Chương I : Một số lý luận chung về quỹ tín dụng nhân dân
1.1. Quá trình hình thành và phát triển QTDND 3
1.2. Hoạt động chủ yếu của QTDND 4
1.2.1. Đối với QTDND cơ sở 4
1.2.2. Đối với QTDND TW 5
1.3. Sản phẩm và dịch vụ của QTDND 6
1.3.1. Tiền gửi 6
1.3.2. Cho vay 6
1.3.3. Các dịch vụ chuyển tiền 7
1.4. Vai trò của QTDND 7
1.4.1. Huy động và cung cấp vốn 7
1.4.2. Xoá đói giảm nghèo, hạn chế tín dụng đen 9
1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động QTDND 10
1.5.1. Các nhân tố chủ quan 10
1.5.2. Các nhân tố khách quan 12
1.6. Kinh nghiệm các nước 17
1.6.1. Kinh nghiệm lý luận 17
1.6.2. Kinh nghiệm triển khai 18
Chương II : Thực trạng hoạt động của hệ thống QTDND ở Việt Nam
2.1. Khái quát quá trình hoạt động 22
2.2. Thực trạng hoạt động 25
2.3. Đánh giá hoạt động 28
2.3.1. Những mặt tích cực 28
2.3.2. Những mặt hạn chế 30
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế 30
35 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1599 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá hoạt động của hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thời gian vay phong phú, đối tượng cho vay phục vụ được nhu cầu đa dạng của dân cả về sản xuất kinh doanh lẫn tiêu dùng (như mua nhà xây dựng sửa chữa nhà ở, phục vụ nhu cầu sinh hoạt khác) thì sẽ giải quyết được vấn đề đầu ra
Chất lượng nhân sự
QTDND phải có đủ cán bộ có năng lực, hiểu biết nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ, nhất là những cán bộ có trách nhiệm quản lý và điều hành. Kinh doanh tiền tệ tín dụng là một loại hình kinh doanh phức tạp, đòi hỏi cán bộ làm công tác này phải thật năng động, nhạy bén với tình hình, tinh thông nghiệp vụ và có phẩm chất đạo đức tốt. ở những địa phương, xét thấy chưa đủ nguồn cán bộ theo tiêu chuẩn và chưa được đào tạo huấn luyện thì chưa thể xây dựng QTD. Kinh nghiệm đã cho thấy: cán bộ là nhân tố rất quan trọng, nếu không nói là quyết định. Không chú ý điều kiện này xây dựng một cách gò ép, hình thức, hay theo phong trào sẽ dẫn đến thất bại.
Kinh doanh tiền tệ thường xuyên phải bảo đảm cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn, vốn càng luân chuyển nhanh càng có lãi. Nó không những đảm bảo không bị đọng vốn mà còn phải đảm bảo khả năng thanh toán. Người điều hành QTD phải thật nhạy bén với cơ chế thị trường. Hàng hoá tiền tệ nó khác biệt với bất kỳ loại hàng hoá nào khác. QTD là nguồn đi vay để cho vay nên không thể không để tồn kho nhưng lúc nào cũng phải đủ khả năng thanh toán khi người cho QTD vay có yêu cầu rút tiền, cán bộ điều hành QTD không nắm được yêu cầu đó thì không thể nào đáp ứng yêu cầu.
l Yếu tố trụ sở, phương tiện bảo quản tiền bạc, sổ sách chứng từ
Là đơn vị kinh doanh tiền tệ, là người thủ quĩ của nhân dân nên QTD phải có trụ sở và phương tiện bảo quản tiền bạc, sổ sách, chứng từ. Đây là cơ sở để đảm bảo niềm tin trong nhân dân, dân có tin tưởng mới gửi tiền vào QTD. Trụ sở phải được đặt ở những nơi trung tâm, thuận tiện cho giao dịch, phù hợp với tâm lý đại đa số thành viên. Không chạy theo hình thức nhưng phải bảo đảm khang trang, chắc chắn, an toàn về tài sản. Trong thời gian đầu, bốn điều lệ của QTD còn thấp, các loại quỹ chưa hình thành thì có thể tận dụng trong hoàn cảnh cho phép, nhưng về lâu dài QTD phải xây dưng trụ sở có kho bảo quản tiền bạc, chứng từ, sổ sách.
