Đề tài Đánh giá thị trường tài chính Việt Nam hậu WTO

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I 2

LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH 2

1.Tài chính và thị trường tài chính 2

1.1. Tài chính 2

1.1.1. Bản chất của tài chính: 2

1.1.2. Chức năng của tài chính: 3

1.1.3. Vai trò của tài chính 3

1.2 Thị trường tài chính 5

1.2.1 Định nghĩa 5

1.2.2 Phân loại thị trường tài chính 5

1.2.3. Cấu thành của thị trường tài chính 5

1.2.4 Vai trò của thị trường tài chính 5

CHƯƠNG II 7

THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM HIỆN NAY 7

2.1. Thực trạng thị trường chứng khoán( TTCK ) 7

2.1.1 Những thuận lợi và khó khăn của thị trường chứng khoán Việt Nam 7

2.1.2 Tình hình hoạt động thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay 8

2.2. Thực trạng thị trường tiền tệ 17

2.2.1. Thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc và trái phiếu chính phủ bằng ngoại tệ 17

2.2.2. Thị trường hối đoái 18

2.3 Thực trạng thị trường vốn của Việt Nam 19

2.3.1. FDI tăng kỷ lục 22

2.3.2. CPI tăng phi mã 23

CHƯƠNG III 24

GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM HIỆN NAY 24

3.1. Các giải pháp trên thị trường tiền tệ. 24

* Một số nguyên nhân làm cho thị trường tiền tệ Việt Nam chưa phát triển: 25

* Những giải pháp phát triển thị trường tiền tệ: 27

3.2. Các giải pháp trên thị trường vốn : 29

* Những giải pháp phát triển thị trường vốn 31

Các giải pháp trên thị trường chứng khoán ( TTCK ) 33

KẾT LUẬN 35

 

 

