựa hoá và 3,5 km đường bê tông là các đường giao thông liên xóm, đường 7B đang được nhựa hóa. Trong khi đó giao thông trong nội bộ , đặc biệt là giao thông nội đồng là đường cấp phối.
+ Thủy lợi: Xã có đập lớn với dung tích 1,64 triệu m3 và 6 đập nhỏ. Hiện nay trên địa bàn xã có 2 trạm bơm điện có công suất 410 m3/h, 13 km kênh mương trong đó có 6,9 km được kiên cố hóa, đạt tỷ lệ 53,08 %.
+ Điện: Lưới điện đã đưa đến tận các thôn tạo điều kiện thuận lợi cho việc phục vụ các nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của người dân địa phương. Cả xã có 2 trạm điện, cung cấp đủ cho 100 % hộ trong xã sử dụng.
4.1.2.3. Cơ cấu kinh tế và tăng trưởng kinh tế
Bảng 4.2: Cơ cấu kinh tế và tăng trưởng kinh tế
STT
Chỉ tiêu
Đơn vị
Số lượng
1
Tốc độ tăng trưởng kinh tế
%
13,2
2
Thu nhập bình quân
Triệu/người/năm
8,8
3
Cơ cấu kinh tế
%
Trong đó: Nông – Lâm – Ngư
%
70,2
Tiểu thủ công nghiệp – xây dựng
%
10
Thương mại – Dịch vụ
%
19,8
Nguồn [11]
4.1.2.4. Thực trạng phát triển các ngành kinh tế
+ Ngành nông nghiệp: Năm 2009 giá trị sản xuất nông nghiệp ước đạt 13,2 tỷ đồng, chiếm 55,23 % tỷ trọng các ngành kinh tế.
Xã Tào Sơn có tổng diện tích tự nhiên 2027,68 ha, chiếm 3,36 % diện tích của toàn huyện. Trong đó đất nông nghiệp là 1755,58 ha chiếm 86,58 % diện tích đất tự nhiên của toàn xã. Nông nghiệp của xã tập trung vào hai ngành chính là trồng trọt và chăn nuôi.
Năm 2009 toàn xã có 562,42 ha đất sản xuất nông nghiệp, chiếm 32,04 % diện tích đất nông nghiệp.
- Trồng trọt: Lúa là cây trồng chủ lực của xã, tổng diện tích gieo trồng năm 2009 là 316,06 ha, sản lượng 1668 tấn, năng suất đạt 40,8 tạ/ha.
Trong thời gian gần đây xã đã tổ chức sản xuất theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ vào thâm canh và chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi. Nhờ áp dụng các biện pháp thâm canh đồng bộ, nâng cao chất lượng giống lúa nên năng suất lúa bình quân trên địa bàn đạt 40,8 tạ/ha ( năm 2009). Xã đã chuyển một số diện tích đất sản xuất các loại cây trồng kém hiệu quả sang trồng các loại cây khác phù hợp hơn.
Những năm qua, mặc dù tình hình gặp nhiều khó khăn nhưng chính quyền địa phương đã chỉ đạo, tổ chức điều hành đúng quy trình, áp dụng gieo trồng các loại cây trồng mới nhằm phá vỡ tính độc canh cây lúa, tạo ra sản phẩm có giá trị lớn làm tăng giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp. Nhờ đó các loại cây như ngô, lạc, rau đậu các loại, đặc biệt là dưa hấu, dưa chuột, bí xanh với nhiều hình thức xen canh luân canh hợp lý, diện tích tương đối cao, cụ thể diện tích cây trồng trong năm 2009 là: ngô 157 ha; lạc 23 ha; rau đậu các loại 177 ha. Góp phần cải thiện cơ cấu cây trồng trên địa bàn xã.
