MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 2
I. MỤC TIÊU CỦA TIỂU LUẬN 2
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2
III. PHẠM VI NGHIÊN CỨU 3
PHẦN NỘI DUNG 4
I TỔNG QUAN VỀ CỔ PHẦN HÓA 4
I.1 Lý luận về cổ phần hóa và công ty cổ phần 4
I.1.1 Quan niệm về cổ phần hóa 4
I.1.2 Quan niệm về công ty cổ phần 4
I.1.3 Mục tiêu và đối tượng của cổ phần hóa 5
I.2 Sự cần thiết phải cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 6
I.2.1 Thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước hiện nam 6
I.2.2 Vai trò của cổ phần hóa và sự cần thiết phải tiến hành cổ phần hóa ở Việt Nam 7
I.3 Kinh nghiệm cổ phần hóa của Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 8
I.4 Cơ sở pháp lý về cổ phần hóa tại Việt Nam 9
II THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM 9
II.1 Thực trạng cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam 9
II.1.1 Giai đoạn thí điểm (1992-5/1996) 9
II.1.2 Giai đoạn thí điểm mở rộng (5/1996-6/1998) 10
II.1.3 Giai đoạn triển khai từ tháng 7/1998 đến nay 10
II.2 Thuận lợi và khó khăn trong quá trình thực hiện CPH 12
II.2.1 Thuận lợi 12
II.2.2 Khó khăn 13
II.3 Những thành tựu đạt được từ việc CPH 14
II.4 Những hạn chế trong công tác CPH 15
III GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA 19
III.1 Thách thức trong quá trình thực hiện cổ phần hóa DNNN hiện nay 19
III.2 Giải pháp 20
III.2.1 Giải pháp vĩ mô: 20
III.2.2 Giải pháp vi mô: 21
KẾT LUẬN 22
23 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1702 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam và các giải pháp đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khoảng 3.700 xí nghiệp cổ phần hoá trong đó 750 xí nghiệp nguyên là quốc doanh được chuyển đổi.
Từ năm 1994, quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc chuyển sang một giai đoạn mới với nhiều biện pháp mới như thành lập Công ty quản lý doanh nghiệp trung ương và biến các công ty cổ phần hoá thành công ty con của Công ty quản lý; tách hoạt động quan trọng ra khỏi doanh nghiệp nhà nước và chuyển doanh nghiệp thành công ty cổ phần; đẩy mạnh thu hút vốn nước ngoài vào các xí nghiệp cổ phần hoá...
Tính đến cuối năm 1996, Trung Quốc đã cổ phần hoá và thành lập mới được khoảng 9.200 Công ty cổ phần với tổng vốn đăng ký khoảng 600 tỷ NDT, trong đó cổ phần nhà nước chiếm 43%.
Như vậy sau 10 năm thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, Trung Quốc đã thu được nhiều thắng lợi, tuy cũng có những vấp váp, thất bại, nhưng nhìn chung con đường cải cách của Trung Quốc là đúng đắn và được sự ủng hộ của nhân dân.
Bài học kinh nghiệm từ quá trình cổ phần hoá ở Trung Quốc:
Xây dựng và quán triệt một quan niệm, một mục tiêu đúng đắn về cổ phần hoá, phù hợp với bản chất của chế độ xã hội : Chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần là để thu hút vốn từ bên ngoài vào, chứ không bán toàn bộ tài sản Nhà nước.
Hình thức cổ phần hoá áp dụng chủ yếu đối với các doanh nghiệp vừa và lớn, có khả năng phát triển.
Áp dụng tỷ lệ bán cổ phần đa dạng. Chẳng hạn như ở Thẩm Quyến, cổ đông tư nhân chiếm tới 12%, ở Thượng Hải chỉ có 8,5% trong đó tư nhân ở nước ngoài chiếm tới 41%.
Cổ phần hoá muốn phát triển và mở rộng phải có sự gắn kết với thị trường chứng khoán. Đặc biệt, Trung Quốc đã xoá bỏ sự phân biệt giữ cổ phiếu Nhà nước (cổ phiếu A) và cổ phiếu của các cá nhân, pháp nhân (cổ phiếu B) gọi chung là cổ phiếu đầu tư, tạo một sân chơi bình đẳng cho các nhà đầu tư.