Địa bàn xây dựng QTD
QTD chỉ nên xây dựng ở những địa phương kinh tế hàng hoá phát triển nghĩa là có khả năng huy đông vốn và có nhu cầu vay vốn. Một khi sản xuất hàng hóa đã phát triển, cơ cấu kinh tế đã thay đổi, các ngành nghề đều phát triển sẽ nảy sinh nhu cầu vay vốn thường xuyên và ngày càng nhiều. Và trong quá trình sản xuất kinh doanh sẽ nảy sinh có những người tạm thời thừa vốn và những người tạm thời thiếu vốn. QTD ra đời sẽ làm nhiệm vụ trung gian, huy động vốn của người thừa vốn cho người tạm thời thiếu vốn vay. Đó chính là điều kiện, tiền đề hình thành và sau khi ra đời, quỹ tín dụng mới có đủ điều kiện và phát triển.
ở những địa phương sản xuất còn mang tính tự cung tự cấp, nhu cầu vay vốn rất ít khả năng vốn tạm thời nhàn rỗi cũng rất hạn chế. ở những địa phương này có hình thành QTD cũng không thể tồn tại và phát triển. Vì mức độ và phạm vi hoạt động bị hạn hẹp không bảo đảm cho QTD kinh doanh có lãi, thu nhập không đủ bù đắp chi phí thì không thể thực hiện được nguyên tắc hạch toán độc lập, tự chủ về tài chính như cơ chế đã quy định.
1.5.2. Các nhân tố khách quan
Thái độ và chính sách của Nhà nước
Các tổ chức QTDND cũng là những tổ chức kinh tế, là một bộ phận của nền kinh tế nên chịu sự tác động của quan điểm và chính sách từ phía Nhà nước. Nếu Nhà nước nhận thấy lợi ích to lớn mà các QTD đem lại thì sẽ có thái độ ủng hộ, tạo môi trường hoạt động và có những chính sách khuyến khích, hỗ trợ cho các QTD. Ngược lại nếu các QTD được xem là một nguy cơ gây mất ổn định trong xã hội thì Nhà nước sẽ có thái độ khác và tìm cách kiểm soát chặt chẽ hạn chế và thậm chí cấm các QTDND hoạt động. Do vậy việc xem xét đánh giá đúng và khách quan về các QTD sẽ quyết định tới thái độ và chính sách của Nhà nước tới việc phát triển hay cấm các QTDND hoạt động. Đó là các chính sách về việc đưa ra các khung khổ pháp lý thuận lợi, tạo đất và các sân chơi cho các tổ chức TDHT phát triển, chính sách quản lý giám sát hỗ trợ nguồn vốn, điều kiện cơ sở vật chất và con người, các chính sách miễn giảm hay ưu đãi về thuế, công tác vận động, bảo hiểm, cạnh tranh...Thông qua các chính sách khuyến khích này mà các tổ chức TDHT có thể nhanh chóng phát triển cả về số lượng, chất lượng và qui mô. Như vậy để phát triển các tổ chức TDHT nhà nước có thể đóng vai trò là người khởi xướng việc xây dựng phát triển một hệ thống TDHT thông qua thái độ và chính sách vận động tuyên truyền hỗ trợ của nó.
Quản lý vĩ mô của Nhà nước
- Tạo dựng môi trường và khung khổ pháp lý
Môi trường và khung khổ pháp lý tạo ra sân chơi và đất cho các tổ chức TDHT hoạt động và phát triển. Môi trường pháp lý có lành mạnh, minh bạch và việc thực thi pháp luật có được bảo đảm thì các chủ thể kinh tế mới có thể yên tâm làm ăn. Một sân chơi có bình đẳng, luật chơi có rõ ràng, trọng tài có khách quan mới thu hút được đông người tham gia. Đây thường là công việc của cơ quan lập pháp của các nước. Những lĩnh vực pháp lý chính tạo ra môi trường pháp lý cho các tổ chức TDHT là các qui định luật pháp như Luật hợp tác xã, Luật các tổ chức tín dụng, Luật thương mại. Hai luật quan trọng nhất trực tiếp qui định về tổ chức và hoạt động của các tổ chức TDHT là Luật hợp tác xã và Luật các tổ chức tín dụng. Nó tạo ra khung khổ pháp lý chính cho các tổ chức TDHT.
- Cấp và thu hồi giấy phép, thanh tra và giám sát.