- Chăn nuôi: Trong những năm gần đây địa phương đã đẩy mạnh đầu tư cho lĩnh vực chăn nuôi. Kết quả tổng đàn lợn trong năm 2009 là 2.781 con đạt 100 % so với kế hoạch năm, hiện nay đàn bò có 1.052 con ( trong đó bò lai sihn 121 con đạt 11,50 %), đàn trâu có 884 con, tổng đàn trâu, bò đạt 74 % so với kế hoạch. Được sự hỗ trợ của các cấp, các ngành, địa phương đã duy trì tốt việc chăn nuôi gia cầm trên địa bàn và không để xảy ra dịch bệnh. Tổng đàn gia cầm là 23.901 con. Nhiều hộ đã mạnh dạn đầu tư, vay vốn các dự án để chăn nuôi tăng thu nhập. Tuy nhiên, trong năm qua, sau đợt rét đậm, rét hại đã xảy ra các loại bệnh như: lở mồm lông móng ở trâu bò; dịch tai xanh ở lợn; dịch cúm gia cầm ở gà, vịt đã làm cho số lượng gia súc, gia cầm giảm đáng kể.
- Thuỷ sản: Xã đã tổ chức mở rộng vùng nuôi cá, chuyển đổi các vùng đất khó sản xuất sang nuôi cá. Đến nay trên địa bàn xã có tổng diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản là 70 ha, sản lượng ước đạt 80 tấn đạt tỷ lệ 94 % tăng 33 % so với cùng kỳ. Chủ yếu nuôi ở đập Khe Chung và một số ao hồ của người dân.
- Lâm nghiệp: Diện tích đất lâm nghiệp của xã khá lớn 1191,40 ha. Trong đó có 867,90 ha đất rừng sản xuất, 323,50 ha đất rừng phòng hộ được khoanh nuôi và bảo vệ. Hàng năm địa phương đã thực hiện biện pháp chăm sóc và bảo vệ nên các khu rừng phát triển tương đối tốt.
+ Tiểu thủ công nghiệp và xây dựng: Tiểu thủ công nghiệp và xây dựng cơ bản trong thời gian qua đã có bước phát triển mạnh, phát huy được tác dụng tích cực trong việc phục vụ sản xuất và đời sống. Đến năm 2009 trên địa bàn của xã hiện có 42 cơ sở tiểu thủ công nghiệp, 71 hộ kinh doanh thương mại, hàng năm thu hút hàng trăm lao động trong và ngoài xã, đã huy động được hàng tỷ đồng nhàn rỗi trong dân vào đầu tư phát triển sản xuất, tăng thu nhập.
+ Thương mại và dịch vụ: Thương mại và dịch vụ chiếm 19,8 % trong tỷ trọng kinh tế của xã, đã góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương. Các hoạt động chủ yếu trên địa bàn xã diễn ra tập trung ở chợ trung tâm. Ngoài ra còn diễn ra ở 2 chợ phụ tại đơn vị 8+9 và đơn vị 5.
4.1.3. Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội
4.1.3.1. Điều kiện tự nhiên
- Những thuận lợi:
+ Với vị trí là xã cửa ngõ của huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An, địa bàn xã phân bố dọc theo sông Lam và quốc lộ 7B nên có điều kiện thuận lợi để giao lưu kinh tế với các vùng trong khu vực.
+ Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới ẩm thích hợp cho việc phát triển của các loại cây trồng.
+ Có điều kiện đất đai và nguồn nước thuận tiện cho phát triển trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thuỷ sản. Từ đó, tạo thuận lợi cho phát triển nền sản xuất nông, lâm sản theo hướng tập trung thành những vùng chuyên canh lớn trồng cây lương thực, thực phẩm, cây công nghiệp ngắn ngày có giá trị kinh tế cao.
- Những khó khăn:
+ Xã chịu ảnh hưởng chung của khí hậu thời tiết của khu vực miền Trung, sự chênh lệch nhiệt độ giữa các mùa trong năm.Đặc biệt, lại nằm trong vùng hoạt động của hiệu ứng Phơn Tây-Nam ( gió Lào). Hàng năm trên địa bàn xã thường xảy ra lụt bão, ảnh hưởng đến việc bố trí mùa vụ và hệ thống cây trồng.
+ Phân bố tài nguyên nước không đồng đều giữa hai vụ ( quá nhiều vào mùa mưa, thiếu hụt vào mùa khô) .
+ Tài nguyên đất trên ít đa dạng về chủng loại nên đã hạn chế đáng kể đến việc đa dạng hóa cây trồng trên địa bàn xã.