Chính phủ Trung Quốc chú trọng đến giải pháp kích cầu và tạo cơ sở ban đầu cho việc hình thành thị trường vốn trong nước. Bên cạnh việc mở rộng đối tượng bán để các công dân có thể tham gia chương trình cổ phần hoá, chính phủ còn có biện pháp hỗ trợ vốn ban đầu cho người lao động trong doanh nghiệp, có các chính sách lãi suất, chính sách tài chính đúng, mở rộng thị trường mua, kể cả việc bán cho người nước ngoài và chuyển nợ thành vốn đầu tư.
Thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư nước ngoài.
Cơ sở pháp lý về cổ phần hóa tại Việt Nam
Để quá trình cổ phần hóa ngày càng phát triển và hoàn thiện, trong nhiều năm qua, Đảng, Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị quyết, Quyết định và các văn bản về cổ phần hóa. Trong đó nổi lên các văn bản sau đây:
Quyết định số 202- CT, ngày 8/6/1992 của chủ tịch HĐBT “Về việc tiếp tục làm thí điểm chuyển một số DNNN thành CTCP ”
Nghị định số 44/1998/NĐ-CP, ngày 27/06/1998 của thủ tướng chính phủ “ Về việc chuyển DNNN thành CTCP ”
Nghị quyết số 05-NQ/TW, ngày 24/09/2001 của hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX “ về việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN”.
Nghị định số 64/2002/NĐ-CP, ngày 19/06/2002 của chính phủ “Về việc chuyển DNNN thành CTCP.
Nghị định 187/2004/NĐ-CP, ngày16/11/2004 của Chính phủ về chuyển DNNN thành CTCP thay thế cho Nghị định số 64/2002/NĐ-CP ngày19/06/2002 với nhiều sửa đổi và bổ sung phù hợp với tình hình của nước ta.
Nghị định số 109/2007/NĐ-CP của Chính phủ về việc chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần.
Thông tư 146/2007/TT-BTC ngày 06 tháng 12 năm 2007 về Hướng dẫn thực hiện một số vấn đề về tài chính khi thực hiện chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần theo quy định tại Nghị định số 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 của Chính phủ.
THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM
Thực trạng cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam
Giai đoạn thí điểm (1992-5/1996)
Quá trình Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam được bắt đầu từ năm 1992, Nhà nước chỉ chọn một số Doanh nghiệp nhà nước có quy mô vừa và nhỏ, kinh doanh có lãi và tự nguyện Cổ phần hoá để thực hiện thí điểm.
Suốt bốn năm 1992- 1996, tuy chỉ Cổ phần hoá được 5 doanh nghiệp nhưng cả 5 đơn vị này đều hoạt động có hiệu quả hơn trước. Đó là các doanh nghiệp:
Công ty Đại lý liên hiệp vận chuyển thuộc Bộ GTVT- ngày thực hiện Cổ phần hoá: 01/07/1993
Công ty Cơ điện lạnh thuộc UBND TPHCM- ngày thực hiện Cổ phần hoá: 01/10/1993
Xí nghiệp giày Hiệp An thuộc Bộ Công nghiệp- ngày thực hiện Cổ phần hoá: 01/10/1994
Xí nghiệp Chế biến hàng xuất khẩu thuộc UBNN tỉnh Long An- ngày thực hiện Cổ phần hoá: 01/07/1995
Xí nghiệp Chế biến thức ăn gia súc thuộc Bộ NN & PTNT- ngày thực hiện Cổ phần hoá: 01/07/1995
Giai đoạn thí điểm mở rộng (5/1996-6/1998)
Sau khi đạt được thành công ban đầu của giai đoạn thí điểm, ngày 07/05/1996 Chính phủ đã ban hành nghị định số 28/CP về chuyển một số Doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Trong nghị định chính phủ yêu cầu các bộ, ngành TW và các chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc TW lập danh sách các doanh nghiệp do mình quản lý sẽ được Cổ phần hoá cho đến năm 1997. Đối tượng chính là những Doanh nghiệp nhà nước mà nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn và có phương án kinh doanh hiệu quả.
