Đề tài Đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại hiện nay

 

Lời nói đầu

A- Nội dung

Phần I: Những vấn đề cơ bản về hoạt động của các Ngân hàng Thương Mại

I. Khái niệm, đặc trưng, vai trò, chức năng của các Ngân hàng Thương Mại

1. Khái niệm

2. Đặc trưng của Ngân hàng Thương Mại Việt Nam theo Luật của các tổ

chức tín dụng

3. Vai trò, chức năng của Ngân hàng Thương Mại

II. Hoạt động tín dụng

1. Tín dụng Ngân hàng-sự ra đời và phát triển

2. Chức năng của tín dụng

3. Đặc điểm của tín dụng Ngân hàng Thương Mại

4. Các vấn đề cơ bản của tín dụng Ngân hàng

5. Tầm quan trọng của tín dụng Ngân hàng trong sự phát triển kinh tế

Phần II: Thực trạng về hoạt động tín dụng của Ngân hàng Thương Mại Việt Nam hiện nay

I- Những vấn đề chung

II- Thực trạng

1. Những kết quả đạt được

2. Nguyên nhân dẫn đến chất lượng tín dụng giảm

3. Những chỉ tiêu đánh giá rủi ro

4. Những chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng Ngân hàng Thương Mại

Phần III- Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ở các Ngân hàng Thương Mại

1. Tăng cường chất lượng công tác tín dụng

2. Tiến hành phân loại đội ngũ các bộ

3. Nâng cao chất lượng công tác tín dụng

4. Tăng cường hơn nữa công tác giám sát tiền vay

5. Trích lập quỹ bù đắp rủi ro

6. Nâng cao chất lượng tín dụng nhân sự và chuyên môn hoá cán bộ tín dụng

7. Nâng cao chất lượng thông tin tín dụng

B- Một số kiến nghị

C Kết luận

D Tài liệu tham khảo

 

 