4.1.3.2. Điều kiện kinh tế xã hội
- Những thuận lợi:
+ Xã có hệ thống giao thông khá phát triển , phục vụ tốt cho việc đi lại, giao lưu hàng hóa nông sản với thị trường bên ngoài.
+ Mạng lưới thủy lợi với hệ thống các đập lớn nhỏ, trạm bơm điện và hệ thống kênh mương đã được bê tông hóa phần lớn nên có thể đảm bảo khá tốt nguồn nước tưới cho sản xuất xã.
+ Thương mại, dịch vụ và tiểu thủ công nghiệp chiếm tỷ trọng khá cao trong cơ cấu kinh tế của xã.
+ Nguồn cung cấp điện khá tốt và là điều kiện thuận lợi để phát triển các loại hình dịch vụ nông nghiệp ( chế biến nông, lâm sản…).
- Những khó khăn:
+ Thu nhập của người dân chỉ đạt mức trung bình nên thiếu vốn cho sản xuất là một trong những nguyên nhân còn hạn chế sản xuất nói chung và sản xuất nông nghiệp nói riêng.
+ Tỷ lệ hộ lao động nông nghiệp còn cao.
4.2. Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp
Theo kết quả thống kê đất đai năm 2009 thì tổng diện tích tự nhiên đất đai trong ranh giới hành chính của xã là 2.027,68 ha.
Đất nông nghiệp: 1.755,58 ha, chiếm 86,58 % tổng diện tích đất tự nhiên.
Đất phi nông nghiệp: 211,78 ha, chiếm 10,44 % tổng diện tích đất tự nhiên
Đất chưa sử dụng: 60,32 ha, chiếm 2,98 % tổng diện tích đất tự nhiên.
HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP TẠI XÃ TÀO SƠN
TT
Chỉ tiêu
Mã
Diện tích (ha)
Cơ cấu
(%)
Diện tích đất tự nhiên
2.027,68
100
1
ĐẤT NÔNG NGHIỆP
NNP
1.755,58
86,58
1.1
Đất sản xuất nông nghiệp
SXN
562,42
32,04
1.1.1
Đất trồng cây hàng năm
CHN
450,31
1.1.1.1
Đất trồng lúa
CHN
316,06
1.1.1.1.1
Đất chuyên trồng lúa nước
LUC
316,06
1.1.1.2
Đất trồng cây hàng năm khác
HNK
134,25
1.1.2
Đất trồng cây lâu năm
CLN
112,11
1.2
Đất lâm nghiệp
LNP
1.191,40
67,95
1.2.1
Đất rừng sản xuất
RSX
867,90
1.2.1.1
Đất có rừng tự nhiên sản xuất
RSN
493,90
1.2.1.2
Đất có rừng trồng sản xuất
RST
42,40
1.2.1.3
Đất khoanh nuôi phục hồi rừng sản xuất
RSK
307,25
1.2.1.4
Đất trồng rừng sản xuất
RSM
24,35
1.2.2
Đất rừng phòng hộ
RPH
323,50
1.3
Đất nuôi trồng thuỷ sản
NTS
1,76
0,10
1.4
Đất nông nghiệp khác
NKH
2
ĐẤT CHƯA SỬ DỤNG
CSD
60,32
2,98
2.1
Đất bằng chưa sử dụng
BCS
39,34
2.2
Đất đồi núi chưa sử dụng
DCS
20,98
2.3
Núi đá không có rừng cây
NCS
Nguồn [13]
Số liệu ở bảng trên cho thấy quỹ đất nông nghiệp của xã năm 2009 chiếm tỷ lệ khá cao so với tổng diện tích tự nhiên của xã ( 86,58). Trong diện tích đất nông nghiệp thì diện tích đất lâm nghiệp là rất cao ( 67,95 %). Diện tích đất sản xuất nông nghiệp chiếm 32,04 %. So với diện tích đất nông nghiệp, diện tích nuôi trồng thuỷ sản chiếm một diện tích rất nhỏ ( 0,10 %). Phần lớn lao động trong xã đều sản xuất nông nghiệp, vì vậy bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý nhằm tăng thu nhập trên một đơn vị đất đai bằng việc sử dụng các loại giống, cây trồng mới có năng suất, chất lượng và tăng định mức đầu tư trên một đơn vị hợp lý là những giải pháp cần thiết cho người nông dân.