Nghị định số 25/CP ngày 26/3/1997 của Chính phủ cho phép các lãnh đạo bộ, ngành, địa phương có thêm quyền hạn trong việc tiến hành cổ phần hóa các doanh nghiệp được chọn làm thử. Theo đó, đối với doanh nghiệp có vốn từ 10 tỷ đồng trở xuống thì lãnh đạo bộ, ngành, địa phương có quyền tự tổ chức thực hiện cổ phần hóa trên cơ sở Nghị định số 28/CP.
Chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần nhằm các mục tiêu sau :
Huy động vốn của công nhân viên chức trong doanh nghiệp; cá nhân, các tổ chức kinh tế trong nước và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp.
Tạo điều kiện để những người góp vốn và công nhân viên chức trong doanh nghiệp có cổ phần, nâng cao vai trò làm chủ thực sự, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả.
Kết quả của giai đoạn mở rộng này là có 25 Doanh nghiệp nhà nước đã được Cổ phần hoá. Như vậy từ năm 1992 đến tháng 06/1998 cả nước có 30 Doanh nghiệp nhà nước đã hoàn thành Cổ phần hoá với vốn điều lệ ban đầu là: 281 tỷ đồng và gần 6.000 lao động.
Giai đoạn triển khai từ tháng 7/1998 đến nay
Ngày 27/06/1998, Chính phủ ban hành Nghị định số 44/1998/NĐ-CP về chuyển Doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần đã tạo cơ sở pháp lý để các doanh nghiệp tiến hành cổ phần hóa. Nghị định này quy định rằng đối với cổ phần phát hành lần đầu của doanh nghiệp được chuyển đổi nhưng Nhà nước vẫn muốn nắm quyền chi phối, cá nhân không được phép mua quá 5% và pháp nhân không được phép mua quá 10%. Đối với doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm quyền chi phối, cá nhân được phép mua tới 10% và pháp nhân được phép mua tới 20% tổng cổ phần phát hành lần đầu. Riêng đối với các doanh nghiệp mà Nhà nước hoàn toàn không còn muốn sở hữu, cá nhân và pháp nhân được phép mua không hạn chế. Tiền thu được từ bán cổ phần sẽ được sử dụng để đào tạo lại lao động, sắp xếp việc làm cho lao động dư thừa, bổ sung vốn cho các doanh nghiệp nhà nước khác.
Sự ra đời của nghị định này đã đẩy mạnh tốc độ Cổ phần hoá. Tuy nhiên, Nhà nước chỉ tập trung tiến hành Cổ phần hóa ở một số ngành, lĩnh vực then chốt trong xã hội. Do đó, quá trình Cổ phần hóa chưa có được sự phân bố đồng đều giữa các ngành, lĩnh vực. Theo số liệu tính đến hết tháng 6/2009 thì cơ cấu ngành nghề, lĩnh vực được Cổ phần hóa, như sau:
Phần lớn các doanh nghiệp được Cổ phần hoá có quy mô nhỏ, các doanh nghiệp có vốn nhỏ hơn 5 tỷ chiếm trên 50%, trong khi đó số doanh nghiệp có số vốn trên 10 tỷ chỉ chiếm khoảng 12%. Đa số các doanh nghiệp thực hiện Cổ phần hoá theo hình thức bán một phần vốn của Nhà nước nắm giữ trong doanh nghiệp.
Tiến trình Cổ phần hoá được thực hiện chủ yếu 2 thành phố lớn là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh nơi tập trung nhiều Doanh nghiệp nhà nước và sau đó lan sang các tỉnh thành phố khác như: Hải Phòng, Nam Định, Thanh Hóa, Đà Nẵng…
Cuối năm 2004, Chính phủ ra Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần, theo đó cả các công ty thành viên của các tổng công ty nhà nước và ngay cả chính tổng công ty nhà nước nào mà Nhà nước không muốn chi phối đều có thể trở thành đối tượng cổ phần hóa. Điểm mới quan trọng nữa trong Nghị định này là quy định việc bán cổ phần lần đầu phải được thực hiện bằng hình thức đấu giá tại các trung tâm giao dịch chứng khoán nếu là công ty có số vốn trên 10 tỷ đồng, tại các trung tâm tài chính nếu là công ty có số vốn trên 1 tỷ đồng, và tại công ty nếu công ty có số vốn không quá 1 tỷ đồng. Bán đấu giá khiến cho giá cổ phiếu phát hành lần đầu của nhiều công ty nhà nước được đẩy vọt lên, đem lại những nguồn thu rất lớn cho Nhà nước.