doc53 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2225 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá thị trường tài chính Việt Nam hậu WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phát chứng khoán. Khi giá cổ phiếu liên tục tăng lên, cổ phiếu các doanh nghiệp được giao dịch hết. Doanh nghiệp huy động vốn một cách nhanh chóng và dễ dàng, đó cũng là cơ hội thuận lợi hiếm hoi đối với doanh nghiệp. Thực trạng này đã thúc đẩy doanh nghiệp tiếp tục phát hành cổ phiếu nhiều hơn, mở rộng việc huy động vốn. Thực tế trên TTCK nước ta trong thời gian qua có rất nhiều công ty phát hành cổ phiếu đợt 2, đợt 3... Số cổ phiếu phát hành trong những đợt này đều không đại biểu cho lượng giá trị tài sản nào, bởi lẽ giá trị công ty không được xác định lại, giá trị tài sản được cổ phần hoá thành cổ phiếu đã được phát hành. Giá trị tài sản mà cổ phiếu đại biểu giai đoạn sau này đã giảm đi nhiều lần so với cổ phiếu giai đoạn đầu. Một hoạt động khác cũng được coi là lạm phát chứng khoán. Đó là các công ty trả cổ tức bằng cổ phiếu. Nhiều công ty không trả cổ tức cho nhà đầu tư bằng tiền mà bằng cổ phiếu, nhờ đó mà hàng triệu cổ phiếu được phát hành thêm một cách mặc nhiên và doanh nghiệp thu được khoản tiền đáng kể. Cũng vì thế mà lạm phát chứng khoán trầm trọng hơn và giá trị tài sản mà chứng khoán đại biểu thấp hơn rất nhiều so với trước và so với mệnh giá. Khi sự thật sáng tỏ và những phản ứng của công ty. Khi các nhà đầu tư nhận thấy giá trị cổ phiếu bị giảm đi liên tục, cổ tức mà cổ phiếu mang lại rất thấp hoặc không có, mệnh giá cổ phiếu chỉ còn là cái vỏ bề ngoài và giá cổ phiếu giảm liên tục theo giá trị thực của nó. Nhà đầu tư đã bị tước đoạt phần lớn số tiền vốn của mình mà không hề biết, không hiểu vì sao. Các nhà đầu tư có tâm lý hoang mang và nghi ngờ TTCK, tìm cách thu hồi vốn. Họ tìm cách để bán cổ phiếu ra, hạn chế mua vào, xu thế này đã làm giá cổ phiếu giảm và không ổn định. Qua nghiên cứu cổ phiếu của 10 công ty (chọn ngẫu nhiên) trên TTCK, hai thời điểm là ngày 10/01 và ngày 15/8/2007, chúng ta thấy có 8 công ty giá cổ phiếu và cổ phiếu khớp lệnh sụt giảm lớn. Chỉ có 02 mã cổ phiếu tăng giá nhưng số cổ phiếu khớp lệnh vẫn giảm đi nhiều. Những công ty đó có thể phát hành thêm ít hoặc không phát hành thêm cổ phiếu và hoạt động kinh doanh tốt, cổ tức mang lại lợi ích cao cho các nhà đầu tư. Do vậy cổ phiếu những công ty này được các nhà đầu tư tăng cường mua vào, hạn chế bán ra: Bảng biến động 10 mã cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Mặt khác, TTCK lại tiếp tục có thêm nhiều cổ phiếu mới lên sàn giao dịch, do vậy lượng cung tăng thêm rất nhiều, càng làm cho quan hệ cung cầu chứng khoán mất cân đối nghiêm trọng. Từ những nguyên nhân trên đã làm cho TTCK tụt dốc liên tục. Chỉ số VnIndex từ 1.170 điểm (12/3/2007) xuống còn 883 điểm (06/8/2007) chỉ số HASTC từ trên 450 điểm (09/3/2007) xuống còn 254,3 điểm (06/8/2007). Đại gia xuất hiện và những ma thuật ở hậu trường. TTCK đã phát triển với quy mô ngày càng lớn. Theo nghiên cứu mới nhất cho biết hiện tại tổng giá trị niêm yết đạt 280.396 tỷ chiếm 28% GDP năm 2006, tới năm 2015 sẽ tăng cao hơn nữa và có thể chiếm 60% GDP của Việt Nam. Những nhà đầu tư nhỏ không thể tác động vào thị trường, kinh doanh nhờ may rủi đã phải nhường chỗ cho các đại gia mỗi lần khớp lệnh lên tới hàng chục tỷ đồng làm thay đổi cung cầu cổ phiếu của một công ty. Hiện nay các đại gia này phần lớn là các nhà đầu tư nước ngoài, họ để mắt tới cổ phiếu của công ty nào thì cổ phiếu của công ty đó tăng giá. Song các nhà đầu tư này chưa sẵn sàng vì lợi tức cổ phiếu mang lại là thấp. Thực tế trong thời gian qua họ mới chuyển từ cổ phiếu này sang cổ phiếu khác, tìm cơ hội rút vốn cho đỡ thua thiệt. Các doanh nghiệp có cổ phiếu trên sàn cũng tìm cách thao túng thị trường. Họ lập quỹ dự trữ bằng tiền trong công ty. Khi giá cổ phiếu hạ thì tung tiền ra mua vào làm nhu cầu tăng và đẩy giá cả cổ phiếu của công ty tăng cao, có lợi cho công ty. Một thủ thuật nữa mà nhiều công ty đã sử dụng là thông tin bất thường, thông tin không minh bạch. Các số liệu sổ sách không chính xác, không kịp thời. Nhiều nhà đầu tư rất muốn có đủ thông tin về sản xuất kinh doanh, về thực trạng tài chính, về triển vọng phát triển doanh nghiệp mà họ sở hữu cổ phiếu. Song sự mong muốn đó hoàn toàn không được đáp lại. Họ hoàn toàn bị động và gặp rủi ro cao hơn. Các doanh nghiệp sau khi thu được khoản tiền khổng lồ từ TTCK lẽ ra phải dùng vốn đó để đầu tư mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển doanh nghiệp. Nhưng không, chỉ một phần số vốn đó được đầu tư trở lại, phần còn lại chuyển hướng kinh doanh mà những doanh nghiệp lớn thường nhắm tới là ngân hàng. Thực tế trong thời gian qua đã có nhiều doanh nghiệp lớn đang tích cực chuyển sang kinh doanh tiền tệ như LILAMA, FPT, VNPT, VINASYL... Các ngân hàng lại phát hành cổ phiếu ra TTCK tạo thành làn sóng hút vốn bằng tiền vào. Cũng theo cơ chế được phép, ngân hàng cho vay 3% (trước đây lớn hơn nhiều) vốn để giao dịch trên TTCK. Vòng xoáy này ngày càng lớn và thu hút nhiều tiền vào ngân hàng hơn nữa. Qua điều tra mới đây, nguồn gốc lượng vốn đổ vào TTCK rất đa dạng: 41,05% từ tiết kiệm; 13,78% tích luỹ từ hoạt động sản xuất kinh doanh; 10,28% từ lợi nhuận kinh doanh chứng khoán; 14,92% từ vay ngân hàng; 8,39% chuyển từ lĩnh vực đầu tư khác sang và 11,58% từ các nguồn khác. Rõ ràng qua TTCK các doanh nghiệp lớn, các ngân hàng kinh doanh tiền tệ đã hút cạn lượng tiền trong dân, làm mất cân đối tiền hàng và giảm sức mua trên thị trường. Nguyên nhân trên sẽ dẫn tới hậu quả là nền kinh tế trì trệ, khả năng thanh toán thấp, thị trường hàng hoá, nhất là bất động sản ảm đạm báo hiệu sớm nguy cơ khủng hoảng thị trường tài chính. Khi đó, sẽ gây tác hại to lớn khó lường cho TTCK. Biến động TTCK trong thời gian tới . Trong thời gian tới TTCK nước ta sẽ diễn biến rất phức tạp, không những chịu sự chi phối của những yếu tố nội tại TTCK mà còn chịu sự chi phối của các yếu tố kinh tế, chính trị trong nước và quốc tế. Kinh tế thế giới đã vào cuối chu kỳ phát triển. Khủng hoảng năng lượng luôn đe doạ, giá dầu tăng cao đã làm gia tăng lạm phát toàn cầu. Kinh tế Việt Nam cũng rơi vào tình trạng đó. Lạm phát tăng cao cùng với sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, lợi tức thấp khiến các nhà đầu tư tìm cách rút vốn từ TTCK sang đầu tư lĩnh vực khác an toàn hơn. Nhu cầu cổ phiếu sẽ bị giảm đi nhiều. Lượng cung cổ phiếu lại tăng cao do lạm phát cổ phiếu và do cổ phiếu nhiều công ty mới lên sàn giao dịch. Điều này đã làm thị giá cổ phiếu giảm đi nhanh chóng. Như vậy TTCK sẽ suy giảm, chỉ số chứng khoán khó tăng trở lại mà có nguy cơ giảm nữa. 2.2. Thực trạng thị trường tiền tệ Do sự bất ổn định trên thị trường tiền tệ thế giới vào cuối năm 2007 và đầu năm 2008 mà cụ thể nhất là cuộc khủng hoảng tín dụng thứ cấp ở Mỹ do giá nhà đất sụt giảm làm cho đồng USD mất ổn định mà đỉnh điểm của sự mất giá đồng USD là ngày 15/04/2008 tỉ giá EUR/USD=1,6000 đi kèm với việc đồng USD mất giá là giá dầu thô và vàng liên tục lập những kỷ lục mới, có lúc vàng tiến đến 1031USD/ounces và dầu đã lập kỷ lục với mức 135USD/thùng đã làm cho lạm phát tăng cao trên toàn thế giới. Mặt khác trong thế giới ngày nay sự đan xen và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia là không tránh khỏi đã gây