Đất sản xuất nông nghiệp của xã chủ yếu được sử dụng để trồng cây hàng năm, nhưng cơ cấu không đa dạng mà chủ yếu là lúa, lạc, sắn. Trong điều kiện vốn và kỹ thuật của nông dân còn hạn chế thì việc trồng cây hàng năm là một hướng đi đúng vì người dân có kinh nghiệm sản xuất, chi phí đầu tư thấp, khả năng quay vòng vốn nhanh. Tuy nhiên, một cơ cấu cây trồng nghèo nàn sẽ làm gia tăng rủi ro trong thu nhập của người dân khi xẩy ra thiên tai như hạn hán và lũ lụt.
4.3. Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
4.3.1. Các loại hình sử dụng đất của xã
Là xã có truyền thống sản xuất nông nghiệp, cho nên tại đây các loại hình sử dụng đất cũng mang những đặc điểm của vùng sản xuất nông nghiệp chuyên canh. Diện tích đất nông nghiệp toàn xã là 1.755,58 ha, chiếm 86,58 % tổng diện tích tự nhiên. Trong đó đất lúa có diện tích là 316,06 ha chiếm 18,00 % diện tích đất nông nghiệp và 56,19 % diện tích đất sản xuất nông nghiệp. Đất nuôi cá nước ngọt là 1,76 ha chiếm 0,1 % diện tích đất nông nghiệp.
Cơ cấu giống cây trồng chính trên địa bàn xã bao gồm:
-Lúa: giống Khang Dân, Nhị ưu 986, Nhị ưu 725, Khải Phong, QƯ1.
-Ngô: B.06, LVN14, CP888, C.919, NK66.
-Lạc: L14, giống địa phương.
-Khoai lang: giống địa phương.
-Sắn: KM94, giống địa phương.
-Dưa hấu: Hắc mỹ nhân 0386, Hắc mỹ nhân 755 An Tiêm 109, An Tiêm 108
- Dưa chuột: 365, 103...
- Các loại cây ăn quả như: chè thực phẩm, vải, cam, quít, và các loại cây ăn quả khác...
Trên đất nông nghiệp hiện đang có một số loại hình sử dụng đất sau:
Bảng 4.3. Các loại hình sử dụng đất chính
STT
Loại cây trồng
Kiểu sử dụng
1
Lúa
Chuyên canh ( Lúa xuân - Lúa mùa ).
Luân canh ( Lúa – Ngô đông ).
2
Ngô
Chuyên canh
Luân canh ( Ngô – Lúa, Ngô – Lạc ).
3
Lạc
Luân canh ( Lạc – Ngô ).
4
Sắn
Chuyên canh
(Nguồn: Điều tra và thu thập)
4.3.2. Hiệu quả sản xuất của đất
Hiệu quả sản xuất của đất đai biểu thị năng lực sản xuất hiện tại của việc sử dụng đất đai. Nó được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 4.4: Giá trị tổng sản lượng của đơn vị diện tích đất nông nghiệp
Chỉ tiêu
ĐVT
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Giá trị tổng sản lượng NLN
Triệu đồng
14.487,9
13.741,7
13.081,5
Diện tích đất nông nghiệp
Ha
1.768,25
1761,74
1.755,58
Giá trị tổng sản lượng của đơn vị diện tích đất nông nghiệp
Triệu đồng / ha
8.1934
7.8000
7.4513
Nguồn[9], [10], [11], [13].
Theo bảng 4.16 cho thấy giá trị tổng sản lượng nông nghiệp đang giảm dần theo các năm. Do sản lượng bị giảm sút nhất là cây lúa cây trồng chủ lực của xã. Làm cho giá trị sản lượng nông nghiệp giảm, mặc dù diện tích đất nông nghiệp tăng dần qua các năm. Do vậy cần bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý và cần chú trọng các biện pháp phòng tránh thiên tai và dịch bệnh phù hợp với địa phương.
4.3.3. Hiệu quả sử dụng đất
Hiệu quả sử dụng đất phản ánh khả năng khai thác sức sản xuât của đất đai của người dân địa phương thông qua một số chỉ tiêu như tỷ lệ sử dụng đất và hệ số sử dụng đất.
