Đề tài Đánh giá thực trạng công viên Thống Nhất

MỤC LỤC

Trang

 

LỜI MỞ ĐẦU 1

PHẦN I - MỘT SỐ KHÁI NIỆM CHUNG 3

1. Định nghĩa công viên. 3

2.Vai trò chức năng của công viên. 3

2.1. Chức năng của công viên. 3

2.2. Vai trò của công viên. 3

PHẦN II - DƯ LUẬN VỀ THỰC TRẠNG 7

CÔNG VIÊN THỐNG NHẤT 7

1. Thực trạng chung công viên Hà Nội. 7

2. Thực trạng công viên Thống Nhất. 10

PHẦN III - ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG 15

CÔNG VIÊN THỐNG NHẤT 15

1. Các câu hỏi nghiên cứu. 15

2. Phương pháp nghiên cứu. 15

3. Kết quả nghiên cứu. 17

3.1. Về diện tích và phân bố không gian của công viên Thống Nhất. 17

3.2. Về vai trò và chức năng của công viên Thống Nhất. 19

3.3. Về cơ sở vật chất của công viên Thống Nhất. 21

3.3.1. Khái quát chung. 21

3.3.2. Cơ sở vật chất phục vụ thể dục thể thao. 23

3.3.3. Cơ sở vật chất phục vụ vui chơi giải trí. 26

3.3.4. Cơ sở vật chất phục vụ nghỉ ngơi thư giãn. 27

3.3.5. Cơ sở vật chất phục vụ học tập. 29

4. Về công tác quản lý công viên. 29

4.1. Vệ sinh môi trường trong công viên. 29

4.2. An ninh trật tự trong công viên. 33

KẾT LUẬN 36

 

 