Ngày 26/6/2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định 109/2007/NĐ-CP về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần nhằm thay thế Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004. Sự ra đời của Nghị định 109/2007/NĐ-CP là một tất yếu khách quan, phù hợp với thực tế và đồng bộ với các quy định mới nhất của Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Chứng khoán 2006.
Khác với Nghị định 187/2004/NĐ-CP, Nghị định mới đã mở rộng đối tượng nhà đầu tư chiến lược, không chỉ có các nhà đầu tư trong nước, mà bao gồm cả nhà đầu tư nước ngoài. Đặc biệt, Nghị định lần này đã tập trung chủ yếu vào xác định giá trị Doanh nghiệp, điều mà bấy lâu luôn là vấn đề bức xúc trong dư luận về việc xác định giá trị Doanh nghiệp khi Cổ phần hoá quá thấp, gây thiệt hại cho Nhà nước và làm lợi cho một bộ phận cá nhân. Nghị định 109 đã khắc phục vấn đề này bằng những quy định rõ ràng, cụ thể với các quy định về xác định giá trị Doanh nghiệp theo phương pháp tài sản, phương pháp dòng tiền chiết khấu và với quy định Doanh nghiệp Cổ phần hoá có tổng giá trị tài sản theo sổ kế toán từ 30 tỷ đồng trở lên hoặc giá trị vốn nhà nước theo sổ kế toán từ 10 tỷ đồng trở lên hoặc có vị trí địa lý thuận lợi phải thuê các tổ chức có chức năng định giá thuộc danh sách do Bộ Tài chính công bố. Nếu như hiện nay mới chỉ quy định phương thức bán đấu giá thì Nghị định mới đã đưa thêm các hình thức bán cổ phần lần đầu khác như bảo lãnh phát hành, và thoả thuận trực tiếp. Nếu áp dụng phương thức đấu giá công khai, Doanh nghiệp có khối lượng cổ phần bán ra dưới 10 tỷ đồng thì được đấu giá tại các tổ chức tài chính trung gian. Ngược lại, nếu khối lượng cổ phần bán ra trên 10 tỷ đồng thì nhất thiết phải đấu giá tại các Sở giao dịch chứng khoán.
Nghị định cũng yêu cầu những Doanh nghiệp đủ điều kiện niêm yết, đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán theo quy định của pháp luật có liên quan về chứng khoán phải thực hiện niêm yết, đăng ký giao dịch ngay trên các Sở Giao dịch chứng khoán trong quá trình cổ phần hoá. Quy định này được đưa ra nhằm gắn kết quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước với việc phát triển thị trường chứng khoán, tăng số lượng và chất lượng các công ty thực hiện đăng ký niêm yết, giao dịch và đảm bảo yêu cầu nâng cao tính công khai, minh bạch thông tin theo nguyên tắc thị trường.
Nếu năm 1995 cả nước còn 12.400 Doanh nghiệp nhà nước thì đến nay cả nước chỉ còn 2.176 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước với tổng số vốn nhà nước gần 260.000 tỷ đồng. Trong đó 1,546 doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh; 335 doanh nghiệp quốc phòng an ninh sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, 295 nông lâm trường quốc doanh. Phân theo cơ quan chủ sở hữu, có 301 doanh nghiệp thuộc tổng công ty 91; 408 doanh nghiệp thuộc tổng công ty 90; 307 doanh nghiệp thuộc các Bộ, ngành; 1.160 doanh nghiệp thuộc địa phương.
