Đề tài Đánh giá tác động của công cụ chính sách đối với phát triển nông nghiệp, nông thôn ở nước ta

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1

NỘI DUNG 2

I, Sự cần thiết trợ giúp của chính phủ đến phát triển nông nghiệp và nông thôn. 2

II. Những chính sách cơ bản của Chính phủ trong việc thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn. 2

2.1. Chính sách sử dụng đất nông nghiệp 2

2.2. Các biện pháp hỗ trợ trong nước (hỗ trợ giá) 3

2.3. Chính sách bảo hộ nông nghiệp 5

III, Đánh giá tác động của công cụ chính sách đối với phát triển nông nghiệp, nông thôn ở nước ta: 6

3.1. Chính sách ruộng đất: 6

3.2. Chính sách đầu tư: 9

3.3. Chính sách phát triển công nghiệp và ngành nghề nông thôn: 10

3.4. Chính sách chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn: 11

3.5. Chính sách hỗ trợ nông nghiệp 12

3.6. Chính sách phát triển khoa học-công nghệ: 12

IV. Giải pháp phát triển nông nghiệp, nông thôn 13

4.1. Quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn. 13

4.2. Phát triển khoa học – công nghệ. 13

4.3. Các chính sách vĩ mô. 13

KẾT LUẬN 17

 

 