doc39 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5221 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá thực trạng công viên Thống Nhất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ừa thừa vừa thiếu” (tác giả Ngọc Châu - dothi.net). Công viên Tuổi trẻ, công trình phải mất 20 năm giải toả quy hoạch và có mức đầu tư hơn 18 tỷ nhưng mới chỉ xây dựng được khoảng 30% các hạng mục công trình, cũng chỉ phục vụ thiếu nhi trong những ngày hè và chương trình hoa đăng trong những ngày tết. Ngày thường công viên không hoạt động hoặc hoạt động không hiệu quả. Một khu nhà trong công viên vừa được chuyển chức năng phục vụ vui chơi giải trí thành lớp học - trích dẫn bài của tác giả Trịnh Vũ trong bài “Những góc tối ở công viên Hà Nội” trên vnexpress. Công tác quản lý công viên cũng có nhiều vấn đề. An ninh trật tự tại các công viên yếu kém. Thực trạng này không chỉ diễn ra tại một công viên mà còn là thực trạng chung của các công viên ở Hà Nội. “5h sáng, trên ghế đá, cạnh gốc cây trong công viên Thủ Lệ rất nhiều thanh niên đang ngủ vật vờ. Quanh đó là những ống tiêm, mảnh giấy bạc - dấu tích một đêm mê mệt với nàng tiên nâu. Đây là khu công viên rộng, đẹp lại có nhiều cây xanh nên rất đông người chạy tập thể dục. Tuy nhiên, ai cũng không quên chú ý dưới chân, để tránh những kim tiêm. Là vườn thú duy nhất của miền Bắc nên Thủ Lệ thu hút rất đông khách tham quan, thế nhưng nạn trộm cắp thường xuyên diễn ra ở đây. Vào những ngày cuối tuần, lễ tết, công viên chật cứng khách, cũng là dịp để những tên móc túi hành nghề, người bị mất đồ cũng chẳng biết kêu ai. Và nếu người nào "lỡ" nhìn thấy những tên lưu manh đang rạch túi, lấy đồ của người khác cũng chỉ im lặng và lảng sang chỗ khác vì sợ sẽ bị trả thù. Không những vậy, tối đến quanh hồ Thủ Lệ xuất hiện nhiều quán cóc và bà chủ cũng là người dẫn mối cho gái làng chơi, đồng hành là đám ma cô lượn lờ quanh đó bắt khách. Địa điểm hành nghề mại dâm chính là công viên, mà theo họ vừa "tiện, rẻ, lại thoải mái". Tại một số công viên còn có hiện tượng lừa đảo bằng các hình thức rất tinh vi để lừa lấy tiền của những người cả tin. Lực lượng an ninh thì mỏng, kèm theo tình trạng bán hàng rong tràn lan, công khai trong sự bất lực của lực lưởng bảo vệ. Về mặt vệ sinh môi trường tại các công viên cũng có nhiều điều đáng phải bàn. Thùng rác đặt tại các công viên hoạt động không hiểu quả. Hiện tượng người dân xả rác tại các công viên là tình trạng phổ biến, điều này gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường, đặc biệt là môi trường nước. 2. Thực trạng công viên Thống Nhất. Cũng như các công viên khác, công viên Thống Nhất ở vào thực trạng chung, thiếu diện tích, cơ sở vật chất xuống cấp không thu hút được người dân đặc biệt là lớp trẻ. Tình trạng đông cục bộ vào những giờ cao điểm, hoặc vào các ngày nghỉ lễ cũng diễn ra ở đây. Bên cạnh đó, ở công viên Thống Nhất, thực trạng về vệ sinh, an ninh, an toàn là vấn đề nổi bật. Về mặt vệ sinh Tại công viên Thống Nhất tình trạng mất vệ sinh đang diễn ra hàng ngày. Tuy rằng vẫn có lực lượng lao công làm trong công viên nhưng dường như con số đó chưa đủ so với diện tích của công viên Thống Nhất. Bước chân vào công viên, tình trạng đường đi còn nhiều rác, mặt hồ ô nhiễm nặng nề. Vào những ngày hè nóng nực, đi ven hồ có thể ngửi được mùi tanh của cá và cả mùi rác thải hòa quyện với nhau. Thùng rác trong công viên thì ít mà nhiều cái còn hỏng, cách sắp xếp chưa hợp lý dẫn đến tình trạng sử dụng không hiểu quả gây lãng phí. Một vấn đề cấp thiết khác được nhiêu người phản ánh đó là tình trạng nhà vệ sinh còn quá ít. Cả khuôn viên rộng lớn của công viên