nên những xáo trộn trên thị trường hối đoái của các nước trong đó có Việt Nam. Song song với nguyên nhân trên còn có nguyên nhân là do sự yếu kém xuất phát từ nội tại của nền kinh tế trong điều hành chính sách vĩ mô nền kinh tế thông qua chính sách tiền tệ mà cụ thể là việc điều hành chính sách tỉ giá có lúc tỉ giá do NHNN công bố xuống 15.700 VND ăn 1 USD và trên thị trường tự do là VND/USD=15.500 trong tháng 02/2008 nhưng đến ngày 27/05/2008 thì mọi chuyện hoàn toàn ngược lại tỉ giá chính thức do ngân hàng nhà nước công bố là VND/USD16.212 nhưng trên thị trường tự do VND/USD=17.550. Một nguyên nhân nữa cũng không kém phần quan trọng do nhập siêu trong 5 tháng đầu năm 2008 quá cao 14,4tỉ USD(do có lúc doanh nghiệp xuất khẩu không bán được USD) cộng với tâm lý của người dân khi lạm phát tăng cao(15,96%) nên đổ xô đi mua USD tích trữ làm cho thị trường ngoại tệ biến đổi khó lường trong thời gian qua trong khi đó trên thị trường quốc tế EUR/USD =1,579 tức đồng USD đang mất giá. 2.2.1. Thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc và trái phiếu chính phủ bằng ngoại tệ - Nghiệp vụ thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc được thực hiện từ tháng 5/1995 và trải qua các giai đoạn phát triển sau: + Từ năm 1995 đến 1999: Phát hành tín phiếu kho bạc và trái phiếu kho bạc + Từ năm 1999 đến năm 2003: Phát hành tín phiếu kho bạc + Từ năm 2003 đến nay: Phát hành tín phiếu kho bạc và ngoại tệ (USD, kỳ hạn 5 năm ) Theo Thông tư 19/2004/TT-BTC ngày 18/3/2004 của Bộ Tài chính, hiện nay có hai loại trái phiếu đang được đấu thầu tại Ngân hàng Nhà nước là: Tín phiếu kho bạc Nhà nước và Trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ (trái phiếu ngoại tệ). Do đầu năm 2008, các Tổ chức tín dụng thiếu hụt vốn khả dụng nên trong Quý I và Quý II năm 2008, mặc dù Ngân hàng nhà nước tổ chức được 03 phiên đầu thầu phát hành Tín phiếu kho bạc nhưng không có thành viên tham gia. Sang quý III và quý IV, một số Tổ chức tín dụng dư thừa vốn khả dụng nên đã tham dự thầu với khối lượng TPKB trúng thầu đạt hơn 20.000 tỷ đồng, tăng hơn 100% so với năm 2007 và bằng 78,23% kế hoạch phát hành Tín phiếu kho bạc qua Ngân hàng Nhà Nước của Bộ Tài chính. Lãi suất trúng thầu đạt mức cao nhất là 15,70% và giảm dần xuống mức 8,38% vào cuối năm 2008. Nhìn chung, hoạt động nghiệp vụ thị trường tiền tệ năm 2008 đã được Ngân hàng Nhà Nước vận hành uyển chuyển, linh hoạt, đa dạng đáp ứng cung cầu vốn của các thành viên tham gia thị trường và cơ bản đã hoàn thành tốt nhiệm vụ truyền tải hữu hiệu các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà Nước. 2.2.2. Thị trường hối đoái Trong 6 tháng đầu năm, thị trường ngoại hối có những diễn biến không thuận lợi. Do áp lực từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, lo ngại rủi ro biến động tỷ giá, các doanh nghiệp có tâm lý găm giữ ngoại tệ. Mặt khác, do tác động phụ của chính sách hỗ trợ lãi suất cho vay bằng VND và việc điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản bằng VND, nhiều doanh nghiệp không muốn vay ngoại tệ mà chuyển sang vay VND để mua ngoại tệ dẫn đến nhu cầu mua ngoại tệ tăng mạnh, tình hình cung cầu ngoại tệ trở nên căng thẳng.  