docx19 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2220 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Đánh giá tác động của công cụ chính sách đối với phát triển nông nghiệp, nông thôn ở nước ta, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cho người tiêu dùng hoặc người sản xuất được mô tả trong hình sau: P S P2 Po E P1 D q1 q2 qo q3 q4 Q Hình 2. Tác động của trợ giá nông sản cho người sản xuất và người tiêu dùng Nếu người nông dân được hưởng trợ giá, có nghĩa là Nhà nước mua lương thực của nông dân với giá P2 và bán ra thị trường với giá P2. Với giá thu mua tương đối cao, khuyến khích nông dân tăng sản lượng từ q1 đến q2. Nhưng do nhu cầu của người tiêu dùng ở mức q3 cho nên sẽ dôi ra một lượng lương thực dùng cho nhu cầu dữ trữ hoặc xuất khẩu. Nếu người tiêu dùng được hưởng trợ giá, có nghĩa là Nhà nước thu mua với giá P1 và bán ra với giá P1. Khi đó nhu cầu tăng từ q3 đến q4 trong khi khả năng sản xuất ra là q1. Trong trường hợp này lợi ích người tiêu dùng tăng, nhưng lại thiếu lương thực đáp ứng cho nhu cầu tiều dùng, khi đó cần phải tiến hành nhập khẩu. Thông thường Chính phủ lựa chọn giải pháp trung gian. Trợ giá chi phí lưu thông vận chuyển từ nông thôn ra thị trường bán lẻ ở thành thị. Chính sách bảo hộ nông nghiệp Bảo hộ nông nghiệp là những biện pháp của Chính phủ nhằm hỗ trợ sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng nông sản và đối phó với những hàng hoá nhập khẩu. Bảo hộ nông nghiệp thường được thực hiện qua phương thức sau đây: 2.3.1. Bảo hộ bằng thuế quan. Xét về bản chất, bảo hộ bằng thuế nhập khẩu đối với nông nghiệp và công nghiệp là tương tự nhau. Tuy nhiên, mức độ, tính chất phức tạp và hình thức thì có sự khác nhau ít nhiều. Theo quan điểm của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) thuế quan được thừa nhận là công cụ hợp pháp bảo hộ sản xuất trong nước và có ưu điểm rõ ràng, ổn định, dễ đàm phán. Hạn chế của thuế quan là không tạo được rào cản nhanh như phi thuế quan. 2.3.2. Bảo hộ bằng biện pháp phi thuế quan Các nước nhìn chung thường áp dụng nhiều biện pháp phi thuế quan để bảo hộ sản xuất và thương mại hàng nông sản. Có thể chia thành các nhóm sau: Hạn chế định lượng bao gồm: cấm nhập khẩu, hạn ngạch, giấy phép. Quản lý giá là công cụ gián tiếp bảo hộ sản xuất trong nước. Mục tiêu của biện pháp này là để tránh gian lận thương mại. Chế độ thương mại: biện pháp này liên quan đến các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Hàng rào kỹ thuật, như kiểm dịch động vật, nhãn mác hàng hoá… Các biện pháp bảo vệ thường mại tạm thời: như hạn chế nhập khẩu tạm thời, chống bán phá giá…. Ưu điểm của bảo hộ phi thuế quan là: Hình thức phong phú do đó có nhiều cơ hội chọn hơn. Có thể thực hiện đồng thời nhiều mực tiêu với hiệu quả cao. Hạn chế: Gây khó khăn, tốn kém trong quản lý. Áp dụng các biện pháp phi thuế quan đôi khi gây ra những hậu quả xấu đối với nền kinh tế. Nhà nước sẽ không hoặc ít thu được lợi ích tài chính. III, Đánh giá tác động của công cụ chính sách đối với phát triển nông nghiệp, nông thôn ở nước ta: Các chính sách nổi bật trong nông nghiệp có thể kể đến là xây dựng cơ chế chính sách khoán ruộng đất, rừng cho người nông dân; tạo điều kiện thông thoáng để khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư và kinh doanh trong ngành nông nghiệp. Bên cạnh đó, các chính sách đầu tư, phát triển công nghiệp và ngành nghề nông thôn, chuyển dịch cơ cấu lao động, hỗ trợ nông nghiệp... của Chính phủ cũng được từng bước được nâng lên và điều chỉnh dần theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, các chính sách của ta vẫn còn nhiều điểm bất cập so nhu cầu của ngành nông nghiệp, cũng như so với mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. 