Thống Nhất mới đếm được có vài nhà vệ sinh. Số lượng thì ít mà các nhà vệ sinh này lại đặt những vị trí khuất, khó tìm. Với những ai lần đầu vào công viên thì việc đi tìm nhà vệ sinh thật khó khăn. Số lượng ít lại không có biển chỉ dẫn họ phải rất vất vả mới tìm được nhà vệ sinh. Trích dẫn trong bài “Các công viên ở Hà Nội đang SOS” của tác giả An Thanh Lương trên trang web vietbao.vn cho hay: “ Tại đảo tròn nơi được coi là đẹp nhất công viên này, các hàng cây trơ trụi lá, thảm cỏ xanh biến mất, thay vào đó người ta làm một cái nhà chứa đồ nghề của người làm vườn vừa xấu, vừa vô lí làm phá vỡ hết cảnh đẹp của hòn đảo. An ninh trật tự Công viên Thống Nhất cũng trở thành bãi đắp cho dân nghiện hút. Chúng thường tụ tập vào đây để chích, hít thuốc. Có những hôm con nghiện bị sốc thuốc nằm sùi bọt mép trên cỏ. Kim tiêm vứt lỏng chỏng khắp nơi. Một công nhân dọn vệ sinh cho biết: “Sáng nào chúng tôi cũng gom cả túi nilon kim tiêm lớn, ai cũng sợ bị đâm vào tay mà lây bệnh truyền nhiễm…”. Những tên bán lẻ hàng trắng cũng chọn khu vui chơi này để họp chợ và cảnh mua bán thì diễn ra công khai. Tuấn, một con nghiện ở ngõ Cống Trắng, phố Khâm Thiên, hầu như ngày nào cũng có mặt ở đây. Gia đình sau nhiều lần cho anh ta đi cai nghiện không được đã cấm cửa. Vào đây Tuấn vừa có chỗ ngủ, lại dễ dàng mua hàng, chích thuốc không sợ bị ai dòm ngó. Anh Nguyễn Thanh Sơn, Tổ trưởng bảo vệ Công viên Thống Nhất, cho biết: "Chúng tôi không thể kiểm soát xuể, dẹp góc này chúng dạt sang góc khác. Bảo vệ được trang bị gậy, dùi cui nhưng không được phép đánh người. Đuổi mãi con nghiện khùng lên cầm xylanh doạ đâm, ai cũng sợ vì chẳng biết chúng có nhiễm HIV thật không. Hơn nữa kinh phí đầu tư cho an ninh chủ yếu trông chờ vào vé cửa, nhưng giá vé lại luôn phải đảm bảo thấp nhất để phục vụ cộng đồng nên luôn eo hẹp". Trên hai đảo của công viên Lê Nin, từ sáng cho đến tối lúc nào cũng là điểm hẹn của những đôi trai gái, họ tự tình một cách thoải mái, thậm chí còn ân ái giữa trời mặc cho những đôi mắt tò mò xung quanh. Nhiều đám học sinh tan trường định vào đây chơi đều phải bỏ chạy vì cảm thấy quá ngượng. Em Lan, học sinh trường THCS Đống Đa, nói: "Hôm ấy bọn em định lên đảo chơi cho mát nhưng thấy toàn cặp ngồi hôn hít, có đôi còn làm những việc ghê hơn nữa khiến đứa nào cũng đỏ hết cả mặt. Từ đó không bao giờ bọn em ra đấy nữa". trích dẫn bài của tác giả Trịnh Vũ trong bài “Những góc tối ở công viên Hà Nội” trên vnexpres An toàn cho những người ở trong công viên Nội quy công viên rõ ràng có khoản mục nhưng không hiểu sao vẫn có rất nhiều người phóng xe trong công viên như chỗ không người. Những người đi bộ phải đi lép vào hè để tránh những chiếc xe có thể đâm vào họ bất cứ lúc nào. Ai cũng biết công viên Thống Nhất có hồ Bảy Mẫu rất đẹp nhưng nó lại không có hàng lang an toàn cho mọi người. Với những trẻ nhỏ vào trong công viên thì với sự tò mò của chúng thì rất có thể sẽ ngã xuống hồ nếu không có sự chú ý của người lớn. Không thiếu những góc của công viên còn đầy xilanh của những tên nghiện vào đây để chích. Ai đi cũng phải cảnh giác vì sao biết đuợc chuyện gì xảy ra khi dẫm phải. Có người dân còn phản ánh, buổi tối tại công viên, khi có những đôi trai gái vào đây nói chuyện tâm sự thì có tình trạng dọa nạt xin đểu. Thực trạng của công viên Thống Nhất cũng như thực trạng của nhiều công viên khác ở Hà Nội đó là tình trạng xuống cấp, bỏ phí hay lấn chiếm sử dụng sai mục đích phục vụ cộng đồng của công viên. Đặc biệt hiện nay dư luận đang rất quan tâm tới dự án biến công viên thành một Disney Land với nhiều ý kiến trái ngược của người dân, chuyên gia và cả sự đóng góp