Diễn biến USD tháng 5/2009 (nguồn: ACB) Diễn biến USD tháng 6/2009 (nguồn: ACB) Để tăng nguồn cung và ổn định thị trường ngoại tệ, Ngân hàng Nhà nước đã triển khai quyết liệt nhiều giải pháp, phải kể đến việc mở rộng biên độ ấn định tỷ giá mua bán USD/VND của các ngân hàng thương mại từ +3% lên +5% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng. Đồng thời, NHNN cũng tiến hành một loạt các biện pháp nhằm chấn chỉnh hoạt động của thị trường ngoại hối. Đặc biệt, nhằm hạn chế tâm lý găm giữ ngoại tệ của các doanh nghiệp và người dân NHNN đã yêu cầu các ngân hàng thương mại nhà nước giảm lãi suất cho vay và huy động bằng ngoại tệ (lãi suất cho vay giảm từ mức 6 – 6,5%/năm xuống không quá 4%/năm kể từ ngày 15/4/2009 và giảm tiếp xuống mức không quá 3%/năm kể từ ngày 01/6/2009, lãi suất huy động giảm xuống mức không quá 1,5%/năm kể từ ngày 01/6/2009). Tuy nhiên, điều đó đã không tác động nhiều đến tâm lý găm giữ ngoại tệ của người dân và doanh nghiệp. Nguyên nhân được xác định là do người dân vẫn lo lắng về biến động tỷ giá trong thời gian tới. Trên thị trường hiện nay vẫn tồn tại tình trạng huy động USD của các ngân hàng rất nhiều nhưng lại thiếu USD nguồn vốn để có thể bán lại cho các doanh nghiệp. Do đó, để đảm bảo hoạt động kinh doanh nhiều công ty vẫn phải chấp nhận mua đồng USD ở thị trường tự do với mức giá cao hơn so với mức giá của NHNN quy định. 2.3 Thực trạng thị trường vốn của Việt Nam Việt Nam đã vượt qua đáy suy thoái kinh tế nhưng thị trường tiền tệ vẫn chưa bền vững, rủi ro cao. Chính phủ nên tập trung ổn định kinh tế vĩ mô, không nên chạy theo giải pháp phá giá tiền đồng. Tỷ giá giao dịch đôla Mỹ đã đạt gần 20.000 đồng đổi một USD vào trưa ngày 11/11, xác lập kỷ lục về giá trên thị trường tự do năm 2009. Nguyên nhân chủ yếu là do đầu cơ, những căng thẳng trên thị trường ngoại tệ trong giai đoạn 6 tháng cuối năm, cũng như cơn sốt giá vàng diễn ra vào giữa tháng 11. Để giải quyết căng thẳng, ngày 25/11, Ngân hàng Nhà nước quyết định điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng từ 17.034 lên 17.961 đồng một USD, thu hẹp mức chênh lệch cho phép đối với tỷ giá tại các ngân hàng thương mại từ 5% xuống 3%. Đây là lần điều chỉnh biên độ tỷ giá thứ hai trong năm của Ngân hàng Nhà nước, sau khi nâng từ mức 3% lên 5% vào tháng 3. Cách giải quyết này rất dễ làm cho giá cả trong nước tăng lên, đồng nghĩa với việc lạm phát cao sẽ tăng theo và khiến cho các doanh nghiệp gặp khó khăn hơn. Kéo theo đó là sự suy giảm sản xuất kinh doanh trong nước. Và lãi suất cũng sẽ được điều chỉnh tăng, dễ gây ra tình trạng kiệt quệ nền kinh tế trong khi không giải quyết được bài toán nào. Do đó, Ngân hàng Nhà nước nên duy trì mức tỷ giá hiện tại là 17.961 đồng đổi một USD trong thời gian dài, để không tạo ra sự nặng nề thêm cho nền kinh tế. Về lâu dài, tùy theo tình hình mà có sự điều chỉnh linh hoạt tiếp theo. Muốn đạt được hiệu quả cao trong hỗ trợ xuất khẩu, cần phải bằng nhiều công cụ, nhiều giải pháp như hỗ trợ trực tiếp cho các đơn vị xuất khẩu, đẩy mạnh xúc tiến thương mại, chiến lược, sản phẩm, chất lượng, vốn, công nghệ và con người. Vấn đề nan giải hiện nay là làm sao phải hạn chế được nhập siêu cao. Muốn vậy, Nhà nước phải dùng giải pháp: hàng rào kỹ thuật, dùng nghiệp vụ trong hệ thống ngân hàng; dùng chính sách hỗ trợ sản xuất trong nước, nhất là sản xuất hàng hóa thay thế hàng nhập khẩu, phải vận động liên tục và hiệu quả chủ trương của Bộ Chính trị kêu gọi người Việt ưu tiên dùng hàng Việt. Và phải ngăn chặn được tình trạng buôn lậu qua biên giới. Có vậy, Việt Nam mới hy vọng giải quyết được bài toán hạn chế nhập siêu và ổn định tỷ giá, chứ không phải chỉ bằng cách tăng tỷ giá USD/VND. Nhiều thời điểm, tỷ giá trên thị trường tự do có độ vênh lớn so với thị trường chính thức đã tạo điều kiện cho hoạt động găm giữ, đầu cơ, lũng đoạn thị trường, làm ảnh hưởng đến thị trường ngoại hối.Ngân hàng Nhà nước đã phải triển khai biện pháp liên kết với Bộ Công an, Bộ Công thương, Tổng Cục an ninh, UBND TP Hà Nội, TP HCM tăng cường kiểm soát hoạt động ngoại tệ, vàng trên thị trường chợ đen, được coi là phương án mạnh tay để trấn tĩnh thị trường. Thời