Khi cho phép mô hình TDHT hoạt động, ngoài việc tạo lập một khung khổ pháp lý và môi trường cho nó hoạt động, Nhà nước còn phải thức hiện việc cấp và thu hồi giấy phép hoạt động, tiến hành thanh tra và giám sát hoạt động của các tổ chức TDHT. Việc cấp và thu hồi giấy phép của Nhà nước thể hiện việc chính thức hoá hay xoá sổ hoạt động của các tổ chức TDHT và qui định luật áp dụng điều chỉnh tương ứng đối với các tổ chức này. Khi đi vào hoạt động, Nhà nước phải thường xuyên thanh tra giám sát hoạt động của các tổ chức TDHT nhằm đảm bảo sự tuân thủ pháp luật trong hoạt động của các tổ chức TDHT. Các biện pháp giám sát từ phía Nhà nước mang tính phòng ngừa và bảo vệ này phải phù hợp với các nguyên tắc của thị trường và nguyên tắc hoạt động của tổ chức TDHT. Đây thường là công việc của cơ quan thanh tra các tổ chức tín dụng hay ngân hàng trung ương của các nước. Việc cấp và thu hồi giấy phép hay thanh tra giám sát của các cơ quan hữu trách nếu có phương pháp phù hợp, thực hiện tốt, hiệu quả không gây phiền nhiễu khó khăn cho các tổ chức TDHT sẽ tác động tích cực tới sự phát triển an toàn của từng tổ chức cũng như cả hệ thống các tổ chức TDHT.
Vai trò của quốc tế
Chúng ta ngày nay sống trong một thời kì mà quá trình toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ tại các quốc gia, đặc biệt ở các nước đang phát triển. Mở cửa và hội nhập quốc tế là xu hướng phát triển chung, do vậy các tổ chức TDHT và sự phát triển của nó cũng chịu ảnh hưởng và tác động quốc tế không nhỏ. Đó là sự giao lưu, trao đổi thông tin, bài học kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng và phát triển các tổ chức TDHT hay việc mở rộng hoạt động ra thị trường quốc tế cũng như chịu sự cạnh tranh từ nước ngoài. Đó là sự kết nối, ra nhập các tổ chức quốc tế liên quan tới tổ chức TDHT như tổ chức liên minh hợp tác xã quốc tế ICA, Hội ngân hàng nhân dân quốc tế CICP, Liên minh Raiffeisen quốc tế IRU. Đó là sự hỗ trợ về kĩ thuật, vốn từ các tổ chức quốc tế, quốc gia khác trong việc xây dựng và phát triển các tổ chức TDHT. Những kinh nghiệm và sự hỗ trợ quốc tế có tác động rất tích cực tới việc xây dựng và phát triển tổ chức TDHT, đặc biệt là việc tránh được những thất bại, sự trả giá và rút ngắn được thời gian xây dựng.
Tính rủi ro và ảnh hưởng dây truyền của hoạt động của QTDND.
QTDND là loại hình TCTD hợp tác hoạt động chủ yếu là huy động vốn để cho vay đối với các thành viên của khu vực nông nghiệp, nông thôn là nơi mặt bằng kinh tế còn thấp sản suất, kinh doanh còn chứa đựng nhiều rủi ro (do phụ thuộc nhiều yếu tố khách quan như thời vụ, thiên tai, giá cả ...) Trong khi đó qui mô hoạt động và năng lực tài chính của các QTD thường nhỏ bé, trình độ các bộ và nhân viên còn hạn chế. Vì vậy QTDND là loại hình TCTD thường xuyên phải đối mặt với nhiều rủi ro và cũng dễ xảy ra đổ vỡ nhất so với các loại hình TCTD khác.
Không những thế do hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ, TD và NH là lĩnh vực rất nhạy cảm, chịu tác động rất lớn bởi yếu tố tâm lý, thông tin và nhiều yếu tố ảnh hưởng khách quan, chủ quan khác nên khi đối mặt với những nguy cơ đổ vỡ, việc khắc phục đưa QTDND trở lại hoạt động bình thường gặp rất nhiều khó khăn. Hơn nữa tuy các QTDND và các pháp nhân độc lập đồng thời thông qua các bộ phận tổ chức liên kết, phát triển hệ thống có chức năng đại diện bảo vệ quyền lợi định hướng phát triển, cung cấp các dịch vụ tư vấn thông tin thực hiện kiểm toán, quản lý quĩ an toan và đào tạo nguồn nhân lực cho toàn hệ thống QTDND .
