Mục lục
1 Lý luận chung 4
1.1 Vị trí & vai trò của kinh tế tư nhân đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế. 4
1.1.1 Khái niệm 4
1.1.2 Vị trí 4
1.2 Khái niệm & đặc điểm của vốn đầu tư 5
1.2.1 Khái niệm vốn đầu tư 5
1.2.2 Đặc điểm về vốn đầu tư 6
1.2.3 Bản chất của nguồn vốn đầu tư 7
1.2.4 Nguồn vốn từ khu vực tư nhân. 9
1.3 Khái niệm và đặc điểm của cơ sở hạ tầng kỹ thuật 10
1.3.1 Khái niệm 10
1.3.2 Phân loại 10
1.3.3 Đặc điểm 11
1.4 Vai trò của cơ sở hạ tầng đối với tăng trưởng & phát triển kinh tế 12
1.5 Sự cần thiết phải huy động nguồn vốn tư nhân cho hoạt động đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng. 14
2 Đánh giá hoạt động thu hút nguồn vốn tư nhân đầu tư vào CSHT tại Việt Nam trong những năm qua 18
2.1 Khu vực kinh tế tư nhân đóng góp phần không nhỏ vào GDP 18
2.2 Sự tiến bộ trong cơ chế, chính sách khuyến khích của nhà nước 20
2.3 Khu vực kinh tế tư nhân ngày càng phát triển mạnh mẽ 23
2.4 Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng trong giới tư nhân vẫn còn hạn chế 25
2.5 Thu hút đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng: Chính sách nhiều nhưng chưa tốt 27
2.6 DNTN vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong hoạt động sau đăng ký 29
3 Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thu hút vốn đầu tư tư nhân đầu tư xây dựng CSHT 31
3.1 Cần có những chính sách tập trung hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân tăng trưởng về chất lượng 31
3.2 Cần nâng cao chất lượng trong công tác hoạch định chiến lược phát triển kinh tế cho từng vùng, địa phương 32
3.3 Đẩy mạnh phát triển hình thức hợp tác nhà nước – tư nhân (PPP) 33
3.4 Giải quyết toàn diện các vấn đề về đầu tư theo BOT 34
3.5 Cần có những chính sách hỗ trợ phát triển một cách bền vững hệ thống DN vừa và nhỏ tại Việt Nam 35
37 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2907 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá hoạt động thu hút nguồn vốn tư nhân đầu tư vào cơ sở hạ tầng nước ta trong những năm qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ống đường giao thông liên hoàn, kết nối các hệ thống hương lộ, huyện lộ, tỉnh lộ với các trục quốc lộ đi qua khu vực dân cư nghèo. Đây là những kinh nghiệm, bài học được rút ra từ những thành công của công tác XĐGN ở các nước đang phát triển trong khu vực cũng như ở những nước phát triển trên thế giới trong nhiều năm qua. Có hệ thống giao thông đồng bộ, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự giao lưu kinh tế, thương mại, trao đổi hàng hoá giữa cộng đồng dân cư vùng nghèo nông thôn miền núi với dân cư vùng giàu thành thị. Từ đó cũng tạo điều kiện dễ dàng cung cấp các dịch vụ văn hoá, y tế, giáo dục, thông tin liên lạc đối với dân cư vùng nghèo, vùng khó khăn.
Tiếp theo việc đầu tư xây dựng hệ thống đường giao thông là đầu tư xây dựng một số cơ sở hạ tầng quan trọng khác như: cơ sở y tế khám chữa bệnh; cơ sở giáo dục dạy nghề; hệ thống cung cấp điện, nước sinh hoạt, các công trình thuỷ lợi, phục vụ sản xuất cho cộng đồng dân cư các vùng nghèo.
Cơ sở hạ tầng và công nghệ là những nhân tố quan trọng của sự PTBV và XĐGN. Những nghiên cứu ở cấp vĩ mô cho thấy cứ 1% tăng trưởng về cơ sở hạ tầng thì sẽ có được 1% tăng trưởng GDP.
Các cấp độ và chủng loại cơ sở hạ tầng khác nhau thì cũng có nhũng tác động khác nhau đến tăng trưởng kinh tế và XĐGN.
Đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng chỉ được coi là cần nhưng chưa đủ. Để XĐGN được một cách bền vững, thì ngoài đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, còn cần phải thực hiện và hỗ trợ cải cách để cho các cơ sở hạ tầng ở tất cả các cấp được quản lý tốt, phát huy tính hiệu quả cao.
Cơ sở hạ tầng có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế, nó là cầu nối liên kết giữa các ngành, các vùng lãnh thổ cũng như các quốc gia với nhau. Sẽ không có một hoạt động kinh tế nào diễn ra thuân lợi và đạt hiệu quả cao nếu như hệ thống cơ sở hạ tầng yếu kém. Cụ thể như: Hệ thống giao thông đường bộ, hàng không, đường sông, đường biển yếu kém sẽ gây cản trở rất lớn đến việc vận chuyển nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, và cũng gây ảnh hưởng tương tự đối với việc buôn bán hàng hoá, chuyển giao công nghệ; Hệ thống thông tin liên lạc kém phát triển sẽ làm chậm trễ mọi hoạt động kinh tế.
Ngoài ra, một quốc gia có một hệ thống cơ sở hạ tầng mạnh và hiện đại sẽ góp phần thúc đẩy quan hệ đối ngoại, giao lưu buôn bán với các quốc gia trên thế giới, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước. Có được hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại sẽ có tác dụng thu hút các nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài vào các lĩnh vực kinh tế cửa đất nước cũng như vào chính bản thân cơ sở hạ tầng.
Từ những lý luận trên chúng ta có thể thấy rõ được vai trò, tầm quan trọng của hệ thống cơ sở hạ tầng tới tăng trưởng và phát triển kinh tế. Vì vậy, việc đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng ngày càng hiện đại, đồng bộ là một nhiệm vụ hàng đầu trong công cuộc phát triển kinh tế đất nước.
Sự cần thiết phải huy động nguồn vốn tư nhân cho hoạt động đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng
Như chúng ta đã biết, bất cứ một hoạt động đầu tư nào muốn tiến hành đều phải có vốn. Đặc biệt là hoạt động đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng thì khối lượng vốn cần cho nó lại càng lớn. Nhận biết được tầm quan trọng của việc xây dựng cơ sở hạ tầng nên Đảng và nhà nước ta đã dành những khoản đầu tư không nhỏ cho hoạt động đầu tư này. Chính vì dành nhiều nguồn lực cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng nên nguồn vốn dành cho các mục tiêu phát triển khác đã bị hạn chế. Vấn đề đặt ra ở đây là tìm những nguồn tài trợ mới tiếp sức cho ngân sách nhà nước thực hiện đầu tư vào lĩnh vực này.
Để đạt được mục tiêu trở thành quốc gia công nghiệp hoá và hiện đại hoá trong 20 năm đầu của thế kỷ 21, Việt Nam phải hoàn tất củng cố hệ thống cơ sở hạ tầng. Điều này yêu cầu một nguồn vốn khổng lồ, bao gồm quỹ Nhà nước và vốn từ các cá nhân cả trong nước và nước ngoài, cũng như sự hợp tác chặt chẽ giữa Nhà nước và cá nhân trong việc phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng quốc gia nói chung và cơ sở hạ tầng giao thông nói riêng. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng là lĩnh vực khó thu hồi vốn, quá trình thực hiện một dự án cơ sở hạ tầng lại phức tạp vô cùng. Chẳng hạn như khi quy hoạch tuyến đường giao thông được công bố, sẽ có một số nhà đầu tư khác "ăn theo", hay chuyện có nhiều người đổ xô mua đất dọc theo tuyến đường, gây khó khăn trong việc giải tỏa đền bù, làm nản lòng nhà đầu tư.
Ngoài nguồn vốn qua các kênh nhà nước như ngân sách, thu phí cầu đường, phụ thu xăng dầu, cần quan tâm thu hút nguồn vốn từ các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân trong và ngoài nước, bằng các hình thức phát hành cổ phiếu, trái phiếu công trình, trái phiếu chính phủ, các hình thức đầu tư như BOT, BTO, BT; huy động tiền tiết kiệm và tích luỹ nội bộ trong nước để đầu tư xây dựng các tuyến đường bộ thông qua ngân hàng; nguồn vốn từ đổi đất lấy công trình hoặc sử dụng một phần vốn trong các dự án của các ngành để xây dựng các tuyến đường trong khu công nghiệp, chế xuất. Kêu gọi và thu hút nguồn vốn ODA...
Nguồn vốn nước ngoài cho hoạt động đầu tư cơ sở hạ tầng ở nước ta ngày càng có chiều hướng gia tăng. Đó là một thành công trong công tác thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Đảng và nhà nước. Nhưng cũng chính Đảng và nhà nước cũng nhận định đây không phải là nguồn vốn thực sự tốt cho đầu tư phát triển nói chung và cho đầu tư cơ sở hạ tầng nói riêng nếu như chúng ta sử dụng nó một cách không hợp lý. Sử dụng một cách không hiệu quả nguồn vốn này không những bị thất thoát, lãng phí các nguồn lực mà còn để lại những khoản nợ khổng lồ cho những nền kinh tế, mà người gánh chịu không ai khác chính là các thế hệ nối tiếp của đất nước. Do đó cần tập chung khai thác, thu hút các nguồn vốn trong nước, đặc biệt là nguồn vốn từ khu vực tư nhân để đầu tư vào cơ sở hạ tầng.
Thành phần tư nhân tham gia đầu tư vào cơ sở hạ tầng sẽ giải phóng được một nguồn lực đáng kể để Nhà nước có đủ khả năng tập trung vào những lĩnh vực ưu tiên khác nhằm duy trì sự tăng trưởng kinh tế nói chung. Thu hút thành phần kinh tế ngoài Nhà nước, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng sẽ góp phần quan trọng trong việc quản lý hiệu quả nguồn vốn của các dự án đầu tư, hạn chế tối đa việc không đáp ứng được nhu cầu đầu tư của ngân sách Nhà nước, đồng thời hạn chế được nạn tham nhũng trong hoạt động đầu tư.
Khu vực kinh tế tư nhân, đặ biệt là các doanh nghiệp tư nhân thường có quy mô vừa và nhỏ. Nên ưu thế của chúng là hoạt động một cách linh hoạt, nhạy bén với sự biến động của môi trường xung quanh. Mặt khác, do vốn đầu tư là do chính cá nhân hay tổ chức mình bỏ ra đầu tư nên họ sẽ kiểm soát và sử dụng đồng vốn một cách hiệu quả hơn nhiều lần so với các doanh nghiệp quốc doanh. Không có một nước nào, nhất là các nước chậm phát triển, ngân sách quốc gia có thể đáp ứng đủ để phát triển hạ tầng theo kịp sự phát triển kinh tế. Mô hình hợp tác nhà nước - tư nhân (PPP) đã ra đời và nhiều nước ứng dụng thành công trong hơn 20 năm qua. Việt Nam là một nước thiếu vốn trầm trọng cho phát triển hạ tầng thì việc áp dụng cơ chế này càng trở nên cần thiết.
Các hình thức đầu tư trực tiếp nên khuyến khích:
Hợp tác nhà nước - tư nhân (PPP) là việc nhà nước và tư nhân cùng thực hiện một dự án lợi ích công thông qua một thỏa thuận nhằm chia sẻ nhiệm vụ và rủi ro. Theo thỏa thuận này, nhà nước thiết lập các tiêu chuẩn về cung cấp dịch vụ, còn tư nhân được khuyến khích thực hiện các dịch vụ này bằng cơ chế thanh toán theo chất lượng dịch vụ.
PPP cũng góp phần khắc phục những nhược điểm về đầu tư của Chính phủ như thiếu minh bạch trong đấu thầu, quá trình thực hiện dự án thường bị kéo dài, bảo dưỡng công trình không chuyên nghiệp, thiếu kinh phí dẫn đến mau xuống cấp, hiệu quả sử dụng thấp gây lãng phí cho ngân sách...
Trong khi đó, khi tham gia dự án, nhà đầu tư tư nhân sẽ chịu trách nhiệm hoàn toàn từ khâu thiết kế đến xây dựng, vận hành, bảo dưỡng công trình, đảm bảo việc sử dụng hiệu quả nhất. Hết hạn hợp đồng, công trình vẫn phải đảm bảo chất lượng tốt theo các điều khoản đã ký trước khi giao lại cho Chính phủ.