Theo báo cáo của các Bộ, ngành địa phương của 850 doanh nghiệp Cổ phần hoá đã hoạt động trên một năm cho thấy: vốn điều lệ bình quân tăng 44%, doanh thu bình quân tăng 23.6%, lợi nhuận thực hiện bình quân tăng 139,76 %, trên 90% doanh nghiệp sau khi Cổ phần hoá hoạt động kinh doanh có lãi, nộp ngân sách bình quân tăng 24,9%, thu nhập của người lao động bình quân tăng 12%.
Với những bối cảnh nêu trên, phấn đấu đến cuối năm 2009, cơ bản hoàn thành việc sắp xếp Doanh nghiệp nhà nước cụ thể là:
Tiếp tục Cổ phần hoá các công ty nhà nước độc lập thuộc các Bộ, địa phương
Đẩy mạnh sắp xếp, Cổ phần hoá các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước
Cổ phần hóa các ngân hàng thương mại, các công ty bảo hiểm : Tính đến thời điểm hiện nay một số ngân hàng thương mại nhà nước như Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long, Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam đã thực hiện Cổ phần hoá và chuyển thành ngân hàng thương mại cổ phần.
Như vậy các doanh nghiệp sau khi thực hiện Cổ phần hoá phần lớn hoạt động có hiệu quả, vượt qua những khó khăn trong tình hình kinh tế thị trường nhiều biến động, tăng lợi nhuận và tạo việc làm cho người lao động.
Thuận lợi và khó khăn trong quá trình thực hiện CPH
Thuận lợi
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới
Bài học kinh nghiệm của các nước đi trước cần phải được xem xét. Cách làm của một số nước xã hội chủ nghĩa trước kia là chia đều tài sản của doanh nghiệp cho mọi công dân. Nhà nước mất trắng tài sản, công bằng cũng không đạt được. Khuyến khích chủ sở hữu với rất nhiều công dân nay trở thành ông chủ là không đủ mạnh, nên họ bán phần của mình lấy tiền, tạo cơ hội cho một số ít người mua với giá thấp, nắm tài sản, tạo ra bất công nghiêm trọng.
Trung Quốc trong tiến trình cải cách và mở cửa, nhất là trong cải cách kinh tế, xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, đã chú ý thử nghiệm chế độ cổ phần và có những tìm tòi lý luận về vấn đề này, chúng ta có thể học tập.
Việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước của các quốc gia trên thế giới có nơi thành công, có nơi chưa thành công, nhưng từ đó ta có thể thấy được nguyên nhân cũng như những bài học kinh nghiệm có thể áp dụng cho Việt Nam.
Chính phủ có những phản ứng đối với việc cổ phần hóa theo các điều kiện kinh tế, hoàn cảnh lịch sử băằngác chính sách kịp thời và phù hợp
Sau nhiều năm tìm tòi và thử nghiệm trong thực tế, Đảng ta đã lựa chọn cổ phần hóa như một phương thức có hiệu quả để đổi mới các doanh nghiệp nhà nước như các Nghị quyết 3 và Nghị quyết 9 của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX đã chỉ rõ.
Từ nghị quyết của Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành TW Đảng khoá VII(6/1992), tiếp theo đó là quyết định số 202/CT(6/1992) của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ), rồi tới các nghị định số 28/CP(7/5/1996), 25/CP(23/7/1997) và nghị định 44/CP(27/6/1998), cổ phần hoá luôn được Đảng và Nhà nước xác định là việc chuyển các Doanh nghiệp nhà nước thành các Công ty cổ phần nhằm giải quyết những tồn tại và tình trạng sản xuất, kinh doanh kém hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước, đang gây trở ngại cho tiến trình phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
Khó khăn
Tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam được hình thành trong quá trình thực hiện công hữu hóa, tập thể hóa nền kinh tế trước đây. Điều này khác với các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa ở các nước phát triển: là kết quả của quá trình phát triển lực lượng sản xuất đã vượt quá tầm của sở hữu tư nhân, đòi hỏi phải mở rộng quan hệ sở hữu.