ý kiến của những người nước ngoài yêu quí Hà Nội. Bài báo“Các công viên ở Hà Nội đang SOS” của tác giả An Thanh Lương trên trang web vietbao.vn đưa ra một vài con số để so sánh. “Quanh khu vực Hồ Bảy Mẫu có khoảng 5000 cụ già hưu trí sinh sống, hàng ngày có khoảng 1000 cụ tham gia tập thể dục trong công viên. Trong khi đó Hà Nội có hơn một triệu trẻ em cần nơi vui chơi mà không có chỗ. Chúng ta nói “Trẻ em là tương lai của thế giới” vậy mà chúng ta đã hy sinh quyền lợi của trẻ em để phục vụ một thiểu số người già liệu có thỏa đáng. Như ý kiến đóng góp của KTS Trần Thanh Vân “Bởi nếu Disneyland và các nhà hàng, trung tâm thương mại, sân khấu mà xuất hiện sẽ không khác gì đại họa đối với Công viên Thống Nhất  thanh bình này! “ Bài viết của tác giả Hoàng Huy trên vietnamnet.vn Sau đây chúng tôi xin trích dẫn ý kiến của 2 người nước ngoài tâm huyết với Hà Nội đó là ông Michael Digregorio PH.D, cán bộ chương trình Quỹ Ford và bà Giám đốc vùng Quỹ HeathBridge (Canada) Debra Efroymson.Trích dẫn của bài viết “Đất NewYork đắt hơn đất Hà Nội nhưng Mỹ vẫn giữ công viên” của tác giả Tràng An Nguyễn trên vietnamnet.vn Ông Michael Digregrio PH.D cho hay “Mặt tiền công viên trở thành trụ sở nhiều công ty, điểm rửa xe, bán xăng, quán bia, phòng tập thể hình... 47 năm qua, công viên đã mất đi rất nhiều diện tích so với ban đầu vào những mục đích phi công cộng. Việc thay đổi mục đích sử dụng đất công cộng có thể có những "lý do chính đáng" vào thời điểm ngắn hạn nhưng lại để lại hậu họa lâu dài. Nếu tiếp tục tư duy theo kiểu đó thì chỉ một thời gian ngắn nữa Hà Nội của các bạn sẽ không còn công viên!". còn đối với bà Debra Efroymson nói về tầm quan trọng của không gian xanh thì cho biết :“Trên khắp thế giới hiện nay, các thành phố đang tiến hành tất cả những gì có thể để gây dựng, bảo tồn và nâng cấp chất lượng những không gian công cộng của họ. Người dân nhiều nơi khi nói về thành phố mình ở đều tự hào nhắc đến những công viên xinh đẹp "không của ai cả". Ở Copenhagen (Đan Mạch), trong vòng 40 năm qua, chính quyền thành phố đã phá bỏ nhiều bãi đậu xe để dành diện tích đất làm không gian công cộng cho cư dân thành phố và du khách có chỗ nghỉ ngơi, giao tiếp với nhau. Trung tâm thành phố Boston (Mỹ) có nhiều bồn phun nước với cây xanh bao quanh để dân thư giãn mát mẻ trong hè oi bức”. Ý kiến của các chuyên gia đầu ngành của Việt Nam trên vietnamnet.vn thì cho rằng: “Phát triển không gian xanh chưa gắn kết hợp lý giữa xây dựng mới và cải tạo khai thác quĩ công viên hiện có, nhất là nội thành. Ví dụ: Công viên Thống Nhất đã bị xây xen các công trình Rạp Xiếc, khách sạn SAS, văn phòng, khu nhà ở… Và bây giờ vẫn đang diễn ra nhiều bất cập trong khai thác quĩ đất hiện có, trong phương thức quản lý cũng như huy động vốn đầu tư xây dựng –nên quĩ đất dành cho phúc lợi công cộng ngày càng hạn hẹp” trích TS.KTS Đào Ngọc Nghiêm- Phó chủ tịch Hội quy hoạch phát triển Hà Nội, nguyên Giám đốc Sở quy hoạch kiến trúc Hà Nội. Hay như KTS Phạm Thanh Tùng - Phó Tổng biên tập báo xây dựng thì cho rằng từ khi mới hình thành công viên năm 1960 đến nay, công viên Thống Nhất và Hà Nội nói chung đã mất quá nhiều cây xanh, mặt nước- hậu quả của tầm nhìn hẹp, cách quản lý duy ý chí của các cấp chính quyền. PHẦN III - ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CÔNG VIÊN THỐNG NHẤT 1. Các câu hỏi nghiên cứu. Xuất phát từ thực trạng công viên Hà Nội nói chung và của công viên Thống Nhất nói riêng đã đặt ra cho nhóm nghiên cứu một số câu hỏi: Thứ nhất, diện tích và phân bố không gian công viên Thống Nhất đã hợp lý chưa? Thứ hai, công viên đã phát huy hết các vai trò hay chưa, đã