Chúng ta cũng nên khuyến khích các nhà đầu tư tư nhân thông qua hình thức đầu tư BOT (xây dựng - sở hữu - chuyển giao) hoặc góp vốn trực tiếp. Với các nhà đầu tư tư nhân có năng lực tài chính nhỏ hơn có thể đầu tư vào hạ tầng cơ sở nông thôn. Việc đầu tư này cần quy hoạch cụ thể và mang tính dài hạn của nhà nước cũng như từng địa phương. BOT là viết tắt của Hợp đồng xây dựng – kinh doanh - chuyển giao. Đây là hình thức đầu tư được ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời hạn nhất dịnh; hết thời hạn, nhà đầu tư chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho nhà nước Việt Nam.
Hợp đồng BTO là viết tắt của Hợp đồng xây dựng – chuyển giao – kinh doanh. Đây là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam; Chính phủ giành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận.
Hợp đồng BT là viết tắt của Hợp đồng kinh doanh - chuyển giao. Đây là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam; Chính phủ tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hoặc thanh toán cho nhà đầu tư theo thỏa thuận trong hợp đồng BT.
-----------------------------------*&*--------------------------------------
Trong những năm qua, công tác thu hút vốn đầu tư tư nhân vào hoạt động đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ngày càng được quan tâm. Và đã đạt được những thành công đáng ghi nhận, nhưng bên cạnh đó vẫn còn tồn tại rất nhiều những bất hợp lý cần được khắc phục. Để thấy rõ được điều đó chúng ta tiếp tục nghiên cứu đến chương 2 của đề tài. Trong chương này đề cập đến thực trạng của hoạt động thu hút vốn đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng và những đánh giá về những thực trạng đó.
Đánh giá hoạt động thu hút nguồn vốn tư nhân đầu tư vào CSHT tại Việt Nam trong những năm qua
Khu vực kinh tế tư nhân đóng góp phần không nhỏ vào GDP
Khu vực kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Khu vực kinh tế tư nhân năm 2005 đã chiếm 38,5% GDP, cao gấp 5,4 lần tỷ trọng 7,11% của khu vực kinh tế tập thể, cao gấp hơn 2,5 lần tỷ trọng 15,17% của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và đạt xấp xỉ với tỷ trọng 39,22% của khu vực kinh tế nhà nước.
Riêng tỷ trọng trong GDP của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân nhìn chung đã tăng lên qua các năm: nếu năm 2000 mới chiếm 7,31%, thì năm 2005 là 8,91%. Đáng lưu ý, tốc độ tăng trưởng GDP do các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân luôn luôn cao hơn gấp rưỡi, gấp đôi tốc độ tăng chung cũng như cao hơn tốc độ tăng của các khu vực khác.