Các doanh nghiệp mà nước ta thực hiện cổ phần hóa vốn tồn tại lâu năm trong cơ chế bao cấp và kế hoạch của Nhà nước và mới làm quen với cơ chế thị trường, khác với các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa ở các nước là đã tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường, cạnh tranh.
Các doanh nghiệp mà nước ta tiến hành cổ phần hóa chủ yếu được tổ chức và hoạt động theo yêu cầu và kế hoạch của Nhà nước, khác với các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa ở các nước là tổ chức và hoạt động vì lợi nhuận tối đa của bản thân và tuân theo quy luật thị trường.
Lý do chính của chủ trương cổ phần hóa ở nước ta là các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, nhiều doanh nghiệp đứng trước nguy cơ phá sản, khác với lý do thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp ở các nước phát triển là chuyển từ giai đoạn tập trung tư bản sang giai đoạn tập trung vốn xã hội (trong và ngoài doanh nghiệp) để nâng cao chất lượng và quy mô sản xuất trong cạnh tranh.
Do đó về đối tượng, quy trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam… khác so với các nước, gặp một vấn đề phát sinh thường sẽ lúng túng, chưa có kinh nghiệm giải quyết, nên phải vừa làm, vừa tìm hiểu, xây dựng, vừa rút kinh nghiệm.
Sự yếu kém của khu vực kinh tế nhà nước
Đảng và Nhà nước đã xác định xây dựng và phát triển nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó khu vực kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo nhằm chi phối nền kinh tế quốc dân đồng thời giúp đỡ các thành phần khác. Tuy nhiên một thực tế là hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế nhà nước nói chung và các doanh nghiệp nhà nước nói riêng tồn tại rất nhiều yếu kém. Những yếu kém này có thể thấy được ở các mặt là vốn – công nghệ - trình độ, khả năng quản lý:
Thứ nhất, về vốn. Các doanh nghiệp luôn trong trạng thái đói vốn. Tình trạng doanh nghiệp phải ngừng hoạt động do thiếu vốn kinh doanh đã xuất hiện. Tình trạng doanh nghiệp không có vốn và không đủ khả năng huy động vốn để đổi mới công nghệ được coi là phổ biến. Trong khi đó, hiệu quả sử dụng vốn thấp kém, thất thoát vốn của Nhà nước ngày càng trầm trọng. Năm 1998 chỉ tính riêng số nợ khó đòi và lỗ luỹ kế của các Doanh nghiệp nhà nước đã lên đến 5.005 tỷ đồng . Tổng cộng, có tới trên 59,6% Doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả.
Thứ hai, về công nghệ. Công nghệ của các Doanh nghiệp nhà nước lạc hậu so với trình độ chung của khu vực và của thế giới (thường từ 2-3 thế hệ, cá biệt có công nghệ lạc hậu tới 5-6 thế hệ), 76% máy móc thiết bị thuộc thế hệ những năm 50-60 và chủ yếu do Liên Xô cũ và các nước Đông Âu cung cấp. Đó chính là nguyên nhân làm cho khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường nội địa cũng như quốc tế hết sức thấp kém.
Thứ ba, về trình độ, khả năng quản lý. Ở các doanh nghiệp nhà nước xảy ra tình trạng “cha chung không ai khóc” đối với tài sản thuộc sở hữu của nhà nước, tài sản là của chung tức không là của ai cả. Do đó việc khai thác, sử dụng tài sản kém hiệu quả, thậm chí là thất thoát. Đội ngũ nhân viên, lao động trong doanh nghiệp nhà nước nhiều nhưng lại vừa thiếu vừa yếu. Mặt khác, có một số người chần chừ không muốn cổ phần hóa để cố trì hoãn sự tồn tại của doanh nghiệp nhà nước với mục đích đeo bám lấy "bầu sữa" của bao cấp, không dám nghĩ, dám làm, mặc dù hiệu quả hoạt động thấp, kéo dài trong nhiều năm.
Ngoài ra, cơ chế quan liêu bao cấp đã ăn sâu vào suy nghĩ của nhiều người gắn bó lâu với mô hình kinh tế cũ, đối với họ thì càng nhều quốc doanh thì càng xã hội chủ nghĩa. Do đó, họ lo sợ cổ phần hóa sẽ thủ tiêu hoặc làm suy yếu vai trò điều tiết nền kinh tế của nhà nước. Vì sợ nên sẽ chần chừ, thiếu quyết đoán khi tiến hành.