gian tới, cần tăng cường tuyên truyền phổ biến nhiều hơn nữa về phương pháp xử phạt cụ thể để người dân thấy rõ chủ trương và góp phần bình ổn thị trường ngoại tệ. (Ngành tài chính Việt Nam năm 2009 phải đối mặt với nhiều biến động lớn) Ảnh: Hoàng Hà Nhìn lại kinh tế 2009, tác hại của khủng hoảng tài chính trên thế giới là rất nghiêm trọng. Tuy nhiên, hậu quả vẫn thấp hơn rất nhiều so với những dự đoán trước đó. Nhiều người từng nghĩ, cuộc khủng hoảng này sẽ làm tê liệt kinh tế toàn cầu, suy thoái kinh tế thế giới diễn ra trong nhiều năm và có thể còn lớn hơn cuộc khủng hoảng 1929-1933. Nhưng thực tế, đến nay kinh tế đã phục hồi và tăng trưởng. Cụ thể năm 2009 suy thoái, nền kinh tế thế giới bị âm 0,9%, nhưng các dự báo năm 2010 đều có chỉ số tăng trưởng dương 3,1%. Như vậy, kinh tế có thể biến động theo hình chữ V hoặc hình căn bậc hai. Riêng Việt Nam có thể lạc quan trước những thành công đã đạt được. Sự điều hành linh hoạt của Chính phủ từng bước đã ngăn chặn được đà suy giảm kinh tế từ quý II/2009. Quý I, tăng trưởng GDP chỉ 3,1%, quý II đạt 4,2% , quý III lên 5,8% và quý IV vượt lên 6,8%. Như vậy, cả năm 2009, tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt 5,2%. Đây là mức thấp nhất trong 10 năm qua, nhưng nếu đặt trong bối cảnh thế giới toàn cầu đang suy thoái thì tăng trưởng này là một thành công rất lớn. Chỉ số giá tiêu dùng 2009 khoảng 6,5%, tức vẫn đang nằm trong tầm kiểm soát của Chính phủ. Kinh tế thế giới suy thoái, thất nghiệp gia tăng, tổng cầu thế giới suy giảm, thương mại thế giới cũng giảm theo, nhưng tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vẫn đạt 56 tỷ USD. Tuy so với năm 2008 có giảm đi khoảng 10%, nhưng điều này chứng tỏ ngành xuất khẩu vẫn đạt được những thành công nhất định trong năm 2009. Hệ thống ngân hàng Việt Nam 2009 vẫn trong sự an toàn, mặc dù một số nhà băng có biểu hiện thiếu thanh khoản vào cuối năm. Nhưng nếu nhìn vào nước Mỹ năm 2009, toàn hệ thống ngân hàng có đến 140 đơn vị bị phá sản, mới thấy hệ thống ngân hàng Việt Nam đã đạt được những bước tiến đáng khích lệ. Tuy nhiên ngành ngân hàng Việt Nam vẫn không được chủ quan, nhất là đối với chất lượng tín dụng trong năm 2010. Dưới sự chỉ đạo nhanh và linh hoạt của Chính phủ, ngành ngân hàng đã triển khai thành công gói hỗ trợ kích cầu thứ nhất với hình thức hỗ trợ lãi suất 4%, dư nợ hỗ trợ đạt trên 450.000 tỷ đồng, chiếm hơn ¼ dư nợ của toàn hệ thống. Đây là một giải pháp có sự khác biệt so với các nước trên thế giới và mang lại hiệu quả cao cho kinh tế Việt Nam; giúp nhiều doanh nghiệp duy trì được sản xuất kinh doanh, tạo ra công ăn việc làm cho hơn 1,6 triệu lao động trong năm 2009. Dư nợ của toàn bộ hệ thống ngân hàng Việt Nam năm 2009 tăng 38%, trong khi dư nợ 2008 chỉ tăng 22%. Đây là một trong những thành công, vì trong khi đó các nguồn vốn khác bị suy giảm như vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, FDI, ODA và ngay cả vốn kiều hối gửi về cũng giảm. Do đó, vốn tín dụng tăng cao hơn so với dự kiến, trở thành tác nhân quan trọng thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng ở mức 5,2%. Quan hệ đối ngoại của hệ thống ngân hàng Việt Nam trên thương trường quốc tế với Quỹ tiền tệ thế giới (IMF), Ngân hàng thế giới (WB) có những bước tiến đáng kể. Chính điều này đã giúp cho vốn ODA và những cam kết cho ODA vào năm 2010 của Việt Nam ở tỷ lệ rất cao, trên 8 tỷ USD Tuy nhiên, không nên vội vui mừng với những thành công trên, vì bên cạnh đó vẫn có những điểm chưa thực vững chắc.Việt Nam vẫn còn mất cân đối lớn như bội chi ngân sách 2009 khoảng 6,9%, một tỷ lệ rất cao, mặc dù 2010 dự báo sẽ còn khoảng 6,2%. Chính phủ cần phải đưa con số này