Khu vực kinh tế tư nhân chiểm tỷ trọng cao trong tổng số lao động đang làm việc (88,8%), cao hơn rất nhiều so với tỷ trọng 9,7% của khu vực Nhà nước. Trong tổng số lao động làm việc ở khu vực doanh nghiệp (5175 nghìn lao động), thì doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân chiếm 42,9%, cao hơn tỷ trọng 39,9% của khu vực doanh nghiệp Nhà nước. Khu vực này cũng đã chiếm gần 1/3 tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Không những thế, khu vực kinh tế tư nhân còn là nơi cung cấp nguồn vốn đầu tư rất lớn cho hoạt động đầu tư phát triển. Như phần lý luận trên đã đề cập, nguồn gốc của đầu tư chỉ có thể lấy ra từ tiết kiệm cho nên tiết kiệm tư nhân là một trong những nhân tố hết sức quan trọng trong việc tạo ra nguồn vốn cho hoạt động đầu tư phát triển. Vốn đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân chiếm một tỷ trọng khá lớn trong tổng vốn đầu tư của nền kinh tế. Theo số liệu bảng sau:
Vốn đầu tư phân theo thành phần kinh tế
Năm
Tổng số
Chia ra
Kinh tế Nhà nước
Kinh tế tư nhân
Khu vực có vốn ĐTNH
1995
72447
30447
20000
22000
1996
87394
42894
21800
22700
1997
108370
53570
24500
30300
1998
117134
65034
27800
24300
1999
131171
76958
31542
22671
2000
151183
89417
34594
27172
2001
170496
101973
38512
30011
2002
200145
114738
50612
34795
2003
239246
126558
74388
38300
2004
290927
139831
109754
41342
2005
343135
161635
130398
51102
2006
404712
185102
154006
65604
Sơ bộ 2007
521700
208100
184300
129300
Cơ cấu(%)
1995
100.0
42.0
27.6
30.4
1996
100.0
49.1
24.9
26.0
1997
100.0
49.4
22.6
28.0
1998
100.0
55.5
23.7
20.8
1999
100.0
58.7
24.0
17.3
2000
100.0
59.1
22.9
18.0
2001
100.0
59.8
22.6
17.6
2002
100.0
57.3
25.3
17.4
2003
100.0
52.9
31.1
16.0
2004
100.0
48.1
37.7
14.2
2005
100.0
47.1
38.0
14.9
2006
100.0
45.7
38.1
16.2
Sơ bộ 2007
100.0
39.9
35.3
24.8
(Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam)
Qua bảng số liệu trên chúng ta có thể thấy được nguồn vốn đầu tư tư nhấn chiếm tới 1/3 khối lượng vốn cho đầu tư phát triển. Và có xu hướng ngày càng gia tăng. Cũng trên số liệu trên chúng ta có thể khẳng định nguồn vốn của khu vực tư nhân ngày càng chiếm vai trò quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Với khối lượng vốn đầu tư đạt 184300 tỷ đồng (năm 2007), chiếm tỷ trọng 35.3% so với tổng vốn đầu tư của nền kinh tế. Trong khi đó vốn đầu tư của kinh tế nhà nước và kinh tế có vốn nước ngoài lần lượt là 208100 tỷ đồng; 129300 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng lần lượt là 39.9% ; 24.8%.
Sự tiến bộ trong cơ chế, chính sách khuyến khích của nhà nước
Từ trước tới nay Việt Nam chủ yếu dựa vào nguồn vốn Nhà nước và một phần vốn ODA để phát triển hạ tầng. Những năm tới, nhu cầu phát triển đường xá, hạ tầng, cảng biển, sân bay… ngày càng tăng cao nếu chỉ dựa vào hai nguồn vốn này thì không đáp ứng đủ, thậm chí dẫn đến nợ nần nước ngoài. Chính vì thế, để phát triển hạ tầng rất cần sự hợp tác, chia sẻ từ phía các doanh nghiệp tư nhân. Vấn đề đặt ra hiện nay là cần nâng cao nhận thức từ khu vực tư nhân, đồng thời xây dựng khung pháp lý phù hợp thông lệ, chuẩn mực quốc tế để giúp khu vực kinh tế này sẵn sàng hợp tác với nhà nước.
Trong những năm gần đây, khu vực kinh tế tư nhân, chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), đã được nhìn nhận như động lực tăng trưởng kinh tế quan trọng của Việt Nam. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) hiện đang xây dựng kế hoạch phát triển DNNVV giai đoạn 2006-2010. Kế hoạch này sẽ là một bộ phận cấu thành của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010 của Chính phủ Việt Nam. Trên cơ sở bản kế hoạch này, Cục Phát triển DNNVV của Bộ KH-ĐT sẽ xây dựng một kế hoạch hành động về phát triển DNNVV bao gồm các chương trình, biện pháp trợ giúp cho khối doanh nghiệp này, đưa ra một số đề xuất về chính sách nâng cao chất lượng phát triển của khu vực kinh tế này.