Những thành tựu đạt được từ việc CPH
Về phía Nhà nước:
Nói đến thành công của cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước là nói đến một thành công “kép” nghĩa là nó làm cho lực lượng sản xuất không chỉ phát triển theo hướng hiện đại mà còn theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta cũng định hướng phát triển theo con đường này. Ngoài ra, cổ phần hoá cũng giữ vai trò quan trọng, đặt cơ sở cho thị trường vốn ra đời bằng việc ra mắt Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và các Sở giao dịch chứng khoán, làm cơ sở để nhà nước kiểm soát lạm phát.
Trong thời kỳ đầu thực hiện cổ phần hoá, đối tượng Cổ phần hoá chỉ tập trung vào các doanh nghiệp quy mô nhỏ nhưng đến nay, cổ phần hoá đang được mở rộng sang các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực then chốt, quy mô lớn, có khả năng sinh lời cao như: ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, hàng không, dầu khí,… và song hành với nó là những phương thức thực hiện ngày càng công khai và minh bạch, IPO được tiến hành theo hình thức đấu giá rộng rãi ra công chúng. Như vậy, thực tế cổ phần hoá doanh nghiệp vừa qua tiếp tục minh chứng cho tính đúng đắn của chủ trương cổ phần hoá của Đảng và Nhà nước trong quá trình đổi mới và hội nhập của nền kinh tế Việt Nam, khắc phục được những hạn chế của hình thức sở hữu toàn dân theo kiểu “vô chủ”.
Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước giúp phát huy mọi nguồn nội lực của đất nước kết hợp với hợp tác quốc tế hiệu quả, mở rộng, phát triển thị trường, xoá bỏ những lĩnh vực độc quyền Doanh nghiệp, chuyển mạnh sang thị trường cạnh tranh, tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế tham gia các hoạt động dịch vụ như viễn thông, internet,… trong mối quan hệ giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Về phía doanh nghiệp:
Cổ phần hoá giúp huy động vốn cho Doanh nghiệp vì tiền thu về do bán cổ phần vẫn được NN tiếp tục đầu tư vào Doanh nghiệp nhà nước, đồng thời Doanh nghiệp sau Cổ phần hoá hoạt động hiệu quả hơn. Nhiều Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao so với khi Doanh nghiệp chưa Cổ phần hoá:
CTCP Dược Hậu Giang (DHG) là một dẫn chứng: Vốn điều lệ tại thời điểm Cổ phần hoá là 80 tỷ đồng (trong đó nhà nước chiếm 51%) nhưng đạt đến 200 tỷ đồng vào tháng 7/2009 (nhà nước chiếm 44,61%); doanh thu năm 2008 đạt 295% và lợi nhuận sau thuế đạt 359 % so với năm liền kề trước khi Cổ phần hoá. Bên cạnh đó, vốn chủ sở hữu cũng tăng lên đáng kể, từ hơn 96,5 tỷ đồng trước khi Cổ phần hoá (năm 2004) đã tăng lên hơn 775,8 tỷ đồng tại thời điểm cuối tháng 6/2009 (Theo báo Cần Thơ).
Cổ phần hoá buộc các Doanh nghiệp nhà nước phải tích cực chủ động đổi mới phương thức quản trị kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, đồng thời giúp Doanh nghiệp lành mạnh hóa được tài chính thông qua việc cơ cấu lại các khoản nợ; xử lý tài sản là vật tư, hàng hóa ứ đọng, tồn kho, máy móc thiết bị cũ,... Nhờ vậy, các Doanh nghiệp dần khẳng định được thương hiệu của mình trên thị trường trong và ngoài nước như: CTCP Nhựa Đà Nẵng, CTCP Cao su Đà Nẵng, CTCP Thuỷ sản và thương mại Thuận Phước, CTCP Dệt may 29-3,…..