3.1. Chính sách ruộng đất: Trong thời kỳ đổi mới nền kinh tế Việt Nam, khu vực nông nghiệp và nông thôn đã đạt được những thành tựu vượt bậc. Điều đó là do tác động mạnh của các chính sách phát triển nông nghiệp và nông thôn và đặc biệt là chính sách ruộng đất. Chính sách ruộng đất được mở đầu bằng luật cải cách ruộng đất và sau nhiều lần sửa đổi bổ sung hiện nay là Luật đất đai đã được Quốc hội Việt nam thông qua, đã tạo môi trường pháp lý thông thoáng và công bằng hơn đối với người sử dụng. Đồng thời cũng khẳng định được vai trò của nhà nước là người bảo hộ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của nguời sử dụng đất. Điều này làm cho người sử dụng đất yên tâm đầu tư để đạt hiệu quả cao trong sử dụng đât đai. Kết quả của việc thực hiện chính sách ruộng đất đã tạo ra bước chuyển biến đáng kể trong nông nghiệp và nông thôn. Sản lượng nông nghiệp tăng trưởng tương đối ổn định trong suốt giai đoạn 1995 đến 2003 (bình quân khoảng 4,2%/năm), nghèo đói khu vực nông thôn cũng giảm dần. Một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta về chính sách ruộng đất, đó là chính sách dồn điền đổi thửa. Có thể khẳng định, dồn điền đổi thửa (DĐĐT) là hướng đi tất yếu để đưa nền nông nghiệp vốn rất manh mún, nhỏ lẻ phát triển thành sản xuất hàng hoá, quy mô lớn. Sau hơn 10 năm thực hiện, từ những ý tưởng manh nha ban đầu rồi trở thành chủ trương lớn, DĐĐT đã thu được những thành tựu đáng kể, tạo tiền đề cho sự xuất hiện của những vùng chuyên canh lớn. Không thể phủ nhận những giá trị to lớn mà DĐĐT mang lại. Phá tan tư tưởng “hoa thơm mỗi người hưởng một tý”, xoá bỏ cung cách sản xuất manh mún, bà con nông dân đã nhìn thấy lợi ích của những ô thửa lớn như: dễ canh tác, thuận lợi cho việc áp dụng cơ giới hoá, tiến bộ kỹ thuật, các tiêu chuẩn quốc tế vào sản xuất, hiệu quả kinh tế mang lại cao hơn nhờ chuyển dịch cơ cấu mùa vụ, cơ cấu cây trồng - vật nuôi. Qua hơn 10 năm thực hiện, DĐĐT đã có những chuyển biến đáng kể, đến nay hầu hết các tỉnh - thành phố ở Đồng bằng sông Hồng triển khai DĐĐT, số thửa giảm từ 21.548.260 thửa xuống còn 10.309.812 thửa. Mỗi hộ trước đây sử dụng ruộng từ 8 - 18 thửa/ha, nay chỉ còn 3,5 - 4 thửa/ha. Tuy nhiên, trong quá trình thực thi chính sách ruộng đất của Chính phủ nhiều vấn đề đã, đang và sẽ tiếp tục nảy sinh liên quan tới lợi ích nhiều nhóm xã hội khác nhau và đòi hỏi phải có những điều chỉnh chính sách kịp thời. Thứ nhất, một trong những vấn đề quan trọng nhất và cũng "nổi cộm nhất" trong nông nghiệp, nông thôn Việt Nam hiện nay là việc nhiều địa phương lấy đất nông nghiệp làm công nghiệp, đô thị. Ở nhiều địa phương, Khu công nghiệp (KCN) có thể mọc lên bất cứ chỗ nào, bất chấp đất trồng lúa màu mỡ. Nhiều nhà khoa học lo ngại, nếu Chính phủ không “mạnh tay”, Việt Nam sẽ bất ổn về an ninh lương thực khi không giữ được đất trồng lúa.   Thống kê của Bộ Tài nguyên - Môi trường cho thấy, trong vòng 5 năm, từ 2001 -2005, tổng diện tích đất nông nghiệp đã bị thu hồi chuyển sang đất phi nông nghiệp tới trên 366.000ha, chiếm 3,9% đất nông nghiệp đang sử dụng. Bình quân mỗi năm thu trên 73.000ha. Trong đó, điển hình là các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Hà Nội. Theo dự kiến năm 2008, Hà Nội sẽ thu hồi 1.500ha, trong đó 904ha đất hai vụ lúa. Điều này ảnh hưởng đến gần 40.000 hộ dân vốn sống phụ thuộc vào nông nghiệp. Cục HTX - Phát triển nông thôn (Bộ NN-PTNT) tính toán, mỗi hecta đất thu hồi ảnh hưởng tới 10 lao động nông nghiệp. Như vậy, việc thu hồi đất nông nghiệp trong 5 năm đã làm đời sống của 2,5 triệu người bị lung lay. Trong đó, vùng Đồng bằng sông Hồng có số hộ bị thu hồi lớn nhất với khoảng 300.000 hộ (do mỗi năm từ 2002-2007, vùng này mất 7.500 ha đất/năm (0,67%), gần gấp hai lần tỷ lệ của cả nước), kế đến là vùng Đông Nam Bộ với khoảng trên 100.000 hộ.  