phục vụ hiệu quả cho nhu cầu của người dân chưa? Thứ ba, cơ sở vật chất của công viên Thống Nhất có đáp ứng được yêu cầu của nhân dân, có thu hút họ đến công viên hay không? Thứ tư, công tác quản lý các công viên có hợp lý hay không? Thứ năm, công viên Thống Nhất mới chỉ phục vụ cho những người dân xung quanh hay là còn phục vụ cho cả những người ở xa công viên? 2. Phương pháp nghiên cứu. Để trả lời các câu hỏi trên, nhóm nghiên cứu đã trực tiếp tới công viên Thống Nhất tiến hành khảo sát. Đếm số người vào, ra công viên tại tất cả các cổng từ 4h- sau 19h: Số người hiện đang sử dụng công viên = số người hiện có trong công viên + số người vào công viên – số người ra công viên. Chốt tại các khoảng thời gian khác nhau để đánh giá thời gian phục vụ của công viên, xem xét khoảng thời gian nào có nhiều người vào, khoảng thời gian nào có ít người vào. Vẽ biểu đồ sử dụng công viên để phân tích. Phát phiếu điều tra để đánh giá vai trò, chức năng phục vụ của công viên: phân công đứng tại các cổng, phát phiếu cho người đi ra công viên, cứ 10 ra thì phát 1 phiếu để đảm bảo tính chất ngẫu nhiên. Tất cả có 1000 phiếu điều tra được phát ra từ 4h-22h thu về được 756 phiếu, xác suất là 75,6%. Như vậy, có thể khẳng định phiếu thăm dò ý kiến đã đạt yêu cầu, người dân đã hiểu được các câu hỏi trong phiếu. Từ các số liệu thu thập được, kết hợp với các biểu đồ để đánh giá toàn diện chất lượng phục vụ của công viên. Tuy nhiên, có hai câu hỏi là: “Cơ sở vật chất phục vụ vui chơi giải trí” chỉ có 38,5% người được hỏi trả lời là vì mục đích của họ đến công viên chỉ là thể dục thể thao nên họ không quan tâm đến cơ sở vật chất phục vụ vui chơi giải trí. “Cơ sở vật chất phục vụ học tập” chỉ có 2,88% người được hỏi trả lời là vì họ không hiểu mục đích học tập khi đến công viên là như thế nào. Trong quá trình điều tra, chúng tôi đã gặp một số khó khăn. Khoảng thời gian chúng tôi tiến hành phát phiếu là những ngày rét. Điều đó ảnh hưởng phần nào đến kết quả nghiên cứu. Do đó, trong công tác nghiên cứu chúng tôi đã loại bỏ yếu tố mùa và thời tiết. Do lực lượng tham gia nghiên cứu ít, thời gian và tiền bạc có hạn, cho nên chúng tôi vẫn chưa giải quyết được một câu hỏi lớn “Công viên Thống Nhất mới chỉ phục vụ cho những người dân xung quanh hay là còn phục vụ cho cả những người ở xa công viên?”. Không những thế, nếu giải quyết được vấn đề này tại các công viên vườn hoa khác ở Hà Nội thì chúng tôi còn có thể trả lời được một câu hỏi lớn hơn: “Phân bố không gian của các công viên vườn hoa ở Hà Nội đã hợp lí chưa?”. Bỏ qua những khó khăn trên, chúng tôi đã thu được một số kết quả khả quan. 3. Kết quả nghiên cứu. 3.1. Về diện tích và phân bố không gian của công viên Thống Nhất. Theo điều tra của nhóm nghiên cứu, diện tích công viên Thống Nhất 27,8 ha mặt đất và 21ha mặt nước. Trên mặt hồ có hai đảo nhỏ, diện tích 1,2ha. Nói chung, với diện tích như vậy, công viên Thống Nhất vẫn còn khá nhỏ chưa xứng tầm một công viên lớn của thủ đô. Hình 1 – Vị trí công viên Thống Nhất tại Hà Nội Chúng ta có thể thấy rõ điều đó ở bản đồ trên. Phần diện tích của công viên so với toàn diện tích Hà Nội (chưa xét đến quy hoạch mở rộng không gian Hà Nội về phía Tây) chiếm tỷ lệ quá nhỏ, khoảng chưa đến 0.3/1000 trong khi ở Luân Đôn, chỉ tính riêng công viên Regent Park đã chiếm 1/1000 tổng diện tích Luân Đôn. Phân bố không gian của công viên cũng chưa thật sự hợp lý. Chúng ta có thể thấy rõ điều này trên bản đồ dưới đây. Hình 2 - Bản đồ công viên Thống Nhất Ở đây, ta có thể thấy rõ khu diện tích giáp với đường Trần Nhân Tông tập trung mật độ dày đặc các công trình trên một diện tích đất hẹp. Điều