Việc đăng ký thành lập doanh nghiệp đã trở nên khá dễ dàng, giúp tăng nhanh số lượng doanh nghiệp thành lập mới
Luật Doanh nghiệp năm 1999 đánh dấu một mốc quan trọng trong những nỗ lực của Nhà nước nhằm tạo điều kiện cho khối kinh tế tư nhân phát triển. Với tinh thần chủ đạo là "doanh nghiệp được tự do kinh doanh những gì mà pháp luật không cấm", chuyển từ "cấp phép kinh doanh" sang "đăng ký kinh doanh", Luật Doanh nghiệp 1999 đã giúp giảm đáng kể thời gian và chi phí đăng ký thành lập doanh nghiệp. Nhờ đó, mỗi năm có thêm hàng chục ngàn doanh nghiệp được chính thức thành lập. Theo số liệu của Trung tâm Thông tin Doanh nghiệp (TTTTDN) của Bộ KH-ĐT, kể từ khi Luật Doanh nghiệp có hiệu lực vào đầu năm 2000, số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới cho đến cuối năm 2003 nhiều gấp hơn hai lần số lượng doanh nghiệp thành lập trong vòng 10 năm trước đó, nâng tổng số doanh nghiệp tại Việt Nam lên khoảng 128.000.
Hợp tác đầu tư nhà nước – tư nhân (PPP) là một khái niệm không mới trên thế giới và cũng đã hình thành ở Việt Nam được một thời gian khá lâu. Chúng ta đã có những dự án PPP của nhà đầu tư nước ngoài và dự án PPP trong nước. đã có một vài dự án PPP về thủy điện, hạ tầng có hiệu quả và mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế, xã hội. Chính vì vậy, để phát triển mô hình đầu tư này, chủ trương của Chính phủ là luôn tạo điều kiện để kêu gọi nhà đầu tư tư nhân cùng tham gia vào những dự án có lợi cho xã hội và đất nước”.
Dự thảo mới nhất của Nghị định BOT đã có nhiều thay đổi theo chiều hướng tích cực và chắc chắn sẽ góp phần thu hút thêm đầu tư tư nhân vào lĩnh vực hạ tầng. Cụ thể như:
Đối với các dự án do nhà đầu tư tự đề xuất, đã có quy định cụ thể là nhà đầu tư sẽ được thông báo sau 45 ngày kể từ ngày nộp đầy đủ hồ sơ theo quy định.
Các bên tham gia ký kết hợp đồng liên quan đến dự án BOT có thể được áp dụng luật nước ngoài trong trường hợp luật nước ngoài đó không trái với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Quy định về đảm bảo thực hiện hợp đồng dự án cũng đã rõ ràng hơn, theo đó đảm bảo thực hiện dự án có giá trị bằng 1% tổng vốn đầu tư đối với dự án trên 1500 tỷ đồng và 3% đối với dự án dưới 1500 tỷ.
Doanh nghiệp dự án sẽ được miễn toàn bộ tiền thuê đất trong suốt thời gian thực hiện dự án.
Chính nhờ sự tiến bộ trong cơ chế, chính sách của nhà nước mà khối lượng các doanh nghiệp tư nhân ngày càng lớn mạnh. Để có thể nhận thấy rõ hơn sự phát triển của khu vực tư nhân chúng ta sẽ đi nghiên cứu phần dưới đây.
Khu vực kinh tế tư nhân ngày càng phát triển mạnh mẽ
Một trong những thành tựu lớn của công cuộc đổi mới hơn 20 năm qua ở nước ta là đã hình thành một nền kinh tế đa thành phần, với các khu vực kinh tế khác nhau ngày càng phát triển năng động. Trong số đó, khu vực trẻ trung và năng động là khu vực kinh tế tư nhân trong nước (KVKTTNTN). Trong bước đường phát triển vừa qua cũng như trong thời gian tới, khu vực kinh tế này còn phải đương đầu với rất nhiều khó khăn, trở ngại. Để có thể trở thành động lực tăng trưởng thực thụ và tham gia hội nhập quốc tế thành công, họ sẽ phải vượt qua những thách thức rất lớn.