Nguyên nhân của tình trạng này là do Việt Nam vẫn đang thiếu một bản quy hoạch cụ thể về đất nông nghiệp. Chính vì không có cái khung cụ thể, được phê duyệt ở cấp cao, mang tính chất pháp lý cho chính quyền địa phương nên nhiều nơi đã tự chuyển đổi đất trồng lúa để làm công nghiệp, với cái nhìn ngắn hạn "ngân sách đầy hơn nhờ nguồn thuế", trong khi chính quyền TƯ lại buông lỏng quản lý. Viện Nghiên cứu Hỗ trợ phát triển nông thôn (IRARD) cảnh báo, những thôn, xã có diện tích thu hồi chiếm hơn 1/3 đất nông nghiệp đều không đảm bảo lương thực. Nghịch lý khác là trong khi hàng triệu nông dân đang lao đao vì mất tư liệu sản xuất thì các Khu công nghiệp, sau khi giải phóng mặt bằng xong, lại không được nhòm ngó tới. Thứ hai, mặc dù đã thu được những thành tựu đáng kể, tạo tiền đề cho sự xuất hiện của những vùng chuyên canh lớn nhưng xung quanh chính sách dồn điền đổi thửa (DĐĐT) vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế cần được khắc phục kịp thời... Chậm, chất lượng chưa cao là tình trạng chung của công tác DĐĐT ở nhiều địa phương hiện nay. Nguyên nhân là do công tác tuyên truyền, vận động chưa đủ sức thuyết phục; lãnh đạo nhiều nơi còn thụ động, ngại va chạm, một bộ phận không nhỏ nông dân chưa nhận thức đầy đủ về yêu cầu tất yếu phải thay đổi phương thức canh tác. Ngoài ra, thiếu chính sách giao đất lâu dài, ổn định cũng là một trong những nguyên nhân khiến công tác DĐĐT gặp khó khăn, nhất là trong tư tưởng của một số nông dân. Thứ ba, trong các chính sách đất đai hiện nay, đặc biệt là việc triển khai chính sách này vào thực tiễn ở các địa phương vẫn còn rất nhiều vấn đề bất cập mà Việt Nam vẫn chưa giải quyết được. Nhưng cũng cần phải nói thêm rằng, những bất cập của chính sách đất đại hiện nay cũng là chuyện tất yếu. Bởi vì thực tiễn đang phát triển quá nhanh. Cách đây mươi, mười lăm năm, cách xử lí về đất đai của nước ta tiến bộ hơn nhiều so với bạn bè trong khu vực (Philippine, Trung Quốc), nhưng đến nay lại lạc hậu. Và cũng những vấn đề của luật mà chúng ta chưa giải quyết được triệt để. Cụ thể: - Năm 1987, Nghị định 299, quy định hộ nông thôn được 200m2, miền núi được 400m2 đất ở. Vườn ao bên cạnh tính là đất nông nghiệp. Sau này Nghị định 197 năm 2004, lại coi đất vườn ao là đất liền kề và được hỗ trợ đền bù với các mức trợ cấp khác cao hơn nhiều so với đất nông nghiệp bình thường. Từ đó, ở nhiều nơi người dân chiếm ruộng, chiếm ao hồ biến thành đất liền kề. Dẫn đến mâu thuẫn, khiếu kiện. Mà đáng lẽ phải xem xét và quy định chính sách đó cho loại đất đó chỉ được áp dụng ở từng thời điểm một. - Hiện nay đa số người dân, kể cả những người thực hiện chinh sách đất đai ở địa phương đều cho rằng giá đất đền bù khi thu hồi đất nông nghiệp chưa hợp lí. Giá đền bù đất nông nghiệp thấp hơn rất rất nhiều so với đất ở và đất phi nông nghiệp. Ở đất nông nghiệp cơ chế xác định giá đền bù chủ yếu dựa trên địa tô nông nghiệp. Nên khi thu hồi đất, chỉ có dân đô thị, người ven đô được hưởng lợi nhiều, còn nông dân luôn luôn bị thiệt. Về nguyên tắc, phương pháp tính giá đền bù của Nghị định 188 đã thể hiện cơ sở đề bù ở đây là dựa trên địa tô của đất. Tuy nhiên, trên thực tế, hiện nay đối với đất nông nghiệp chúng ta chỉ hiểu địa tô đất bao gồm địa tô tuyệt đối và địa tô tương đối (lí thuyết của Adam Smit, Ricardo hay K. Max), mà quên rằng nếu trên đất có nhiều tác nhân kinh tế đang cạnh tranh nhau (ví dụ đất nông nghiệp trong gianh giới đất đô thị hay đất được quy hoạch để làm đô thị) thì địa tô đất sẽ bao gồm cả các địa tô kinh tế, địa tô trạng thái (được hiểu là các thặng dư do vị trí đất mạng lại, giúp