đó có thể thuận lợi cho người sử dụng khi các công trình được đặt gần nhau nhưng sẽ gây ra hiện tượng quá tải khi mật độ người sử dụng quá đông đặc biệt là vào các dịp nghỉ lễ, nghỉ tết khi mà nhu cầu đến công viên vui chơi, nghỉ ngơi, thư giãn của người dân tăng cao. Trong khi đó, phần diện tích mặt nước chiếm phần lớn trong tổng diện tích công viên lại hầu như không có gì. Đó là một sự lãng phí không gian bởi vì chúng ta có thể xây khá nhiều công trình vui chơi mặt nước, các nhà chòi ngắm cảnh, nhà chòi câu cá… xung quang hồ để vừa thu hút thêm người sử dụng, vừa giúp tránh việc tập trung quá đông các công trình lại một chỗ trên phần diện tích đất nhỏ hẹp. 3.2. Về vai trò và chức năng của công viên Thống Nhất. Trung bình một ngày có khoảng 14000 người đến công viên, trong đó đa phần nhằm mục đích tập thể dục thể thao. Hình 3 - Mục đích đến công viên của người dân Như vậy, ta có thể thấy rõ ngoài chức năng phục vụ cho nhu cầu tập thể dục thể thao của nhân dân, các chức năng khác của công viên như phục vụ nhu cầu nghỉ ngơi thư giãn, vui chơi giải trí… hầu như không thể hiện vì có quá ít người sử dụng, thậm chí không có ai sử dụng công viên vì mục đích học tập. Mặt khác, trong một ngày, lượng người sử dụng công viên vào các khoảng thời gian cũng rất chênh lệch. Người dân chủ yếu sử dụng công viên vào buổi sáng từ trước 7h và buổi chiều từ 17h-19h phù hợp với mục đích chính của họ là đi tập thể dục thể thao. Đó cũng là khoảng thời gian thuận lợi cho các hoạt động này, tốt cho sức khỏe của người tập và không ảnh hưởng tới thời gian làm việc hằng ngày. Các giờ khác, số lượng người sử dụng công viên là không đáng kể. Hình 4 - Biểu đồ về số người sử dụng công viên ở các thời điểm khác nhau Sự quá khác biệt về lượng người sử dụng công viên ở các khoảng thời gian khác nhau như vậy sẽ dẫn đến tình trạng quá tải cục bộ tại những giờ cao điểm (sáng sớm và chiều tối) trong khi vào các giờ khác lại thường xuyên vắng khách. Điều đó cho thấy các chức năng của công viên không được sử dụng hết. Hơn nữa, đa phần những người đến công viên để tập thể dục thể thao đi khá thường xuyên. Hình 5 - Tần suất đến công viên của người dân 83% số người đến công viên vì mục đích tập thể dục thể thao tương ứng với 74% số người đến công viên hằng ngày, khiến cho hiện tượng quá tải cục bộ vào các giờ cao điểm diễn ra hằng ngày. Điều đó cho thấy chỉ có một chức năng của công viên là thường xuyên được sử dụng còn các chức năng khác hầu như không thể hiện. Và nếu cứ tiếp diễn như thế thì vai trò của công viên Thống Nhất, một trong những công viên lớn của thủ đô, có lịch sử lâu đời sẽ chỉ còn là một sân tập thể thao chứ không phải là một công viên đúng nghĩa. Nguyên nhân hiện tượng này có thể do trình độ hiểu biết của nhân dân vẫn còn hạn chế, họ chỉ biết đến công viên như là một khu đất công cộng không khác gì những khoảng đất trống của khu tập thể hay một vườn hoa công cộng nào đó. Trong khi đó, công viên không chỉ có một chức năng là khu đất phục vụ cho hoạt động thể dục thể thao của người dân, nó còn là nơi cung cấp các dịch vụ nghỉ ngơi thư giãn, vui chơi giải trí lành mạnh, là không gian sinh hoạt chung của tất cả mọi người không phân biệt tầng lớp, là không gian xanh với phong cảnh đẹp giúp tăng mỹ quan đô thị, là lá phổi xanh của thành phố và cũng là một công trình văn hóa lịch sử có giá trị của thành phố. Một nguyên nhân khác cũng có thể gây ra hiện tượng này đó là do công tác quản lý của công viên còn yếu kém, cơ sở vật chất của công viên không đáp ứng được các mục đích khác của nhân dân ngoài việc đến công viên để tận dụng không gian tập thể dục thể thao. 3.3. Về cơ sở vật chất của công viên Thống Nhất. 3.3.1. Khái quát chung. Nhìn chung, hiện trạng cơ sở vật chất của công viên Thống Nhất đã và đang xuống cấp do sự thiếu ý thức của người dân, do thiếu kinh phí để cải tạo sửa chữa, do sự quy hoạch cơ sở hạ tầng không hợp lí. Cơ sở vật chất Tổng số Cũ, xuống cấp Hỏng Số lượng ghế đá 220 82 02 Số lượng thùng rác 37 17 0 Cột đèn 239 67 19 Công trình vệ sinh công cộng 04 03 0 Chòi trú mưa 02 0 0 Công trình vui chơi giải trí 20 15 0 Dụng cụ tập thể dục thể thao 03 03 0 Đèn chiếu sáng quanh hồ 83 13 07 Bãi để xe 6 - - Bảng thống kê cơ sở vật chất của công viên Hơn nữa về mặt số lượng, các công trình này cũng chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng của người dân. Điển hình là: như số ghế đá trong công viên. Hình 6 – Mức độ phục vụ của ghế đá công viên tại các thời điểm Ta thấy, tại những giờ cao điểm, 1 ghế đã phải phục vụ cho khoảng 4-5 người, trong khi công suất của ghế đá tối đa chỉ là từ 2-3 người. Với số lượng và chất lượng như vậy thì khó có thể đáp ứng được mong muốn của người sử dụng công viên. Mà cụ thể chúng tôi sẽ giải thích ở phần sau. 3.3.2. Cơ sở vật chất phục vụ thể dục thể thao. Như phân tích ở trên chức năng chủ yếu hiện tại của công viên Thống Nhất là phục vụ cho mục đích thể dục thể thao của người dân: Đa số người dân được hỏi họ đều trả lời đến công viên hằng ngày và để tập thể dục thể thao. Tuy nhiên cơ sở vật chất để phục vụ cho mục đích này hiện tại ra sao? Để trả lời cho câu hỏi đó, nhóm nghiên cứu đã tiến hành khảo sát thực tế, hỏi ý kiến của người dân và đã thu được một số kết quả được thể hiện trên biểu đồ sau: Hình 7-Cơ sở vật chất phục vụ thể dục thể thao Qua biểu đồ trên ta có thể dễ dàng thấy được một cách khái quát về chất lượng cơ sở vật chất phục vụ cho việc thể dục thể thao hàng ngày của người dân. Đa số các ý kiến được hỏi đều cho rằng chất lượng các công trình phục vụ cho hoạt động thể dục thể thao ở mức độ trung bình, kém và rất kém, chiếm đến 85%, chỉ có 14% ý kiến cho rằng tốt và đặc biệt là chỉ có duy nhất 1% số ý kiến cho rằng chất lượng phục vụ là rất tốt. Nhóm nghiên cứu cũng đã tiến hành khảo sát tất cả các dụng cụ và công trình phục vụ cho mục đích thể dục thể thao. Kết quả thu được là : trong công viên mới chỉ có một đường chạy vòng quanh hồ, một số đường chạy nhỏ, tuy nhiên những đường chạy này lại trùng với đường đi bộ của người dân, điều đó đôi khi cũng gây khó khăn cho việc tập thể dục thể thao, hơn nữa chất lượng của các đường chạy này cũng không thật sự tốt, đường chạy trong công viên quá xấu, gồ ghề, hệ thống thoát nước kém, nên khi trời mưa thì thường bị ngập lụt. Hình 8 – Đường đi trong công viên Ngoài ra công viên còn có một số khu vực để phục vụ cho hoạt động tập thể dục nhịp điệu của chị em phụ nữ, tuy vậy diện tích của các khu này cũng rất nhỏ, không thể phục vụ được nhiều người tập cùng lúc; trong công viên còn có rất nhiều các sân chơi cầu lông, tuy nhiên điều đáng nói là đa số các sân này lại nằm ngay trên đường đi, điều đó gây cản trở cho việc đi lại của người dân, có nhiều lúc còn xảy ra va chạm giữa những người chơi và người đi bộ, gây nên sự mất an toàn. Đối với nam giới, dụng cụ tập thể thao cho họ duy nhất chỉ là mấy chiếc xà đơn, số lượng rất hạn chế mà lại còn khá cũ, không thể đáp ứng và phục vụ tốt cho nhu cầu của phái mạnh được. Hình 9 – Khu vực tập xà Như vậy, qua phân tích ở trên ta có thể thấy rằng cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động thể dục thể thao của người dân còn hết sức sơ sài, thiếu cả về số lượng và chất lượng. Điều đó cũng cho thấy chức năng phục vụ thể dục thể thao là chưa tốt, công