về dưới 5% thì mới đảm bảo tính an toàn. Thâm hụt cán cân kinh tế vãng lai năm 2009 rất lớn khiến dự trữ ngoại hối bị giảm mạnh. Chính sách tiền tệ của Việt Nam hiện chỉ góp phần kiểm soát lạm phát chứ không thể giải quyết triệt để bài toán lạm phát. Vì lạm phát ở Việt Nam còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác tác động, như giá xăng dầu tăng, khủng hoảng lương thực thế giới làm cho giá lương thực tăng, đầu tư công không hiệu quả, do đầu cơ lũng đoạn giá, do tâm lý, do tin đồn, do điều giá than điện nước theo cơ chế thị trường. Đồng thời, để chính sách lãi suất hiệu quả hơn, phù hợp với quy luật cung cầu, Ngân hàng Nhà nước cần phải tiếp tục thuyết phục Quốc hội bỏ cơ chế lãi suất trần theo lãi suất cơ bản, để tiến tới tự do hóa lãi suất mà nước ta đã làm từ năm 2002. Nếu Quốc hội quyết định vẫn giữ nguyên cơ chế lãi suất cơ bản thì Ngân hàng Trung ương phải có phương án thứ hai, như đưa ra những giải pháp thu phí trong hoạt động tín dụng. Tùy vào từng khách hàng vay khác nhau mà có những mức phí tương thích. Chỉ có cách này mới làm giảm gánh nặng cho lãi suất cơ bản. Hiện nay,Việt Nam nằm trong top những nước có lãi suất cơ bản cao nhất thế giới, chỉ thấp hơn Pakistan,Venezuela... Ngân hàng Nhà nước phải phát huy hiệu quả các công cụ của chính sách tiền tệ: lãi suất chiết khấu, dự trữ bắt buộc, hoạt động nghiệp vụ thị trường mở để điều tiết lãi suất thị trường phù hợp với mục tiêu tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô. Về hoạt động sàn vàng, do chưa có một cơ chế chung trong việc quản lý nên đã để xảy ra những vụ ồn ào gây nhiễu loạn thị trường. Hai phương án xử lý sàn vàng đã được Ngân hàng Nhà nước đệ trình Chính phủ. Thời gian tới, sự lộn xộn này cần sớm được quản lý tập trung theo đúng pháp luật. Về lâu dài có thể tổ chức dưới hình thức Sở giao dịch vàng, giống như Sở giao dịch chứng khoán. Riêng thị trường vàng vật chất, Việt Nam cần phải vận hành một cách trơn tru và liên thông với giá vàng thế giới, hạn chế tối đa việc để xảy ra hiện tượng bong bóng giá, gây rối loạn thị trường tiền tệ. Dù vẫn còn tồn đọng một số khó khăn trên, nhưng với nỗ lực của mình, Việt Nam là một trong những nước sớm nhất vượt qua đáy suy giảm, duy trì được tăng trưởng dương trong suốt năm 2009 với tốc độ hợp lý. 2.3.1. FDI tăng kỷ lục Vượt qua hai thử thách cam go của tình trạng phát triển nóng trong nửa đầu năm và khủng hoảng tài chính toàn cầu nửa cuối năm, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam năm 2008 tiếp tục tăng cao cả số vốn thực hiện và vốn đăng ký cấp mới. FDI cam kết của cả năm 2008 đã đạt con số kỷ lục 64,011 tỷ USD, tăng gấp 3 lần so với năm 2007. Lượng giải ngân của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam lên con số 11,5 tỷ USD, tăng 43,2% so với năm 2007. Riêng 27 dự án có quy mô vốn đầu tư từ 100 triệu USD đã đạt trên 40 tỷ USD, trong đó có một số dự án quy mô vốn từ 3,5-7,8 tỷ USD. Công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong lượng vốn đăng ký, với 572 dự án chiếm 54,12% về vốn đầu tư đăng ký. Trong đó, các dự án thăm dò và khai thác dầu tại Việt Nam thu hút 17,5% tổng vốn FDI. Năm 2008 cũng chứng kiến một loạt dự án thép quy mô lớn vào Việt Nam, và đến nay vẫn còn một vài nhà đầu tư nước ngoài xếp hàng chờ được cấp phép. Lĩnh vực dịch vụ cũng chiếm lượng vốn lớn, 47,3%. Số còn lại thuộc lĩnh vực nông-lâm-ngư. Trong năm 2008, Malaysia lần đầu tiên trở thành nhà đầu tư lớn nhất tại Việt Nam, với 14,9 tỷ USD, nhờ dự án thép liên doanh giữa tập đoàn Lion với Vinashin gần 10 tỷ USD. Tiếp sau là Đài Loan và Nhật Bản. Ninh Thuận và Bà Rịa - Vũng Tàu là 2 tỉnh trong năm 2008 đã thu hút nhiều vốn FDI nhất cả nước Hiện nay, cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu vẫn diễn biến phức tạp và khó lường nên tác động có thể dự báo được đó là số lượng các dự án FDI được phê duyệt sẽ giảm đáng kể trong năm 2009. Luồng vốn thực tế sẽ phụ thuộc rất nhiều vào tỷ lệ giải ngân các dự án hiện đang thực hiện. Vì vậy, để duy trì tốc độ tăng trưởng trong thời điểm hiện nay, các biện pháp tăng tính cạnh tranh của nền kinh tế sẽ cần phải tiếp tục tăng cường. 