Trong cơ chế liên kết kinh tế QTDNDTW và các doanh nghiệp cần cung cấp dịch vụ tài chính hỗ trợ hoạt động theo nguyên tắc không cạnh tranh mà hỗ trợ cho các QTDND nâng cao hiệu quả hoạt động của mình nhằm phục vụ thành viên của các QTDND cơ sở ngày một tốt hơn qua đó nâng cao khả năng cạnh tranh và thúc đẩy sự phát triển của từng QTDND cơ sở cũng như toàn hệ thống các QTDND cơ sở là chủ sở hữu và cũng là khách hàng của tổ chức nói trên; đồng thời QTDND cơ sở chính là nơi tạo ra nguồn thu nhập căn bản cho hệ thống QTDND, chính vì vậy mà chỉ khi các QTDND hoạt động tốt thì hệ thống QTDND mới phát triển tốt, trong khi đó bộ phận tổ chức liên kết phát triển hệ thống tuy không trực tiếp tiến hành các hoạt động kinh tế nhưng có chức năng hỗ trợ và đảm bảo cho các thành viên nhất là đối với QTDND cơ sở cũng như toàn bộ hệ thống phát triển an toàn và bền vững.
Điều kiện về địa bàn thông tin liên lạc và giao thông vận tải
QTD hoạt động kinh doanh trong một cơ chế thị trường, lại có nhiều tổ chức hoạt động trong lĩnh vực này nên đòi hỏi phải nhạy bén, nắm bắt được thông tin liên lạc để có biện pháp xử lý phù hợp. Như việc xử lý về lãi suất, đối tượng cho vay, vấn đề thời vụ, lúc nào cần tung vốn ra, lúc nào cần thu hẹp vốn đầu tư ... nếu không có mạng lưới thông tin liên lạc làm sao những người quản trị điều hành nắm bắt được tình hình để xử lý, đề ra những chủ trương biện pháp hữu hiệu, đảm bảo cho việc kinh doanh được tiến hành thuận lợi hiệu qủa.
Phương tiện thông tin liên lạc chủ yếu là điện thoại, vi tính, đường giao thông, phương tiện vận chuyển.
Sự liên kết hệ thống QTDND
Lịch sử phát triển mô hình QTDND đã cho thấy trong hệ thống QTDND, thì QTDND cơ sở là loại hình ra đời sớm nhất và cũng là nơi trực tiếp tiến hành các hoạt động tiền tệ TDNH để hỗ trợ các thành viên (là chủ thể hoạt động kinh tế riêng biệt) nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của riêng họ đây chính là mục tiêu cơ bản và lâu dài mà các thành viên mong muốn khi cùng nhau góp vốn thành lập QTDND.
Để có thể duy trì sự tồn tại và phát triển nhằm hỗ trợ lâu dài và bền vững cho các thành viên trong điều kiện kinh tế thị trường, các QTDND cơ sở (là những TCTD hoạt động độc lập có quy mô nhỏ với những yếu điểm vốn có như đã phân tích ở trên ) không còn con đường nào khác là phải cùng nhau thiết lập một cơ chế liên kết chặt chẽ nhằm vừa phát huy các ưu điểm, lợi thế vốn có của mình lại vừa khắc phục được các yếu điểm cố hữu mà mỗi QTDND không tự mình giải quyết được. Hệ thống liên kết này còn được vận hành một cách đông bộ và toàn diện thông qua cơ chế liên kết kinh tế giữa các đơn vị cấu thành của bộ phận trực tiếp hoạt động trung gian phục vụ thành viên là QTDND cơ sở, QTDND khu vực, QTDND TW và các tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính hỗ trợ.
Tóm lại hoạt động của QTD chịu tác động bởi rất nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, các yếu tố có thể tác động theo hướng tích cực và tiêu cực. Chúng ta cần phải tìm hiểu phân tích, đánh giá, các tác động của những nhân tố này để nâng cao hoạt động của hệ thống QTD.
1.6. Kinh nghiệm của các nước trong việc phát triển hệ thống QTDND
1.6.1 Kinh nghiệm về mặt lý luận
Một là: Nhận thức đúng về loại hình tổ chức TDHT
Những nhận thức lệch lạc thường hay gặp ở các nước là coi tổ chức TDHT như là một công cụ để thực thi các chính sách xã hội của Nhà nước hay coi là một tổ chức xã hội từ thiện dẫn đến mục tiêu của tổ chức TDHT sẽ bị đẩy ra phía sau làm cho lợi ích của các thành viên về lâu dài không được đảm bảo. Theo kinh nghiệm của các nước, họ luật hoá luôn mục tiêu và các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của tổ chức TDHT và đảm bảo cho tính thực thi của luật này.
Hai là : Có một khung khổ pháp lý ổn định
Kinh nghiệm của các nước là chỉ qui định những đIều khoản chung nhất, mang tính bắt buộc không thể thiếu được, bất di bất dịch trong luật, còn để lại độ tự do, tự chủ cho các tổ chức TDHT tự quyết định thông qua tổ chức đại diện quyền lợi hay chính họ.
Ba là : Có chế độ kiểm toán TDHT bắt buộc toàn diện và theo chỉ định.
Xuất phát từ những yếu điểm mang tính đặc thù nội tại của loại hình TDHT như cơ chế giám sát dân chủ lơ là thì bắt buộc phải áp dụng một chế độ kiểm toán độc lập đối với các tổ chức TDHT. Theo kinh nghiệm các nước, chế độ kiểm toán bắt buộc này sẽ do Nhà nước qui định, thường dưới một qui chế kiểm toán. Nhà nước sẽ giao cho một tổ chức nào đó có đủ điều kiện và khả năng để thực hiện kiểm toán tại các tổ chức TDHT, theo đó Nhà nước thường trao quyền kiểm toán cho các tổ chức kiểm toán của hệ thống liên kết TDHT như cho hiệp hội Đức hay một công ty kiểm toán chuyên nghiệp thuộc Tổng liên đoàn (Canada).
Bốn là: Có một hệ thống đào tạo hiệu quả
Theo kinh nghiệm của các nước phát triển, chương trình đào tạo phải gắn và mang tính thực tiễn cao, dễ áp dụng triển khai. Một mặt các cán bộ, nhân viên phải tự có trách nhiệm tự học hỏi nâng cao trình độ, mặt khác phải mời những giảng viên có trình độ kinh nghiệm về giảng dạy.
1.6.2. Kinh nghiệm triển khai
Một là: Hoạt động theo đúng các nguyên tắc TDHT cơ bản.
- Nhà nước là người khởi xướng, vận động xây dựng các tổ chức TDHT nhưng không được phép ép buộc người dân gia nhập tổ chức TDHT .
- Các tổ chức TDHT được xây dựng từ nhu cầu của thành viên dưới sự dẫn dắt của các thành viên sáng lập hay các tổ chức đại diện quyền lợi chứ không phải từ một ý chí chủ quan nào cả.
- Nhà nước không dùng các biện pháp can thiệp hành chính, phi thị trường .
- Nhà nước không can thiệp vào công việc nội bộ của tổ chức TDHT
- Nhà nước khuyến khích sự phát huy tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, tính tự trợ giúp trong tổ chức TDHT
Hai là : Xây dựng một hệ thống liên kết TDHT hoàn chỉnh .
a. Khối tổ chức TDHT cơ sở
- Xây dựng và phát triển ở cả đô thị và nông thôn.
- Hoạt động như những NH đa năng, cung cấp mọi dịch vụ NH.
- Hoạt động trên địa bàn khu vực đủ rộng lớn để có quy mô hoạt động đảm bảo tính kinh tế tối thiểu nhưng không quá lớn để đảm bảo sự kiểm soát, hạn chế rủi ro cho các tổ chức TDHT.
- Thành viên của tổ chức TDHT bao gồm cả thể nhân và pháp nhân.
- Có xu hướng sáp nhập lại với nhau để tạo thành các tổ chức TDHT mạnh hơn, có quy mô và địa bàn hoạt động lớn hơn.
- Có sự phân công nhiệm vụ, chức năng rõ ràng với mức thẩm quyền và trách nhiệm tương ứng giữa các cơ quan của tổ chức TDHT
- Nâng cao vốn tự có bằng việc trích lập thoả đáng quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ hàng năm nhằm nâng cao năng lực tài chính của tổ chức TDHT để hoạt động và phòng ngừa rủi ro, đồng thời tạo nguồn vốn ổn định không phải trả lãi, tránh được sự bất ổn định về nguồn vốn khi có biến động về số lượng hay vốn góp của thành viên .
- Khuyến khích nhiều thành viên góp ít vốn để tạo ra vốn điều lệ lành mạnh ổn định.
b. Khối tổ chức hỗ trợ trực tiếp hoạt động kinh doanh
Đa phần các nước đều học tập kinh nghiệm của Đức, thành lập ra các tổ chức TDHT đầu mối các cấp của riêng hệ thống. Các tổ chức TDHT đầu mối này do chính các tổ chức TDHT xây dựng ở khắp nơi để bảo đảm phục vụ, hỗ trợ kịp thời và thiết thực cho chính họ. Nó được tổ chức thành nhiều cấp và có sự phân công nhiệm vụ chức năng giữa các cấp để tránh chồng chéo và cạnh tranh trong nội bộ hệ thống. Nó được thành lập ở cấp khu vực/ tỉnh/ bang và cấp quốc gia / liên bang (Đức, Canada, Pháp, áo...)
Tuỳ theo điều kiện về hạ tầng, cạnh tranh, giai đoạn, trình độ phát triển và việc áp dụng các công nghệ tin học hiện đại mà các tổ chức TDHT đầu mối ngày nay được sắp xếp lại cho phù hợp theo xu hướng giảm dần các tầng lớp trung gian ở cấp khu vực (Canada, Đức).
Ngoài ra, hệ thống liên kết tổ chức TDHT của nhiều nước còn có nhiều doanh nghiệp đặc biệt chuyên doanh khác nữa (Đức, Canada) như các công ty bảo hiểm , công ty cho thuê tài chính, công ty thế chấp bất động sản, quỹ tiết kiệm xây dựng, liên minh đầu tư ... do chính các tổ chức TDHT thành lập để cung cấp chủ yếu cho riêng họ các dịch vụ chuyên doanh về tài chính, ngân hàng hay bảo hiểm … giúp cho các tổ chức TDHT tuy nhỏ bé nhưng vẫn có thể cung cấp mọi dịch vụ của một ngân hàng đa năng cho thành viên, khách hàng.
c. Khối tổ chức hỗ trợ gián tiếp hoạt động kinh doanh
Thứ nhất : Xây đựng tổ chức đại diện quyền lợi cho hệ thống TDHT
Các tổ chức đại diện quyền thường đảm nhận ngoài chức năng đại diện quyền lợi cả các chức năng khác như tư vấn, thông tin, tuyên truyền, đào tạo, cho các tổ chức TDHT (Anh, Luxembua, Bỉ,...). ở nhiều nước nó cũng đảm nhận một số chức năng cung cấp các dịch vụ hỗ trợ trực tiếp hoạt động kinh doanh cho các tổ chức TDHT của các tổ chức TDHT đầu mối (Thuỵ Sĩ, Bỉ ).
Thứ hai: Mô hình tổ chức kiểm toán tổ chức TDHT
Theo kinh nghiệm của các nước, các tổ chức TDHT đều phải được kiểm toán bắt buộc định kì hàng năm. Đối với các tổ chức TDHT nhỏ có thể tiến hành kiểm toán hai năm một lần. Nội dung kiểm toán ở đây là toàn diện, gắn với tư vấn cho các tổ chức TDHT. Việc thực kiểm toán thường được trao cho một tổ chức kiểm toán của hệ thống.
Thứ ba: Mô hình tổ chức an toàn hệ thống
Các nước có hệ thống các tổ chức TDHT phát triển thành công đều có các tổ chức an toàn hệ thống. ở CHLB Đức là quĩ bảo toàn, còn ở Canada là công ty an toàn.
Thứ tư: Mô hình đào tạo
Các nước có hệ thống QTDND phát triển như Canada và Đức đã có rất nhiều kinh nghiệm trong việc xây dựng mô hình đào tạo. Tuỳ theo điều kiện tài chính mà các tổ chức TDHT có thể cùng góp tiền để tự mời giảng viên về giảng dạy, tự tổ chức các khoá bồi dưỡng hay giao hẳn việc này cho tổ chức đại diện quyền lợi thức hiện. Khi điều kiện tài chính cho phép, họ cùng đóng góp để xây dựng các Học viện hoặc trung tâm đào tạo cán bộ cho riêng hệ
thống. ở Đức có tới 18 học viện đào tạo cán bộ cho hệ thống NHHTX.
Ba là : Nhà nước hậu thuẫn thông qua hệ thống chính sách, pháp luật và cơ quan quản lý.