doc30 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1221 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y khói. Một trong những vấn đề nữa là trong các DNNN có nhu cầu gần như vô hạn đối với vốn vay ngân hàng, buộc các NHTM phải cho vay quá mức so với vốn tự có của doanh nghiệp. Các NHTM bị đẩy vào tình thế “ tiến thoấi lưỡng nan” nếu không cho vay thì dư nợ quá hạn thậm chí mất khả năng chi trả càng tăng trong khi ngân hàng không đảm bảo về mặt pháp lý. Việc xử lý đối với các khoản nợ qúa hạn của các DNNN, doanh nghiệp kinh tế, Đảng ,đoàn thể, tổ chức kinh tế tập thể đang tồn đọng tại các tổ chức tín dụng. Các khoản nợ tại các tổ chức tín dụng hầu như không được các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và cơ quan chủ quản quan tâm trả nợ. Đối với các trường hợp này, đơn vị có nợ và cơ quan chủ quản xem việc “xù nợ” tại các tổ chức tín dụng là điều hiển nhiên. Hiện tượng khá phổ biến mà bất cứ ai có một chút quan tâm đến hoạt động ngân hàng đều có thể nhận thấy rằng: thời gian qua, có không ít DNNN làm ăn thua lỗ, phá sản được các cơ quan chủ quản ( Bộ, ngành, tỉnh ) ra quyết định giải thể, sau thành lập đơn vị mới ( với bộ máy nhân sự, cơ sở vật chất kĩ thuật của đơn vị vừa giải thể ) để “xù” các khoản nợ của tổ chức tín dụng này và tiếp tục quan hệ với các tổ chức tín dụng khác. Không riêng gì DNNN mà ngay cả đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng vậy. Trong thời gian qua các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã được thành lập một cách ồ ạt, mở rộng quy mô lớn song lại tách rời với khả năng tài chính.Một thực trạng đáng lo ngại là ngoài sự yếu kém về trình độ công nghệ, trình độ quản lý các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay đang quá ít vốn và thực tế cho biết không ít trường họp doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoàn toàn không có vốn để hoạt động kinh doanh, nhiều doanh nghiệp ra đời bằng “vốn ảo”, vì vậy hoạt động sản xuất của các DNNQD chủ yếu bằng vốn vay hoặc vốn chiếm dụng. `Thực trạng tài chính của các doanh nghiệp như trên đã này sinh tình trạng tỉ lệ vay vốn của các doanh nghiệp cao hơn gấp nhiều so với vốn tự có.Mà hoạt động tín dụng bắt đầu từ sản xuất kinh doanh gắn bó với việc chu chuyển đồng vốn và quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá, phục vụ cho đời sống của nhân dân. Hay nói cách khác, hoạt động tín dụng bắt đầu từ nội dung hoạt động của các doanh nghiệp, đơn vị sản xuất lưu thông. Có “cầu” thì mới có “ cung”.Cầu đúng đắn, chính đáng thì cung mới đảm bảo và phát huy tác dụng.Các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ đã làm cho rủi ro trong tín dụng là điều không thể tránh khỏi. Để nâng cao chất lượng thì việc chấn chỉnh hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, hay cụ thể là bắt đầu từ chấn chỉnh chế độ tài chính của các doanh nghiệp cho dù ngân hàng có đề ra kiểm soát trước, trong và sau khi cho vay nhưng thực tế ngân hàng làm sao kiểm soát nổi? Bởi lẽ hoạt động kinh tế tài chính muôn hình vạn trạng, hơn nữa doanh nghiệp sản xuất kinh doanh với ngân hàng lại là bình đẳng, thậm chí khách hàng còn là thượng đế của ngân hàng.Khi có sự kiểm soát thì sự việc đã diễn ra rồi. Trên thực tế, khoảng cách giưã người cho vay và khách hàng còn xa, không có nghiệp vụ tín dụng gắn liền với mối quan hệ thường xuyên giữa ngân hàng và khách hàng. Vấn đề thông tin và nắm bắt tình hình biến đổi kinh tế xã hội tác động đến khách hàng còn chậm, không đầy đủ và xử lí chưa triệt để. Doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, ngân hàng có sẵn sàng tiếp thêm vốn cho doanh nghiệp để “vượt cạn” không ? .Đây là câu hỏi mà ngân hàng cần cân nhắc kỹ lưỡng. Nếu tiếp thêm vốn thì mất thêm vốn thì sao.