Nói theo nghĩa rộng, khu vực này bao gồm tất cả các doanh nghiệp, các tổ chức kinh doanh của người Việt Nam không thuộc sở hữu nhà nước (hoặc Nhà nước có góp vốn nhưng không giữ vai trò chi phối), không do nước ngoài đầu tư (hoặc nước ngoài có góp vốn nhưng không giữ vai trò chi phối), không thuộc thành phần kinh tế tập thể (các hợp tác xã). Theo nghĩa đó, KVKTTNTN ở nước ta bao gồm khoảng hơn 200.000 doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, hơn 2,6 triệu hộ kinh doanh cá thể, một bộ phận của gần 100.000 trang trại và hơn 10 triệu hộ nông dân có sản xuất nông sản hàng hóa không tham gia các hợp tác xã hoặc tổ hợp tác. Trong số này, 200.000 doanh nghiệp tư nhân (DNTN), với các hình thức tổ chức khác nhau (công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân một chủ), có đầy đủ tư cách pháp nhân, thường được coi là khu vực doanh nghiệp tư nhân chính thức; số còn lại được tổ chức kinh doanh ở hình thức thấp hơn, chưa có tư cách pháp nhân và do đó thường được coi là khu vực tư nhân phi chính thức hoặc phi hình thức.
Từ khi Luật Doanh nghiệp được thi hành (1-1-2000), DNTN ở nước ta đã phát triển mạnh mẽ. Trước đó, trong thời gian 10 năm chúng ta đã hình thành được một đội ngũ khoảng 40.000 doanh nghiệp, nhưng với quyền kinh doanh rất hạn chế, bị trói buộc và kỳ thị nặng nề. DNTN của chúng ta vẫn chỉ là một lực lượng nhỏ yếu, bị xem nhẹ và đóng góp không đáng kể vào nền kinh tế. Trong suốt hơn một thập kỷ đầu cải cách, kinh tế nước ta tăng trưởng chủ yếu nhờ hai động lực xuất khẩu và đầu tư nước ngoài, còn khu vực kinh tế tư nhân chưa trở thành động lực phát triển như ở các "con rồng châu á" và hầu hết các nước khác.
Từ năm 2000 trở lại đây, KVKTTNTN nói chung, DNTN nói riêng, đang phát triển mạnh, đóng góp ngày càng lớn vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và đang ngày càng khẳng định vai trò động lực của mình.
Với việc thi hành Luật Doanh nghiệp và hàng loạt các biện pháp cải cách khác, môi trường kinh doanh ở nước ta trong mấy năm gần đây đã có những cải thiện quan trọng theo hướng mở rộng quyền tự do kinh doanh của người dân trên nguyên tắc doanh nghiệp và người dân được tự do kinh doanh tất cả những lĩnh vực mà luật pháp không cấm, khuyến khích người dân làm ăn, kinh doanh làm giàu cho mình và cho đất nước, khuyến khích mọi doanh nghiệp tham gia các ngành xuất khẩu, chú trọng hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa... Chính trong môi trường đó, KVKTTNTN và đặc biệt là DNTN đã nhanh chóng phát triển cả về số lượng và chất lượng, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội của đất nước trên các mặt: tạo công ăn việc làm, tăng vốn đầu tư phát triển, mở rộng xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng các ngành kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, thúc đẩy phát triển các thị trường, đổi mới kinh tế và hành chính...
KVKTTNTN phát triển nhanh chóng trong thời gian qua còn do tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước, khởi đầu từ khi chúng ta đổi mới, và đặc biệt phát triển từ giữa thập kỷ 1990, khi nước ta lần lượt tham gia ASEAN, ASEM, APEC và không ngừng mở rộng quan hệ song phương với các nước khác trên thế giới. Thị trường các nước mở rộng dần cho các sản phẩm của Việt Nam đã tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam (DNVN), trong đó có KVKTTNTN phát triển sản xuất, kinh doanh các sản phẩm của mình trên các thị trường khu vực và quốc tế. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh thị trường trong nước còn hạn hẹp do tình trạng nước nghèo, mức thu nhập và khả năng tiêu dùng còn thấp, các DNVN rất thiếu "đầu ra". Các quan hệ thương mại và đầu tư rộng mở cũng tạo cho DNVN cơ hội có các đối tác làm ăn, cơ hội học hỏi kinh nghiệm quản lý, tiếp thu công nghệ của họ, đào tạo nguồn nhân lực cho mình và trưởng thành dần qua hợp tác và cạnh tranh.