viên cần điều chỉnh và xem xét lại chức năng này để phục vụ tốt hơn cho người dân. Cụ thể, công viên cần tu bổ, cải tạo, sửa chữa hoặc xây mới các con đường; cần tách đường chạy với đường của người đi bộ; công viên nên xây dựng các khu vực tập thể dục thể thao riêng biệt như khu cho người chơi cầu lông, khu tập thể dục nhịp điệu, hay khu tập cho phái mạnh. Diện tích của các khu cũng cần được mở rộng do nhu cầu tập của người dân ngày càng tăng. Đặc biệt là công viên cần mua mới và lắp đặt nhiều thiết bị dụng cụ phục vụ cho việc tập thể dục thể thao hơn nữa, hiện nay số lượng các dụng cụ này là rất thiếu, mới chỉ đáp ứng được một phần rất nhỏ nhu cầu của người dân; hiện nay đã quá tải, về dài hạn chắc chắn là sẽ rất thiếu. 3.3.3. Cơ sở vật chất phục vụ vui chơi giải trí. Trong quá trình đô thị hóa hiện nay, Hà Nội ngày càng trở nên quá tải về mọi mặt. Để tìm được một nơi vui chơi giải trí là rất khó khăn. Vì thế có được những khu vui chơi công cộng như là công viên Thống Nhất là rất quý giá. Nhưng liệu cơ sở vật chất của công viên đã đáp ứng được nhu cầu của người dân hay chưa? Qua điều tra thì đa số ý kiến người dân cho rằng cơ sở vật chất phục vụ vui chơi giải trí là kém(45%) và rất kém (10%), 26%số ý kiến cho rằng là trung bình. Còn lại một phần nhỏ ý kiến cho rằng là tốt chiếm khoảng 19%. Hình 10 - Cơ sở vật chất phục vụ vui chơi giải trí Thật vậy, cơ sở vật chất còn rất sơ sài, cũ kĩ, ít về số lượng, kém về chất lượng, chưa thể đáp ứng được nhu cầu của người dân đang ngày càng đòi hỏi cao hơn. Thực tế công viên có khoảng 20 cơ sở vật chất phục vụ vui chơi giải trí. Trong số đó thì chỉ có 5 cơ sở vật chất phục vụ vui chơi đạt tiêu chuẩn quốc tế do UNICEF tài trợ mới được xây dựng. Các công trình còn lại đa số đã cũ, tính hấp dẫn cũng giảm sút nhiều, do đó không thể thu hút được sự chú ý của nhân dân, nhất là với giới trẻ đặc biệt là với đối tượng trẻ em. Ngày nay, phần lớn trẻ em đến công viên Thống Nhất cũng không phải là vì mục đích vui chơi giải trí nữa mà chỉ đi theo bố mẹ ông bà tập thể dục. Hình 11 – Công trình đạt tiêu chuẩn quốc tế do UNICEF tài trợ 3.3.4. Cơ sở vật chất phục vụ nghỉ ngơi thư giãn. Sau những buổi làm việc vất vả, những giờ lên lớp căng thẳng … trong thời đoạn xã hội đang có bước chuyển mình mạnh mẽ như hiện nay, rất nhiều người mong muốn có một không gian xanh để cân bằng trạng thái tinh thần của mình. Vì vậy họ đã chọn đến công viên để được đi dạo, ngắm cảnh, câu cá, hít thở không khí trong lành… Nhưng khi được hỏi thì đa số ý kiến của người dân cho rằng cơ sở vật chất phục vụ nghỉ ngơi thư giãn chỉ ở mức trung bình và kém, thậm chí là rất kém. Chỉ có khoảng 22% trong số đó cho rằng là tốt. Hình 12 - Cơ sở vật chất phục vụ nghỉ ngơi thư giãn Thực tế nhận định trên của người dân là hoàn toàn khách quan bởi qua điều tra thực tế thì: Số lượng ghế đá trong công viên là quá ít, chỉ có khoảng 220 ghế đá và chất lượng thì không tốt lắm, một số ghế bị gãy, hỏng. Đèn chiếu sáng của công viên có khoảng 240 cột đèn, khoảng 85 đèn chiếu sáng quanh hồ, tuy nhiên có nhiều cái bị vỡ, hỏng, cháy… mà chưa được thay thay thế, sửa chữa; Đường đi dạo thì mấp mô, gồ ghề… Hình 13 – Ghế đá hỏng trong công viên Hình 14 – Cột đèn không hoạt động trong công viên 3.3.5. Cơ sở vật chất phục vụ học tập. Theo khảo sát của nhóm nghiên cứu thì chức năng phục vụ học tập của công viên hầu như chưa có gì, trong 1000 phiếu mà nhóm nghiên cứu phát ra chỉ có 21 phiếu trả lời về chức năng này của công viên. Câu hỏi đặt ra là tại sao lại có quá ít người trả lời câu hỏi đ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33068.doc
Tài liệu liên quan