4.3.3.1. Cơ cấu sử dụng đất
Biểu đồ 4.1. Cơ cấu sử dụng đất của xã Tào Sơn năm 2009
Nguồn [13]
Tào Sơn là một xã nông nghiệp với 86,58 % diện tích đất nông nghiệp. Lao động và thu nhập chủ yếu từ hoạt động nông nghiệp. Trong khi đó một diện tích đất chưa sử dụng khá lớn ( 2,98 %) chưa được khai thác triệt để. Tuy nhiên, đây là loại đất khó khai thác chỉ được khai thác một diện tích nhỏ cho nông nghiệp đó là trồng rừng và nuôi trông thủy sản nhưng hiệu quả vẫn chưa cao, nên có thể đưa phần lớn diện tích vào sử dụng với mục đích phi nông nghiệp. Vì vậy, trong tương lai đất nông nghiệp sẽ không tăng thêm mà còn bị giảm xuống do quá trình đô thị hóa. Điều đó sẽ dẫn đến một điều là cơ cấu sử dụng đất sẽ bất hợp lý. Trong tương lai cần có chính sách bảo vệ hoặc có thể mở rộng những diện tích có thể sản xuất nông nghiệp để đảm bảo an ninh lương thực cho người dân.
4.3.3.2. Tỷ lệ sử dụng đất:
Bảng 4.5: Tỷ lệ sử dụng đất nông nghiệp giai đoạn 2007-2009
Chỉ tiêu
ĐVT
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Diện tích đất nông nghiệp
ha
1.768,25
1761,74
1.755,58
Tổng diện tích đất tự nhiên
ha
2.027,68
2.027,68
2.027,68
Tỷ lệ sử dụng đất
%
87,20
86,88
86,58
Nguồn [13]
Là một xã bán sơn địa tỷ lệ sử dụng đất của xã ở mức khá. Nhưng đang có nguy cơ giảm dần qua các năm.
Nguyên nhân có xu hướng giảm như vậy là do quá trình đô thị hoá và gia tăng dân số làm cho một phần diện tích đất nông nghiệp được chuyển đổi sang các mục đích sử dụng khác như : đất ở, đất xây dựng các công trình giao thông, thuỷ lợi, công trình công cộng…Kéo theo tỷ lệ sử dụng đất nông nghiệp cũng có xu hướng giảm dần qua các năm. Việc đất nông nghiệp giảm như vậy có tác động to lớn đối với người dân trong xã vì khoảng 80% dân số của xã là sản xuất nông nghiệp, điều này sẽ ảnh hưởng đến đời sống của người dân, nếu tiếp tục giảm như vậy sẽ không đảm bảo an ninh lương thực cho xã.
Tuy nhiên, việc giảm như vậy cũng hợp lý đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội của xã trong những năm qua và trong tương lai vì nó tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật tạo tiền đề cho sự phát triển, góp phần nâng cao mức sống của người dân, thay đổi bộ mặt xã hội. Do vậy, bên cạnh những kết quả đạt đựơc thì thời gian tới UBND xã cần cố gắng để có những biện pháp cải tạo, phục hoá đất chưa sử dụng thông qua kế hoạch hằng năm đưa quỹ đất chưa sử dụng đem vào sử dụng cho nhiều mục đích khác nhằm khai thác triệt để quỹ đất hiện có phù hợp với tiềm năng của địa phương.
4.3.4. Đánh giá hiệu quả sử dụng đất về mặt kinh tế
Hiệu quả kinh tế của việc sử dụng đất được biểu hiện trên một đơn vị diện tích trong một khoảng thời gian nhất định với một khối lượng sản phẩm tạo ra xác định.
4.3.2.1. Mức đầu tư của hộ nông dân trên một đơn vị diện tích.
Trong các hoạt động kinh tế, nguồn vốn đóng vai trò rất quan trọng. Nó là điều kiện tất yếu để các nhà đầu tư hoạch định các chương trình kế hoạch của mình. Hoạt động sản xuất nông nghiệp cũng vậy, nguồn vốn có ý nghĩa rất to lớn trong việc đầu tư thâm canh, cải tạo đất nhằm nâng cao năng suất cây trồng và hiệu quả sử dụng đất.