Đối với người lao động:
Cổ phần hoá tạo điều kiện cho người lao động làm chủ Doanh nghiệp, được bảo đảm quyền sở hữu trực tiếp trong Doanh nghiệp cổ phần, có sở hữu thực sự dưới hình thức “tham dự” cổ phiếu đối với sở hữu xã hội về vốn và tư liệu sản xuất. Bên cạnh đó, người lao động trong Doanh nghiệp được tham gia vào quá trình đào tạo và đào tạo lại, đời sống ngày càng được cải thiện, nâng cao. Thu nhập bình quân đến cuối tháng 6/2009 của người lao động tại CTCP Dược Hậu Giang là 9,45 triệu đồng/người/tháng, tăng gần 3 lần so với năm liền kề trước khi Cổ phần hoá (3,26 triệu đồng/người/tháng); hay như trong năm đầu tiên chuyển sang hình thức cổ phần, Công ty Bê tông – thép Ninh Bình nộp ngân sách 2,8 tỷ đồng, thu nhập người lao động tăng 20% so với năm trước và đều đặn tăng ở các năm sau, bên cạnh việc, công ty thực hiện đầy đủ chế độ nộp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trang bị phòng hộ lao động, ăn ca, bồi dưỡng độc hại, khám sức khoẻ định kỳ cho hơn 500 công nhân; giải quyết chế độ nghỉ dưỡng, tham quan, nghỉ mát cho cán bộ, công nhân,…
Những hạn chế trong công tác CPH
Về pháp luật, cơ chế chính sách
Các doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình tiến hành cổ phần hóa. Đó là: quy trình cổ phần hóa rườm rà, phức tạp, có phần còn cứng nhắc; khó xác định đúng được giá trị của doanh nghiệp khi chuyển sang công ty cổ phần bởi chưa có chế tài cụ thể tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp, ngay cả các cơ quan chức năng nhiều khi cũng không thống nhất được các mức giá khác nhau về tài sản của doanh nghiệp. Thêm nữa, nếu như trường hợp giá trị quyền sử dụng đất được tính vào giá trị của doanh nghiệp thì lại kéo theo những tranh chấp mà các doanh nghiệp phải đương đầu trong quá trình sử dụng.
Các doanh nghiệp còn khó định được giá trị của các lợi thế kinh doanh như là một phần giá trị tài sản vô hình của doanh nghiệp: Việc xác định giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp, dựa trên cơ sở tỷ suất lợi nhuận sau thuế/giá trị vốn Nhà nước trước khi cổ phần hóa và lãi suất trả trước của trái phiếu Chính phủ là chưa hợp lý. Vì lợi nhuận của doanh nghiệp tạo ra không phải chỉ có bộ phận vốn Nhà nước tại doanh nghiệp mà là toàn bộ vốn kinh doanh nói chung của doanh nghiệp, nên tính như vậy là không chính xác, từ đó dẫn đến việc xác định giá trị doanh nghiệp cũng không chính xác.
Còn khá nhiều doanh nghiệp sau cổ phần hóa vẫn vận hành theo cung cách cũ, chưa cải thiện nâng cao phát triển doanh nghiệp, cũng như không mở rộng được quy mô huy động nguồn vốn xã hội vào đầu tư, đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh để sẵn sàng hội nhập kinh tế thế giới.
II.4.2 Công tác chỉ đạo cổ phần hóa
Công tác chuẩn bị cổ phần hóa ở một số đơn vị chưa tốt, dẫn tới việc các tổng công ty thực hiện cổ phần hóa trong khi nhiều đơn vị thành viên chưa cổ phần hóa. Việc chỉ đạo cổ phần hóa chưa kiên quyết, mang tính hình thức và chưa tạo sự nhất trí cao trong ban lãnh đạo và người lao động, dẫn tới khiếu kiện ở nhiều nơi.
Khiếm khuyết khác là tình trạng nhiều doanh nghiệp chưa chủ động xử lý những tồn tại về tài chính, lao động dôi dư theo chế độ, dẫn đến những rắc rối kéo dài khi tiến hành cổ phần hóa, đặc biệt là công nợ khó đòi.
B
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đánh giá quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam và các giải pháp đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trong thời gian .doc