2.3.2. CPI tăng phi mã Nếu tính sau một năm (tức là tháng 12 năm nay so với năm trước), thì năm 2008 là năm chỉ số giá tiêu dùng (CPI) có tốc độ tăng cao nhất so với 16 năm trước đó (năm 1992 tăng 17,5%, năm 1993 tăng 5,2%, năm 1994 tăng 14,4%, năm 1995 tăng 12,7%, năm 1996 tăng 4,5%, năm 1997 tăng 3,6%, năm 1998 tăng 9,2%, năm 1999 tăng 0,1%, năm 2000 giảm 0,6%, năm 2001 tăng 0,8%, năm 2002 tăng 4%, năm 2003 tăng 3%, năm 2004 tăng 9,5%, năm 2005 tăng 8,4%, năm 2006 tăng 6,6%, năm 2007 tăng12,63%). Nếu tính bình quân năm (tức là bình quân năm nay so với bình quân năm trước), thì CPI năm 2008 cũng là năm có tốc độ tăng cao nhất so với 15 năm trước đó (năm 1993 tăng 8,5%, năm 1994 tăng 9,5%, năm 1995 tăng 17,8%, năm 1996 tăng 5,7%, năm 1997 tăng 3,2%, năm 1998 tăng 7,7%, năm 1999 tăng 4,4%, năm 2000 giảm 1,6%, năm 2001 giảm 0,3%, năm 2002 tăng 3,9%, năm 2003 tăng 3,1%, năm 2004 tăng 7,8%, năm 2005 tăng 8,3%, năm 2006 tăng 7,5%, năm 2007 tăng 8,3%). Tuy nhiên, chỉ số CPI lại giảm liên tục trong 3 tháng cuối năm. Tính chung cả quý 4 CPI đã giảm 1,06% trong khi 3 tháng cùng kỳ năm trước tăng 4,95%. Trước tình hình trên Chính phủ đã có những giải pháp vừa cơ bản, vừa linh hoạt để xử lý. Việc chuyển đổi mục tiêu ưu tiên từ tăng trưởng kinh tế nhanh sang kiềm chế lạm phát, với 8 nhóm giải pháp, trong đó giải pháp hàng đầu là thắt chặt tiền tệ trong những tháng đầu năm, là đúng hướng, kịp thời và đã đạt được kết quả tích cực; sau đó, việc chuyển đổi mục tiêu ưu tiên từ kiềm chế lạm phát sang ngăn chặn sự suy thoái kinh tế với 5 giải pháp cấp bách, trong đó có giải pháp hàng đầu là kích cầu đầu tư, tiêu dùng, là đúng hướng và kịp thời. CHƯƠNG III GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM HIỆN NAY Để mở rộng thị trường tài chính, phát triển đồng bộ các loại thị trường. Để đưa những chủ trương lớn của Đảng và nhà nước sớm đi vào cuộc sống, góp phần phát triển kinh tế đất nước thì cần phải đưa ra những giải pháp phát triển thị trường tài chính hiện nay ở Việt Nam. 3.1. Các giải pháp trên thị trường tiền tệ. Thị trường tiền tệ là một bộ phận của thị trường tài chính, là thị trường vốn ngắn hạn( có thời hạn dưới 1 năm). Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam và luật tổ chức tín dụng (sửa đổi) cho phép giấy tờ có giá trị dài hạn được giao dịch trên thị trường tiền tệ còn giúp cho thị trường tiền tệ đóng vai trò là thị trường thứ cấp của các công cụ nợ dài hạn. Với sự tham gia của Chính phủ, Ngân hàng Trung ương, các trung gian tài chính, thị trường tiền tệ được đánh giá là thị trường có độ an toàn cao và là thị trường buôn bán hữu hiệu.Thị trường tiền tệ được biết đến như là một thị trường phi tập trung, sôi động và mang tính toàn cầu. Các giao dịch trên thị trường tiền tệ thương có thời hạn ngắn và rất ngắn, đặc biệt thị trường cho vay qua đêm rất phát triển và chiếm tỷ trọng đáng kể trong doanh số hoạt động của thị trường tiền tệ. Khởi nguồn từ hoạt động cho vay/ đi vay giữa các ngân hàng, thị trường tiền tệ ngày càng phát triển đa dạng và linh hoạt. Với mục tiêu ban đầu là thị trường để đảm bảo khả năng thanh khoản củ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTaichinh (53).DOC
Tài liệu liên quan