Kinh nghiệm của các nước cho thấy, Nhà nước nào quan tâm tới lọai hình TDHT, ủng hộ, thừa nhận hoạt động tích cực của các tổ chức TDHT thì ở đó có một hệ thống chính sách và pháp luật nhất quán thuận lợi cho các tổ chức TDHT phát triển. Đó là các chính sách hỗ trợ ban đầu trên tinh thần giúp đỡ sẽ tự trợ giúp tức là nâng cao khả năng tự trợ giúp của các tổ chức TDHT trong việc xây dựng và phát triển mà không vi phạm các nguyên tắc TDHT cơ bản. Trong thời kỳ "vạn sự khởi đầu nan" này thì những chính sách như ưu đãi về thuế, hỗ trợ về nguồn vốn, cơ sở vật chất, con người... có ý nghĩa thiết thực.
Tóm lại, các tổ chức TDHT là những tổ chức tự trợ giúp, tự phát huy nội lực của những người dân để tạo ra và cung cấp các dịch vụ tín dụng ngân hàng một cách nhanh chóng, kịp thời và thuận lợi cho họ nhằm phục vụ sản xuất, kinh doanh, cải thiện và nâng cao đời sống của thành viên. Đây là loại hình tổ chức HTX hoạt động trong lĩnh vực tín dụng, ngân hàng với những nguyên tắc TDHT nền tảng cơ bản và những cấu trúc đặc thù riêng. Chính bởi vậy để phát triển an toàn, hiệu quả và bền vững thì các tổ chức TDHT đã phải xây dựng các tổ chức liên kết TDHT để hỗ trợ cho họ, tạo thành một hệ thống liên kết TDHT. Tổ chức TDHT đã tồn tại và phát triển thành công từ hơn 150 năm nay ở trên 100 các quốc gia có trình độ phát triển rất khác nhau trên thế giới dưới nhiều hình thức và tên gọi khác nhau với những hệ thống liên kết của chúng trong những môi trường, điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội rất khác nhau nhưng về bản chất chúng đều giống nhau. Tổ chức TDHT đã, đang và sẽ đem lại lợi ích rất to lớn cho các thành viên, người dân và Nhà nước của các quốc gia nên đáng được trân trọng, khuyến khích và hỗ trợ phát triển
Chương II
thực trạng hoạt động của
hệ thống quỹ tín dụng nhân dân VIệT NAM
2.1. Khái quát quá trình hoạt động của hệ thống QTDND :
Lúc đầu hệ thống QTDND được thành lập và hoạt động ở 3 cấp : QTDND cơ sở (hoạt động ở cấp xã), QTDND khu vực (ở cấp tỉnh, thành phố), QTDND Trung Ương (đầu mối cho cả nước).
Điều kiện để thành lập QTDND cơ sở:
+ Phải nằm trên địa bàn của xã có môi trường kinh tế phát triển thuận lợi, giao thông thuận tiện, nhân dân tại xã đó phải có nhu cầu về việc gửi tiền, về vay vốn để phát triển sản xuất kinh doanh. Cấp uỷ Đảng và UBND xã sở tại đồng ý chấp thuận xin trên cho thành lập QTDND tại địa bàn xã.
+ Về con người: phải có phẩm chất đạo đức, có sự am hiểu và hiểu biết về kinh tế-tài chính, có kinh tế để góp cổ phần. Lúc đầu thành lập: phải có ít nhất 14 thành viên ở trong Ban trù bị (do UBND xã chấp thuận) và phải có vốn điều lệ tối thiểu là 100 triệu đồng, tiếp đó làm một số thủ tục cần thiết, mở Đại hội thành viên đầu tiên để bầu ra Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Ban điều hành, sau đó hội đủ các điều kiện trình NHNN tỉnh để xin cấp giấy phép hoạt động. NHNN tỉnh cấp giấy phép hoạt động và thành lập QTDND, chịu trách nhiệm đào tạo cán bộ quỹ , hướng dẫn về các mặt nghiệp vụ hoạt động của QTD. Quỹ TD phải chịu sự thanh tra, kiểm tra của NHNH (đến nay cán bộ phải có đủ trình độ theo quy định thì mới cho thành lập quỹ).
2.1.1. Giai đoạn 1988-1992
Các TCTD chưa nhiều, loại hình chưa đa dạng, mới chỉ có 4 NH Quốc doanh, một số NHTM cổ phần, 7100 HTXTD nông thôn và QTD đô thị.