cho các tác nhân kinh tế nếu khai thác vị trí này cho phép giảm nhiều chi phí trong sản xuất kinh doanh: khoảng cách đến thị trường gần hơn, tiếp cận các dịch vụ dễ hơn…) (Lí thuyết của Von Thunen, Wiliam Alonso hay Alfrred Marshall). Nếu như cách xác định giá đền bù theo phương pháp so sánh ít nhiều đã tính đến các địa tô kinh tế này. Nhưng nếu đất nông nghiệp chỉ tính đơn thuần trên địa tô nông nghiệp thì sẽ thiệt thòi cho người có đất. Tuy khung giá đất và những quy định để cho các địa phương tùy theo điều kiện của mình để điều chỉnh giá đất hàng năm đã ít nhiều thể hiện được địa tô chênh lệch II của đất nhưng nó chưa đủ và chưa thể hiện được tư duy phát triển tổng hợp và dài hạn trên cả lãnh thổ. Những sự thiếu công bằng trên là nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn ruộng đất và mâu thuẫu này ngày càng lớn. Cụ thể là hình thành nên một mối quan hệ không tốt đẹp giữa nông dân và Chính quyền, giữa nông dân và doanh nghiệp. 3.2. Chính sách đầu tư: Nguồn vốn đầu tư xã hội cho nông nghiệp, nông thôn thường bao gồm: vốn ngân sách Nhà nước (được gọi là nguồn vốn chủ yếu), vốn tín dụng ưu đãi và vốn do dân tự đầu tư. Ngoài ra những năm qua Chính phủ đã chủ trương khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngàng nông nghiệp, lân nghiệp. Vốn ngân sách Nhà nước đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn chủ yếu để chi cho các mục tiêu xã hội, xoá đói và thuỷ lợi. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong giai đoạn 2001-2005, đã có 113.116 tỷ đồng đầu tư phát triển nông thôn trong cả nước, trong đó, vốn ngân sách Nhà nước chiếm gần 29 ngàn tỷ, chỉ đạt 15 – 17% tổng vốn đầu tư từ ngân sách hàng năm, vốn đóng góp của nhân dân chiếm khoảng 10%. Nhờ đó, nông thôn đã có những bước chuyển tích cực, điện đường trường trạm cơ bản được đảm bảo. Tuy nhiên, số này mới chỉ đáp ứng 17% nhu cầu phát triển nông thôn. Chính vì vậy, trong những năm vừa qua, kinh tế đất nước tăng trưởng mạnh nhưng khoảng cách giữa thành thị và nông thôn ngày càng cao. Nếu khu vực nông thôn có mức tăng trưởng từ 3,5 - 4%/mỗi năm, thì khu vực công nghiệp và dịch vụ tăng trưởng cao hơn gấp 2- 6 lần. Ngoài ra, do chưa tìm được mô hình điển hình cho phát triển nông thôn và những bất cập trong việc đầu tư, nên nông thôn đang tồn tại không ít khó khăn. Hiện cả nước còn hơn 300 xã với hơn 20.000 thôn, ấp chưa có đường giao thông, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế, xã hội. Bản sắc văn hóa và sinh cảnh nông thôn đang mất dần; nông sản không có sức cạnh tranh trên thị trường, nhất là khi Việt Nam gia nhập WTO. Vòng lẩn quẩn được mùa-mất giá, được giá-mất mùa, hàng hóa không tiêu thụ được... luôn diễn ra. Thời gian qua, Chính phủ đã cố gắng cân đối, bổ sung nguồn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn bằng nhiều nguồn như vốn ngân sách, trái phiếu chính phủ, ODA… nhưng hiệu quả chưa thật rõ nét. Thu hút FDI vào nông thôn cũng vậy. Cũng theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện chỉ có khoảng 9% doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, 7% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là trong lĩnh vực nông nghiệp. Trong khi, Việt Nam có trên 70% dân số sống ở khu vực nông thôn. Trong giai đoạn tới (2006 – 2010), với danh mục 94 dự án trọng điểm quốc gia mà Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn mời gọi vốn FDI gần 26 tỷ USD, ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và chăn  nuôi chỉ có 1 dự án; ngành thuỷ sản có khá hơn với 4 dự án mời gọi đầu tư. Rõ ràng, vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn quá thấp mà nguyên nhân cơ bản của vấn đề này là: Cơ cấu đầu tư còn chưa hợp lý, phân bổ vốn trong các chương trình, mục