Chi phí đầu tư là một trong những yếu tố quan trọng quyết định tính hiệu quả của hoạt động sản xuất nông nghiệp. Hơn nữa nó còn ảnh hưởng rất lớn đến việc thay đổi thành phần, tính chất đất cũng như môi trường tự nhiên và sinh thái của cả vùng.
* Mức đầu tư cho LHSDĐ trồng Lúa:
Biểu đồ 4.2 : Mức đầu tư cho LUT trồng lúa
( Đơn vị tính: triệu đồng/ha)
( Nguồn: điều tra nông hộ )
Từ biểu đồ cho thấy:
So với mức đầu tư quy định của xã thì nhóm nghèo chỉ đạt 94,19 % so với mức đầu tư của xã. Nhóm trung bình đạt 99,70 %, nhóm khá – giàu có mức đầu tư cao hơn hẳn đạt 105,21 % so với quy định.
* Mức đầu tư cho LHSDĐ trồng Ngô:
Biểu đồ 4.3 : Mức đầu tư cho LUT trồng ngô
( Đơn vị tính: triệu đồng/ha)
( Nguồn: điều tra nông hộ)
Từ biểu đồ cho thấy:
Đối với loại hình sử dụng đất trồng ngô, nhóm nghèo có mức đầu tư 10.762 triệu đồng/ha so với mức quy định của xã chỉ đạt 96,09 %. Nhóm trung bình so với quy định của xã thì cao hơn là 100,38 %. Nhóm khá – giàu cao hơn nữa đạt 102,59 % so với quy định của xã.
* Mức đầu tư của LHSDĐ trồng lạc:
Biểu đồ 4.4: Mức đầu tư cho LUT trồng lạc
( Đơn vị tính: triệu đồng/ha)
( Nguồn: điều tra nông hộ )
Từ biểu đồ cho thấy:
Có sự chênh lệch giữa mức đầu tư của các nhóm hộ so quy định của xã. Nhóm nghèo có mức đầu tư thấp hơn so với quy định chỉ bằng 97,59 %. Nhóm trung bình cao hơn so với quy định đạt 101,09 %. Nhóm khá – giàu đạt 103,34 % so với quy định.
* Mức đầu tư của LHSDĐ trồng sắn:
Biểu đồ 4.5: Mức đầu tư cho LUT trồng Sắn
( Đơn vị tính: triệu đồng/ha)
( Nguồn: điều tra nông hộ )
Từ số liệu ở biểu đồ có thể thấy: mức đầu tư của các nhóm hộ có sự chênh lệch nhưng không đáng kể. Cũng như có sự chênh lệch giữa mức đầu tư của từng nhóm hộ với mức đầu tư quy định của xã.
Cụ thể:
Nhóm nghèo có mức đầu tư bằng 94,05 % so với quy định của xã.
Nhóm trung bình đạt 96,62 % so với quy định.
Nhóm khá – giàu đạt 106,08 % so với quy định.
Qua số liệu điều tra cho thấy giữa các nhóm hộ mức đầu tư có sự chênh lệch. Trong các loại chi phí thì giống nhau về giống, công lao động. Nhưng khác nhau về chi phí đầu tư nên chỉ so sánh về mức đầu tư giữa các nhóm hộ.
Do khả năng kinh tế của các nhóm hộ khác nhau nên có sự chênh lệch về mức đầu tư. Cùng với sự chênh lệch mức đầu tư giữa các nhóm hộ thì giữa mức đầu tư quy định của xã với các nhóm hộ cũng có sự khác nhau.
* Nhóm nghèo
Đây là nhóm có mức đầu tư thấp nhất. sở dĩ như vậy là do khả năng kinh tế của hộ không cho phép đầu tư cao. Tuy hợp tác xã cho tạm ứng lân và giống nhưng các chi phí khác như đạm, kali, thuốc bảo vệ thực vật thì thường mua ở đại lý nên khả năng chủ động không cao. Do các đại lý thường ít cho nợ, hoặc có cho thì hộ cũng không đầu tư cao vì thời hạn trả nợ thường lấy vào dịp thu hoạch. Nên do tâm lý các hộ không dám đầu tư như hộ trung bình và khá, giàu.