Khi nền kinh tế chuyển từ bao cấp sang cơ chế thị trường thì cơ chế tổ chức và hoạt động của các tổ chức này không còn phù hợp. Thêm vào đó là tình trạng lạm phát, cơ chế điều hành lãi suất và một số nguyên nhân khác đã làm cho hơn 7000 HTXTD và QTD đô thị trong toàn quốc bị đổ vỡ, mất khả năng thanh toán và phải thanh lý hàng loạt để lại một dấu ấn không tốt, làm mất lòng tin trong các cấp uỷ Đảng và nhân dân.
2.1.2. Giai đoạn từ cuối 1992-1995
Cuối năm 1992 chỉ còn hơn 100 HTX tín dụng tồn tại. Thực hiện nghị quyết 390/TTg ngày 27/7/1993 của Thủ tướng Chính phủ về việc thí điểm thành lập một hệ thống QTD (theo hình thức HTX) có 3 cấp liên kết kinh tế với nhau hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau cùng tồn tại phát triển (trên 900 quỹ được thành lập):
QTDND cơ sở
QTDND cơ sở
QTDNDcơ sở
QTDND
Khu vực
QTDND
Khu vực
QTDND
Khu vực
QTDND TW
Sơ đồ mô hình TDND
Sau giai đoạn thí điểm, mô hình QTDND đã được rút kinh nghiệm và triển khai rộng khắp ở các tỉnh-thành phố khác trong cả nước.
2.1.3. Giai đoạn 1/1/1996-7/2000 :
Giai đoạn này, Luật HTX ra đời, theo sự chỉ đạo của NHNH, các QTDND cơ sở tiến hành làm đầy đủ các khâu, tổ chức Đại hội chuyển đổi sang đồng thời hoạt động theo Luật chuyên ngành. Do đó từ năm 1996 đến nay, trên thị trường tài chính nông thôn nước ta xuất hiện một tổ chức mới làm nhiệm vụ huy động vốn và cho vay vốn, vừa hoạt động theo Luật các TCTD, vừa hoạt động theo Luật HTX, ở dạng mô hình HTXTD, đó là hệ thống QTDND. Thời điểm cao nhất cả nước có 960 QTDND cơ sở, 21 QTDND khu vực, một số tỉnh có số lượng QTD lớn : Thái Bình(78 quỹ), Hà Tây(76 quỹ), Hải Dương(74 quỹ). Chất lượng hoạt động của các QTDND đã được cải thiện, trước hết là chất lượng tín dụng; một số QTDND yếu kém đã có nhiều nỗ lực vươn lên bước đầu trở lại hoạt động bình thường.
2.1.4. Giai đoạn 8/2000 đến nay
Xuất phát từ yêu cầu phát triển hệ thống QTDND sau tổng kết thí điểm, Bộ Chính trị đã có chỉ thị số 57-CT/TW ngày 10/10/2000 : “ Về củng cố hoàn thiện và phát triển hệ thống QTDND “.
Sau 1 năm thực hiện, chất lượng hoạt động của hệ thống QTDND đã được cải thiện một bước quan trọng (số liệu tính đén 30/9/2001) : 924 QTDND cơ sở (giảm 36 quỹ so với thời điểm Chỉ thị 57 được ban hành); trong đó 687 quỹ hoạt động bình thường (tăng 98 quỹ ~16,6%); 192 quỹ yếu kém (giảm 112 quỹ~36,9%); 42 quỹ có nguy cơ mất khả năng chi trả (tăng 3 quỹ~7,6%-số tăng này tập trung ở Kiên Giang).
Nhiều QTDND đã được kiện toàn về mặt tổ chức cán bộ, xây dựng, hoàn thiện và làm việc theo quy chế, chấp hành đúng pháp luật, từ đó giúp cho hoạt động của các QTDND đã đi vào nề nếp, hoạt động nghiệp vụ đã có nhiều tiến bộ, chất lượng các mặt hoạt động được nâng lên, đặc biệt là công tác tín dụng.
Tính đến đầu năm 2004, hệ thống QTDND cơ sở có 911.926 thành viên là các hộ gia đình góp vốn, bình quân 1.016 thành viên/quỹ. Hầu hết các QTDND cơ sở đều hoạt động có lãi và có tích luỹ, tạo nên sự đa dạng của hoạt động tài chính-tiền tệ ở nông thôn trong quá trình chuyển đổi cơ cấu sang nền sản xuất hàng hoá,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0853.doc