Khi nước ta tham gia WTO, các cơ hội này lại càng mở rộng, những rào cản sẽ được dỡ bỏ, các DNVN sẽ có vị trí bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trên thị trường các nước. Họ sẽ có quyền không chỉ xuất nhập khẩu, tiếp nhận đầu tư, mà còn mở rộng nhiều phương thức hợp tác khác và đầu tư ra các thị trường nước ngoài, khai thác tối đa những lợi thế cạnh tranh của mình và tận dụng sự phân công lao động quốc tế, tham gia mạng lưới kinh doanh và chuỗi giá trị toàn cầu theo cách có lợi nhất cho mình. Tham gia WTO cũng thúc đẩy nước ta cải thiện mạnh mẽ môi trường pháp lý, chính sách cho kinh doanh, tạo thuận lợi cho cạnh tranh và phát triển của mọi doanh nghiệp.
Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng trong giới tư nhân vẫn còn hạn chế
Theo báo cáo Phát triển Việt Nam 2007 của ngân hàng Thế giới, đầu tư hàng năm của Việt Nam vào cơ sở hạ tầng chiếm từ 9-10% GDP (tỉ lệ cao nhất so với tiêu chuẩn quốc tế). Tuy nhiên, cả Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển Châu Á đều cho rằng, để duy trì tỉ lệ hiện tại, Việt Nam nên tăng đầu tư vào cơ sở hạ tầng đến 11%-12% trong tổng GDP.
Để đạt được mục tiêu trở thành quốc gia công nghiệp phát triển vào năm 2020, Việt Nam phải xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại và toàn diện. Giai đoạn 2007-2008, đất nước cần khoản 30 tỉ USD/năm để phát triển cơ sở hạ tầng. Hiện tại, gần 40% trong tổng vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng là được cung cấp từ nguồn vốn quốc tế, trong khi đó, chỉ 15% là từ tư nhân.
Đối với nhu cầu đầu tư vốn để nâng cao hệ thống giao thông cho đến năm 2020, mỗi năm Việt Nam cần 117.744 tỉ VND (gần 7,4 tỉ USD), trong khi hiện tại, khả năng đáp ứng nhu cầu trên chỉ ở mức 2-3 tỉ USD, chủ yếu từ ngân sách Nhà nước, ODA và trái phiếu Chính phủ. Theo Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), con số này chỉ đáp ứng 20-30% tổng nhu cầu.
Việc khuyến khích tư nhân đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng sẽ được xem là có hiệu quả nhờ vào sự quản lý vốn chặt chẽ, linh hoạt hơn chính sách khuyến khích đầu tư của Nhà nước. Sự tham gia của cá nhân vào phát triển cơ sở hạ tầng sẽ góp phần kìm hãm tham nhũng và lãng phí.
Việt Nam có khung pháp lý hoàn chỉnh, các chính sách khuyến khích và các doanh nghiệp tư nhân sẽ có thể hoạt động tốt hơn trong việc cung cấp dịch vụ này, so với lĩnh vực Nhà nước. Khuyến khích tư nhân đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng thông qua mô hình Xây dựng – Kinh doanh - Chuyển giao (BOT) hoặc góp vốn trực tiếp là việc làm cần thiết. Tuy nhiên, hình thức đầu tư này nên có kế hoạch lâu dài, và phải có sự liên kết chặt chẽ giữa Nhà nước và tư nhân.
Thu hút đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng: Chính sách nhiều nhưng chưa tốt
Thu hút thành phần kinh tế ngoài Nhà nước, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng sẽ góp phần quan trọng trong việc quản lý hiệu quả nguồn vốn của các dự án đầu tư, hạn chế tối đa việc không đáp ứng được nhu cầu đầu tư của ngân sách Nhà nước.
72 tỷ USD là lượng vốn các chuyên gia kinh tế ước tính cần cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng Việt Nam trong những năm tới. Đây là con số không nhỏ đối với nguồn ngân sách Nhà nước vốn đang còn hạn hẹp, trong khi, nếu đẩy mạnh thu hút vốn từ đầu tư nước ngoài và các thành phần kinh tế tư nhân sẽ giải quyết được nhiều vấn đề. Tuy nhiên, nếu so sánh với các nước trong khu vực ASEAN thì Việt Nam vẫn còn đứng ở thứ hạng thấp, sau Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippines trong việc thu hút đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng như điện, nước,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24987.doc