* Nhóm trung bình
Cũng giống như nhóm nghèo các hộ trong nhóm trung bình cũng được tạm ứng lân và giống. Đây là nhóm có khả năng chủ động trong việc mua vật tư ở mức trung bình, khá. Người dân chủ động hơn nên việc đầu tư cũng thuận tiện hơn.
* Nhóm khá – giàu
Đây là nhóm có mức đầu tư cao nhất. khả năng kinh tế của nhóm này rất thuận lợi cho việc đầu tư. Khả năng chủ đông của hộ rất cao. Nếu cần đầu tư vào những thời điểm như thúc đòng, bón lót… thì hộ đầu tư kịp thời và thường cao hơn các nhóm khác. Hơn nữa, nhận thức của hộ trong việc đầu tư cũng khác hơn, biết áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất hơn các hộ trong nhóm nghèo và trung bình.
Tuy nhiên, nhìn chung tình hình đầu tư của người dân vẫn chưa hợp lý và bị ảnh hưởng nhiều bởi yếu tố tâm lý. Người dân thường quan tâm nhiều hơn đến các loại đất tốt và hạn chế đầu tư đối với loại đất xấu. Không chỉ vậy, do nhận thức của người dân chưa cao nên họ đã lạm dụng về phân bón cũng như thuốc bảo vệ thực vật làm cho đất bị thoái hoá và kết quả sản xuất vì vậy đem lại không cao. Do đó, việc đầu tư hợp lý là một việc làm hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
4.3.2.2 . Diện tích, năng suất, của một số loại cây trồng chính
Diện tích, năng suất của một số cây trồng chính
Bảng 4.6: Diện tích, năng suất của một số cây trồng chính
Loại cây
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Diện tích (ha)
Năng suất (tạ/ha)
Diện tích (ha)
Năng suất (tạ/ha)
Diện tích (ha)
Năng suất (tạ/ha)
Cây lúa
378,9
54
415,6
50,9
413
40,8
Cây ngô
134
38
171,7
36
210
40
Cây lạc
26
23
22,3
23
23
24
Cây sắn
56
270
60
280
53
300
Nguồn [9], [10], [11]
Biểu đồ 4.6: So sánh bình quân năng suất lúa của xã Tào Sơn, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An
( Đơn vị tính: tạ/ha)
Nguồn [9], [10], [11], [14], [15]
So với bình quân năng suất của toàn huyện và toàn tỉnh thì năng suất lúa bình quân của xã có sự thay đổi qua các năm.
Năm 2007 đạt 108,35 % cao hơn năng suất bình quân của huyện và 115,56 % so với bình quân năng suất của tỉnh.
Năm 2008 năng suất bình quân của xã cao hơn bình quân của huyện và tỉnh, đạt 115,68 % so với bình quân năng suất của huyện nhưng gần bằng bình quân năng suất của tỉnh đạt 99,73 %.
Năm 2009 năng suất bình quân của xã thấp hơn chỉ đạt 80,03 % so với bình quân của huyện và 83,15 % so với bình quân năng suất toàn tỉnh.
Nguyên nhân:
- Xã có đất phù sa nội đồng được bồi đắp hàng năm phù hợp cho quá trình sinh trưởng và phát triển của cây lúa.
- Có hệ thống công trình thủy lợi và giao thông nội đồng thuận tiện cho sản xuất nông nghiệp.
- Người dân có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất lúa.
- Năm 2008 tuy năng suất bình quân của huyện giảm xuống nhưng năng suất bình quân của xã vẫn cao hơn do sau khi gieo trồng lại thì được sự chăm sóc của người dân nên năng suất cao hơn.
- Năm 2009 năng suất giảm và thấp hơn so với bình quân của huyện, tỉnh do bệnh “ vàng lùn, lùn xoắn lá ” làm năng suất của xã giảm mạnh.
Biểu đồ 4.7: So sánh bình quân năng suất ngô của xã Tào Sơn, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An
( Đơn vị tính: tạ/ha)
Nguồn [9], [10], [11], [14], [15]
Bình quân năng suất ngô của xã năm 2007 chỉ đạt 86,96 % so với bình quân năng suất của huyện nhưng lại cao hơn bình quân năng suất toàn tỉnh đạt 109,83 %.
Năm 2008 năng suất giảm so với năm 2007 chỉ đạt 82,32 % so với bình quân năng suất toàn huyện và 103,75 % bình quân chung toàn tỉnh.