tiêu còn dàn trải, bình quân. Trong khi đó, chưa có nhiều cơ chế, chính sách hữu hiệu nhằm khuyến khích, thu hút các nguồn vốn ngoài ngân sách đầu tư cho hạ tầng nông nghiệp, nông thôn. Nhiều chủ trương của Đảng và Nhà nước chưa được các bộ, ngành trung ương quan tâm thực hiện. Sản xuất nông nghiệp chịu rủi ro nhiều phía, nhất là điều kiện tự nhiên, thị trường; lãi suất thấp, thu hồi vốn chậm vì phải theo chu kỳ cây trồng, vật nuôi, cho nên các doanh nghiệp ít quan tâm đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn. Doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực này cần sử dụng nhiều đất đai để xây dựng vùng nguyên liệu thì thực tế tại các địa phương, đất đai đã được giao hết cho các hộ. Vì vậy, vùng nguyên liệu không ổn định, dẫn đến tình trạng nông dân bơi trong vòng luẩn quẩn, hết “trồng - chặt” lại “chặt - trồng”, chất lượng thấp, giá thành lại cao. Cơ sở hạ tầng ở nông thôn như điện, đường, thông tin… lại chưa được đảm bảo, chi phí dịch vụ cao làm tăng giá thành sản phẩm. Đây là hoạt động mấu chốt kết nối giữa nông thôn và thành thị, đem đầu tư từ thành thị về nông thôn. Nhiều doanh nghiệp hiện rất khó tiếp cận để đầu tư phát triển và đào tạo nhân lực cho khu vực này.  Theo số liệu của Ban đổi mới doanh nghiệp (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), đa số các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông- lâm nghiệp thuộc loại  vừa và nhỏ. Trong lúc bình quân 1 lao động trong các doanh nghiệp FDI làm ra 341 triệu đồng/ năm; doanh nghiệp Nhà nước 300 triệu đồng/năm thì doanh nghiệp nông nghiệp chỉ 52 triệu đồng/năm. Chỉ có 60% doanh nghiệp nông nghiệp làm ăn có lãi. 3.3. Chính sách phát triển công nghiệp và ngành nghề nông thôn: Trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta chủ trương đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và coi đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Một trong những yếu tố tạo động lực đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn chính là việc phát triển của công nghiệp nông thôn. Để góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hỗ trợ, tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn một cách bền vững, nâng cao năng lực cạnh tranh, thực hiện có hiệu quả lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, ngày 09/6 /2004 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 134/2004/NĐ-CP về khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn. Đối tượng được khuyến khích, hỗ trợ phát triển và tạo điều kiện là các tổ chức, cá nhân trực tiếp đầu tư, sản xuất công nghiệp tại vùng nông thôn, cụ thể là tại các huyện, thị xã, thị trấn và xã, trong đó chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hợp tác xã. Từ khi Nghị định đi vào cuộc sống đến nay đã động viên và huy động được rất nhiều nguồn lực trong và ngoài nước tham gia hoặc hỗ trợ các tổ chức, cá nhân đầu tư sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn, công nghiệp nông thôn đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ bình quân giai đoạn 2003- 2006 là 17,9%/năm. Bên cạnh đó, các dịch vụ khuyến công theo quy hoạch cũng đã phát triển đều khắp trong cả nước, nhất là các vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Bộ mặt nông thôn có những chuyển biến rõ nét, khởi sắc từng ngày, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được cải thiện. Tuy nhiên, sau gần 4 năm thực hiện chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp cũng nảy sinh một số vấn đề cần sớm chấn chỉnh, khắc phục như việc triển khai chính sách này chưa rộng khắp nhiều địa phương chưa được ra được các chính sách cụ thể, việc hỗ trợ chưa tương xứng do khả năng ngân sách của từng địa phương khác nhau, việc hổ trợ về đào tạo, chuyển giao công nghệ hiệu quả còn thấp do năng lực của cơ quan nhà nước lẫn các đối tượng được hưởng chính sách; việc cải cách hành chính trong lĩnh vực đầu tư còn chậm chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình… Ngành nghề truyền thống giữ vai trò quan trọng trong quá trình phát triển nông thôn Việt Nam từ bao đời nay, vừa tạo công ăn việc làm lúc nông nhàn, tăng thu nhập cho nông dân, vừa tạo dấu ấn bản sắc văn hoá của mỗi vùng, miền thông qua sản phẩm truyền thống. Chênh lệch giữa nông thôn và thành thị đang ngày càng tăng, vì vậy, yêu cầu phát triển ngành nghề không chỉ giải quyết những bức xúc ở khu vực nông thôn mà chính là giải quyết vấn đề kinh tế - văn hoá - xã hội của đất nước. Ngày 24/11/2000 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 132/2000/QĐ-TTg về một số chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn và ngày 7/7/2006 ban hành Nghị định 66/2006/NĐ-CP về phát triển ngành nghề nông thôn. Từ khi Quyết định 132 ra đời đã tạo được sự chuyển đổi mạnh mẽ. Nhiều nghề truyền thống được khôi phục, nghề phi nông nghiệp mới ra đời. Số hộ và số cơ sở nghề nông thôn hàng năm tăng bình quân 8,9-9,8%, có trên 1.420 hộ thu nhập từ làng nghề. Thu nhập của người làm nghề gấp 3-4 lần lao động nông nghiệp. Tỷ lệ hộ nghèo mỗi năm giảm 2%. Cơ cấu lao động có bước chuyển biến tích cực theo hướng giảm dần lao động nông nghiệp, tăng lao động công nghiệp, dịch vụ. Thực tế cho thấy, những năm qua nhiều làng nghề ở nước ta đã được phục hồi và phát triển. Tuy nhiên, các nghệ nhân cũng như nhiều nhà quản lý đều có chung quan điểm, việc phát triển làng nghề còn trong tình trạng tự phát, sử dụng công nghệ lạc hậu, thiết bị máy móc cũ kỹ. Trên 80% cơ sở không đủ vốn đầu tư, đổi mới trang thiết bị, mở rộng quy mô sản xuất. Nguyên liệu sản xuất không ổn định, cầm chừng, không ứng dụng được tiến bộ kỹ thuật, mẫu mã đơn điệu. Thông tin thị trường không đầy đủ, đăng ký mẫu mã chậm. Chưa khai thác được tiềm năng du lịch, quảng bá, tiêu thụ sản phẩm. Môi trường làng nghề ô nhiễm nghiêm trọng. Công tác đào tạo, hướng dẫn, truyền nghề chưa chú trọng đúng mức. Độ rủi ro cao và thiếu thị trường, thiếu các chính sách khuyến khích và hỗ trợ của Nhà nước..., nên bên cạnh những vùng rất năng động trong phát triển, thì vẫn còn nhiều vùng còn khá trì trệ. Chính sách chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn: Song song với xu hướng tích tụ ruộng đất, là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, đặc biệt đã hình thành những hộ vừa sản xuất hàng hóa, vừa kinh doanh dịch vụ. Theo số liệu được công bố về chuyển dịch cơ cấu lao động trong nông thôn, hiện nay có khoảng 79,6% lao động nông, lâm, thủy sản; 7,4% lao động công nghiệp và xây dựng; 11,5% lao động trong khu vực dịch vụ. Xu thế của một xã hội phát triển là giảm cơ cấu về mặt tương đối của nông nghiệp trong nền kinh tế, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Muốn như vậy, phải có sự dịch chuyển lao động. Sự dịch chuyển này bằng hai cách: hoặc là dịch chuyển tuyệt đối, tức là đưa về các Khu công nghiệp, đưa đi xuất khẩu lao động, đưa về thành phố - quy luật không thể tránh khỏi; thứ hai, dịch chuyển tại chỗ, nghĩa là đưa công nghiệp về nông thôn, phát triển làng nghề...  Tuy nhiên, có một thực trạng là tỷ trọng GDP nông nghiệp giảm rõ rệt trong tổng GDP của cả nước (từ 26,2% năm 1995 còn 20,4% năm 2006), trong khi số lao động trong nông nghiệp giảm không đáng kể. Nguyên nhân của vấn đề là do Việt Nam chưa quan tâm nhiều tới việc dịch chuyển cơ cấu lao động ở nông thôn, đặc biệt là đầu tư cho đào tạo nghề trước khi diễn ra sự dịch chuyển đó, trong khi đây là một xu thế không thể nào đảo ngược được. Việc cử người đi lao động ở Hàn Quốc, Malaysia...của chúng ta là một bài học. Do những người đi lao động hoàn toàn là lao động thô, chưa qua đào tạo một chút nào về kỹ năng nên lao động Việt Nam rất vất vả về chân tay nhưng thu nhập lại thấp.  