Năm 2009 bình quân năng suất của xã, huyện và tỉnh đều tăng lên. Năng suất bình quân của xã đạt 83,72 % so với bình quân năng suất toàn huyện và 110,19 % so với bình quân năng suất toàn tỉnh.
Nguyên nhân:
- Xã có một diện tích bãi bồi ven sông Lam và diện tích đất màu nội đồng thích hợp cho trồng ngô.
- Người dân đã đưa giống mới vào sản xuất nên cho năng suất cao.
- Những năm gần đây còn gieo trồng ngô đông trên đất lúa, điều kiện đất mới, ít sâu bệnh nên năng suất cao hơn.
- Bình quân năng suất của xã thấp hơn bình quân năng suất của huyện là do bãi bồi ven sông Lam bị ngập lụt hàng năm khó khăn trong việc bố trí mùa vụ cũng như thu hoạch của người dân.
Biểu đồ 4.8: So sánh bình quân năng suất lạc của xã Tào Sơn, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An
( Đơn vị tính: tạ/ha)
Nguồn [9], [10], [11], [14], [15]
Bình quân năng suất lạc của xã cao hơn hẳn so với bình quân năng suất của huyện và tỉnh.
Năm 2007 đạt 117,65 % so với bình quân năng suất của huyện và 116,22 % so với bình quân năng suất của toàn tỉnh.
Năm 2007 đạt 121,05 % so với bình quân năng suất của huyện và 105,31 % so với bình quân năng suất của toàn tỉnh.
Năm 2007 đạt 117,07 % so với bình quân năng suất của huyện và 107,82 % so với bình quân năng suất của toàn tỉnh.
Nguyên nhân:
- Xã có điều kiện đất đai phù hợp với loại hình sử dụng đất trồng lạc: bãi bồi ven sông Lam, đất phù sa nội đồng được bồi đắp hàng năm.
- Đây là cây trồng lâu năm nên người dân có kinh nghiệm trong sản xuất.
- Hiện nay, người dân đưa vào sản xuất loại giống lạc mới L14 cho năng suất cao.
* Cây sắn
Biểu đồ 4.9: So sánh bình quân năng suất sắn của xã Tào Sơn, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An
( Đơn vị tính: tạ/ha)
Nguồn [9], [10], [11], [14], [15]
Năm 2007 đạt 79,64 % so với bình quân năng suất của huyện và 71,25 % so với bình quân năng suất của toàn tỉnh.
Năm 2008 đạt 81,39 % so với bình quân năng suất của huyện và 90,32 % so với bình quân năng suất của toàn tỉnh.
Năm 2009 đạt 87,72 % so với bình quân năng suất của huyện và 93,75 % so với bình quân năng suất của toàn tỉnh.
Nguyên nhân:
- Là loại cây trồng có thời gian sinh trưởng dài nên người dân ít chăm sóc.
- Đất trồng sắn chủ yếu là đất kém màu mỡ, không trồng được loại cây khác người dân mới trồng sắn.
- Giống chủ yếu là giống địa phương nên năng suất thấp.
- Sắn chủ yếu để dùng trong chăn nuôi ít dùng để bán nên người dân không chú trọng đầu tư.
b. Năng suất của một số cây trồng chính ở quy mô nông hộ
* Cây lúa
Biểu đồ 4.10: So sánh bình quân năng suất lúa giữa các nhóm hộ với bình quân năng suất của xã
( Đơn vị tính: tạ/ha)
( Nguồn điều tra nông hộ )
Năng suất của các nhóm hộ có sự chênh lệch và chênh lệch với năng suất bình quân của xã. Sở dĩ như vậy bởi mức đầu tư của các hộ khác nhau nên năng suất cũng khác nhau.
Tuy mức đầu tư giữa các nhóm hộ không chênh lệch là mấy nhưng năng suất lại có sự chênh lệch đáng kể, nhất là giữa nhóm giàu và nhóm nghèo. So với bình quân năng suất của xã thì nhóm nghèo chỉ đạt 92,60 %, trong khi đó n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đánh giá hiệu quả sử dụng đất sản xuất nông nghiệp tại xã Tào Sơn, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An.doc