Trong nước, sau khi đất đai nông nghiệp bị thu hồi làm Khu công nghiệp, điển hình như ở Vĩnh Phúc, Hà Tây, Hải Dương...thì nhu cầu về lao động có tay nghề rất lớn nhưng do chưa làm tốt khâu đào tạo lao động nên tỷ lệ thất nghiệp ở nông thôn đang ngày càng đáng báo động. Cụ thể trên 83% lao động ở nông thôn chưa qua đào tạo bất kỳ chuyên môn gì (con số từ Bộ LĐTB-XH), trong khi tỷ lệ này ở thành thị là 49%. 20% lao động ở nông thôn thất nghiệp, tương đương khoảng 4,8 triệu người, cộng thêm hàng triệu thanh niên bước vào độ tuổi lao động mỗi năm.  3.5. Chính sách hỗ trợ nông nghiệp Bối cảnh hội nhập quốc tế đang đặt ra các yêu cầu Việt Nam phải mở cửa thị trường, cắt giảm thuế và tiến tới thực hiện một khu vực phi thuế quan. Việt Nam không được thực hiện các biện pháp trợ cấp làm bóp méo thương mại, đặc biệt là các biện pháp trợ cấp xuất khẩu. Hầu hết các chính sách hỗ trợ trong nước hiện nay đều thuộc chính sách hộp xanh và hộp phát triển (là các chính sách WTO cho phép các nước đang phát triển được phép áp dụng), vì vậy có thể tiếp tục duy trì. Theo số liệu thống kê đàm phán gia nhập WTO, cơ cấu chính sách hỗ trợ trong nước cho ngành nông nghiệp (giai đoạn 1999-2001) cho thấy các chính sách thuộc nhóm hộp xanh (được phép áp dụng) của Việt Nam chiếm 84,5% tổng nhóm hỗ trợ trong nước, tập trung chủ yếu trong xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp, dịch vụ khuyến nông, các chương trình hỗ trợ vùng, hỗ trợ khắc phục thiên tai, dự trữ công vì mục đích đảm bảo an ninh lương thực. Các chính sách hỗ trợ đào tạo, nghiên cứu khoa học, dịch vụ kiểm tra giám sát dịch bệnh và sâu bệnh, hỗ trợ điều chỉnh cơ cấu còn chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng số chi hỗ trợ trong nhóm hộp xanh, mới chiếm tỷ lệ khoảng 1-3%. Các chính sách hỗ trợ trong nhóm chương trình phát triển Việt Nam đang áp dụng chiếm 10,7% tổng nhóm hỗ trợ trong nước. Chủ yếu dưới các hình thức hỗ trợ cho 1 số chương trình hỗ trợ sau đầu tư, hỗ trợ lãi suất cho mía đường, sản xuất sữa, chăn nuôi; hỗ trợ lãi suất thấp cho người nghèo, chuyển dịch cơ cấu kinh tế (bỏ trồng cây thuốc phiện). Trong khi đó,ở châu Á và các nước, xu hướng hỗ trợ nông nghiệp tăng nhanh. Ví dụ, Trung Quốc thực hiện chính sách hỗ trợ nông nghiệp mạnh mẽ với áp dụng thuế cao hoặc mức giá cả giúp người sản xuất và tiêu dùng Trung Quốc tiếp cận sản phẩm nông nghiệp với giá thích hợp. Ở các nước khác, Chính phủ áp dụng quy chế hỗ trợ đa dạng hóa sản phẩm và chính sách trợ giá liên quan đến người nghèo hỗ trợ tiêu dùng. Đó cũng là thách thức cho Việt Nam.   3.6. Chính sách phát triển khoa học-công nghệ: Thiếu kiến thức, công nghệ sản xuất lạc hậu cũng là thực trạng đáng báo động trong đại bộ phận nông dân. Theo các chuyên gia, điều quan trọng là sau khi Việt Nam gia nhập WTO, cần đẩy mạnh đầu tư cho khoa học-công nghệ (hiện mới chiếm 0,13% GDP nông nghiệp, trong khi các nước tương tự là 4%). Tất nhiên, vấn đề này cũng không dễ dàng bởi những người nông dân đã nghèo, lại không có điều kiện tiếp cận khoa học công nghệ, kiến thức, do đó, khó chuyển giao khoa học, công nghệ để họ thực sự làm chủ. Chính điều đó, đã gây ra bất lợi cho hàng hoá của Việt nam khi tham gia vào thị trường thế giới. Hiện nay, giá thành sản xuất của phần lớn các nông sản Việt Nam đều đắt hơn hàng nước ngoài m

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxĐánh giá tác động của công cụ chính sách đối với phát triển nông nghiệp, nông thôn ở nước ta.docx
Tài liệu liên quan