Đấy là một chi phí cơ hội mà ngân hàng cần xem xét, đánh giá cẩn thận trước khi quyết định cho vay tiếp hay thôi. Sự tồn tại và phát triển của khách hàng quyết định sự tồn tại và phát triển của bản thân NHTM. Ngân hàng có thể tìm biện pháp như thương lượng, gia hạn nợ, giảm nợ... để giúp doanh nghiệp vượt qua giai đoạn khó khăn, tránh cho mình được rủi ro. Những khó khăn mắc phải trong hoạt động tín dụng. Về nguyên tắc cho vay, phải có tài sản đảm bảo có thể là tín chấp hoặc thế chấp tài sản. Về tín chấp, ngân hàng phải xét uy tín, khả năng chi trả của ngân hàng, hoặc uy tín bảo lãnh cho khách hàng đó. Nếu như xem xét khách hàng có đầy đủ uy tín thì có thể cho vay tín chấp.Trong bài viết của tác giả Mai Anh (chi nhánh ngân hàng và phát triển nông thôn Thăng Bình –Quảng Nam): “thu thập thông tin khi thẩm định cho vay cá nhân và hộ gia đình: khâu quan trọng không thể bỏ qua” có đoạn viết rằng: một khi không biết chắc chắn rằng khách hàng sẽ sử dụng vốn vào mục đích gì thì tuyệt đối không cho vay mặc dù khách hàng có tài sản thế chấp...cán bộ tín dụng cần cảnh giác với nhóm đối tượng tìm mọi cách để vay bằng được vốn ngân hàng, nhóm khách hàng này thường đang sắp phá sản, cần vốn để cứu nguy khẩn cấp. Vì vây, họ dùng mọi thủ đoạn từ việc năn nỉ đến quà cáp, biếu xén, hối lộ cán bộ tín dụng, những việc mà khách hàng có lòng tự trọng không bao giờ làm, miễn sao vay được nhiều vốn càng tốt”. Đây là một rủi ro đạo đức do khách hàng gây nên. Chúng ta không nên coi trọng quá vấn đề tín chấp hay tài sản thế chấp. Trong luật cầm cố, người đi vay phải chuyển tài sản cho ngân hàng, điều này chưa triệt để vì trong lĩnh vực thương mại không thích hợp. Ví dụ: Trong thế chấp kho ngân hàng không thể quản lí được. Bản chất của sự cầm cố là người vay tín dụng phải đưa tài sản của mình cho ngân hàng cầm cố trong khi về mặt pháp lí, họ vẫn là chủ sở hữu của tài sản đó ( ở đây có sự khác biệt giữa sở hữu về mặt pháp lí và sở hữu thực tế quyền sử dụng). Trong trường hợp thế chấp kho hàng, ngân hàng không thể lấy hàng hoá trong kho đưa về ngân hàng được. Trường hợp này cần uỷ thác cho người thứ ba trông coi kho và quản lí tài sản đó. Đây là một khâu sơ hở dẫn đến rủi ro cho ngân hàng do khách hàng và cán bộ tín dụng ngân hàng gây nên. Điển hình là vụ án gần đây nhất:EPCO- Minh Phụng. Văn bản Nhà nước về cấp tín dụng đều qui định rất chặt chẽ việc và không có bảo đảm trong luật các tổ chức tín dụng. Thậm chí còn “hình sự hoá” vấn đề này.Điều này có làm cho chất lượng tín dụng tốt hơn không? Thực tế vấn đề cho vay có đảm bảo đã ăn sâu vào tâm trí mọi người đến mức hầu hết các đoàn thanh tra, kiểm tra ngân hàng Nhà nước đều đòi hỏi tất cả các món vay đều phải có tài sản thế chấp, mặc dù nhiều văn bản của Chính phủ hoặc NHNN vẫn cho phép vay tín chấpkhông có tài sản thế chấp như đối với xí nghiệp quốc doanh, nông dân nghèo, sinh viên....Vấn đề làm cho NHTM coi tài sản thế chấp là nguồn thu lợi thứ hai và là nguồn thu lợi duy nhất nên đã không quan tâm đến xem xét thẩm định thu từ doanh thu, lợi nhuận hoặc thu nhập khách hàng.Thậm chí có nhiều doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ làm ăn có hiệu quả. Phương án vay vốn có tính khả thi rõ ràng cũng bị từ chối cho vay thì không có tái sản thế chấp. Nhưng vay tín chấp thì sao? có lẽ hiệu ứng “Fameco” làm cho các NHTM cảnh giác quá mức cần thiết khi không cần. Trong kinh tế thị trường vì bao nhiêu bất ngờ rủi ro chờ đợi các doanh nghiệp , có thể xảy ra bất cứ lúc nào gây rủi ro cho doanh nghiệp và ngân hàng. Thế nhưng chỉ dựa vào tài sản thế chấp không phải là biện pháp hữu hiệu. Thực trạng các NHTM có hàng trăm ngôi nhà thế chấp không bán được để thu nợ, gây tổn thất cho ngân hàng. Bài học rút ra từ vụ án EPCO- Minh Phụng vẫn còn. Được sự giúp đỡ, bảo lãnh của Huỳnh Văn Thành- nguyên chủ tịch và ông Phạm Tấn Khoa- nguyên phó chủ tịch UBND quận 3 thành phố Hồ Chí Minh đã che giấu hoạt động kinh doanh thua lỗ của công ty EPCO- Minh Phụng nâng vốn và hạch toán lãi, tạo điều kiện cho bọn chúng tiếp tục vay vốn ngân hàng, hoạt động và lấy vốn chia lãi. Hay được sự tiếp tay của một số cán bộ ngân hàng đã cố ý nâng giá tài sán thế chấp hoặc đem thế chấp cho nhiều ngân hàng khác nhau. Đây là bài học cho cán bộ ngân hàng về sự lơ là trách nhiệm, làm việc trên giấy tờ, văn bản đề nghị của khách hàng để định món vay. Nguồn vốn huy động của ngân hàng là các tài sản nợ, có tính thanh khoản cao và chủ yếu phải chi trả, phải thanh toán, thanh toán ngay khi có yêu cầu của chủ tài khoản, trong khi đó ngân hàng đã sử dụng nguồn vốn để đầu tư và cho vay, dưới dạng tài sản có tính thanh khoản thấp, khó định giá và thường có thời gian trung bình dài hơn so với thời gan huy động vốn . Dưới góc độ chế độ kế toán nhìn từ bảng cân đối tài sản của một ngân hàng ta thấy: bên nguồn vốn thì phần lớn là huy động từ nguồn ngắn hạn ( dưới 1 năm) nhưng về tài sản thì ngân hàng lại cho vay đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh trên một năm và các hoạt động kinh tế khác của các thành phần kinh tế , cho vay trung và dài hạn . Trong lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng thì tín dụng hiện nay là một vấn đề đáng bàn. Nền kinh thị trường của chúng ta đã có những tác động làm nảy sinh những vấn đề rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng, rủi ro của ngân hàng đã được thực tế chứng minh trong thời gian dài vừa qua và được nhiều nhà khoa học bàn đền : rủi ro tín dụng ,rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá ,rủi ro thanh khoản... Những rủi ro trên đối với hoạt động ngân hàng cũng là những tổn thất lớn , có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của ngân hàng , gây ra những trục trặc trong quá trình kinh doanh.Qua theo dõi tình hình tội phạm kinh tế liên quan đến hoạt động ngân hàng trong những năm qua cho thây nổi lên tinh trạng lừa đảo chiếm dụng vốn vay của ngân hàng hay thông qua các thủ đoạn nâng giá trị tài sản thế chấp, hoặc sử dụng hồ sơ giấy tờ giả vay nhiều ngân hàng hoặc sử dụng một hồ sơ vay nhiều ngan hàng khác. Khi ngân hàng bị lừa đảo dẫn đến hậu quả nặng nề: tài sản Nhà nước bị mất ,ngân hàng mất khả năng thanh toán, ngân hàng bị phá sản ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế, xã hội của một cộng đồng. Tóm lại, quá trình trưởng thành , phát triển của NHTM trong cơ chế thị trường theo định hướng XHCN gắn chặt một cách hưu cơ với quá trình phát triển tín dụng.Một NHTM mạnh cũng có nghĩa là khối lượng vốn và tín dụng ở đó được tăng trưởng một cách vững chắc, an toàn và có hiệu quả . Kết quả kinh doanh của ngân hàng là tổng hợp của nhiều nhân tố nhưng hoạt động của tín dụng vẫn là khâu quyết định.Như đã trình bày ở trên , chất lượng tín dụng bất đầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trước tiên. Bên cạnh đó , còn những tồn tại vướng mắc như nợ quá hạn, nợ đóng băng, rủi ro trong hoạt động kinh doanh cần được khắc phục. Những tồn tại này do nhiều nguyên nhân khác nhau để có thể khắc phục được chúng ta cần phải tìm hiểu các nguyên nhân đó . 1.Những kết quả đạt được : Trong giai đoạn này, nền kinh tế đất nước còn chưa ổn định .Trong những năm gần đây, những khó khăn, cách thức của đất nước còn phức tạp và gay gắt.Hơn nũa do những tác động bất lợi của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực ,những yếu kém bên trong nền kinh tế và những bất cập trong hoạt động ,quản lý, điều hành ,nhất là hiệu quả kinh tế và sức mạnh cạnh tranh thấp. Tuy vậy, do Nhà nước đẩy mạnh các biện pháp kích cầu nên nền kinh tế nói chung và diễn biến tín dụng nói riêng vẫn đạt được một số kết quả khả quan. Nhìn chung, từ ngày 31/12/1999 tín dụng kinh tế tăng 19.2% cao hơn mức 16.4% năm 1998, đưa tỉ lệ tín dụng so với GDP đạt 22.9% cao hơn tỉ lệ năm 1998 (21.6%) và năm 1997 là 21.1%. Đến năm 2001, các NHTM ngày càng xác lập vững chắc thị trường hoạt động của mình trong lĩnh vực kinh doanh và đầu tư phát triển. Khối lượng tín dụng tăng đảm bảo cung cấp khối lượng lớn cho nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội. Tỉ trọng cho vay trung, dài hạn ngày càng được nâng cao. Hoạt động tín dụng đã có bước chuyển mạnh sang phương thức đầu tư tập trung theo dự án bao gồm dụ án quốc gia, dự án tiểu vùng kinh tế, từng địa phương nhằm khai thác tiềm năng phát triển nền sản xuất hàng hoá. Trong quá trình đầu tư đã gắn việc cho vay theo chương trình dự án với việc giải quyết vấn đề chính trị –xã hội. Vốn cho vay đã tạo được sự khởi sắc ban đầu, tạo thêm nhiều ngành nghề mới, đồng thưòi phát triển và khôi phục ngành nghề truyền thống... tạo công ăn việc làm, góp phần tích cực trong quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp sang phát triển sản xuất hàng hoá, công nghiệp, dịch vụ. 2.Nguyên nhân dẫn đến chất lượng tín dụng giảm: Việc phân tích được các nguyên nhân dẫn đến chất lượng tín dụng giảm là một việc hết sức cần thiết để từ đó phân tích, đánh giá các rủi ro, các biện pháp ngăn ngừa khắc phục có hiệu quả. Có nhiều nguyên nhân khác nhau tác động tổng hợp các hoạt động tín dụng, song tuỳ theo góc độ nhìn nhận và nghiên cứu, đánh giá khác nhau mà nguyên nhân được nhìn nhận từ góc độ này hay góc độ khác. Trước khi đi vào phân tích nguyên nhân, chúng ta kiểm điểm lại những mặt chưa được mà ta thấy: Một là, chất lượng tín dụng đang là khâu đóng vai trò thiết yếu trong tất cả hệ thống các NHTM. Mặc dù tốc độ tăng trưởng tín dụng khá, nhưng nợ quá hạn chiếm tỉ trọng cao, nợ quá hạn trên cân đối còn chưa phản ánh đúng thực trạng. Hai là, trong thực tế, qui mô về khối lượng tín dụng tăng nhanh ở các NHTM, đặc biệt là các hệ thống ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Qui mô tín dụng và phạm vi quản lí hiện đang bất cập với năng lực của cán bộ. Khối lượng tín dụng tăng phải đi đôi với chất lượng tín dụng, không thể tăng ồ ạt để lại những hậu quả đáng tiếc. Ba là, trong cơ chế nghiệp vụ tín dụng đã được ban hành có một số điểm không phù hợp với thực tiễn; những vướng mắc đề xuất của các NHTM chưa được trả lời kịp thời; tính chủ động và phán quyết còn hạn chế, nâng cao tính chủ độngvề hạn mức tín dụng trong mỗi ngân hàng nhưng không được vượt quá giới hạn cho phép.Những vấn đề này nếu không được giải quyết sớm sẽ gây những ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh tín dụng, giảm tính cạnh tranh, giảm lòng tin và dẫn đến mất khách hàng. Bốn là, Việc chỉ đạo nắm bắt thông tin việc hoạt động kinh doanh của khách hàng, thông tin kinh tế thị trường , giá cả chưa đầy đủ, xử lí còn chậm, thiếu chính xác. Chất lượng tín dụng có đảm bảo được chức năng còn được thể hiện ở mô hình tổ chức sao cho phù hợp với khả năng chuyên môn của mỗi người. Trong công tác chỉ đạo còn nhiều lúng túng,vì thế vai trò chỉ đạo tín dụng còn nhiều hạn chế, thông tin bị ngắt quảng. nắm bắt tình hình không có hệ thống. Hiện nay, tăng trưởng tín dụng cao và chất lượng tín dụng tốt là hai khái niệm không thể tách rời, chất lượng tín dụng phải đảm bảo hiệu quả kinh doanh của ngân hàng về hai mặt, là khả năng sinh lời và giảm tối thiểu rủi ro về sử dụng vốn. Đồng thời, hoạt động tín dụng tốt phải dựa trên nguyên tắc là thoả mãn nhu cầu về vốn của khách hàng (người đi vay) đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế là hai chủ thể mà các ngân hàng có sứ mạng phải phục vụ, do đó các NHTM cần xác định được khách hàng mục tiêu, hiểu rõ hơn nhu cầu của khách hàng để có chính sách phục vụ tốt hơn. ở đây, nguyên nhân không xét về mặt cụ thể mà xét trên mặt toàn diện nên chia thành nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. Nguyên nhân khách quan - Cơ chế chính sách của Nhà nước, của các ngành chưa đầy đủ, môi trường pháp lí chưa đồng bộ, môi trường xã hội còn nhiều nhức nhối. Số đông khách hàng, nhất là các hộ sản xuất có trình độ dân trí thấp, ít nắm bắt được thông tin, tiếp thu kiến thức về kinh tế thị trường còn rất hạn chế. Vì vây , chọn lựa đối tượng khách hàng đảm bảo cho việc hoạt động tín dụng đã gây không ít khó khăn cho hoạt động của các NHTM. - Thiên tai xảy ra bất thường trên diện rộng gây ra những hậu quả nặng nề cả gián tiếp và trực tiếp Có những NHTM vừa phải làm kinh doanh vừa phải làm chính sách đã có những hạn chế nhất định cho hiệu quả hoạt động kinh doanh và đầu tư phát triển Nguyên nhân chủ quan: - Một bộ phận cán bộ thiếu trách nhiệm với công việc được giao, tư duy tín dụng còn hạn hẹp. Một số cán bộ sa sút về phẩm chất, thông đồng với khách hàng, biểu hiện tính tuỳ tiện, không chấp hành đúng qui trình nghiệp vụ. Công tác điều hành của lãnh đạo ở một số NHTM còn thiếu sót, chất lượng thẩm định còn yếu kém. Hầu hết các đơn vị không trả được nợ, làm thất thoát vốn đều rơi vào các trạng thái sau đây: + Hồ sơ pháp lí không đầy đủ. Quyết định thành lập và giấy phép kinh doanh hết hạn nhưng không được bổ sung. Tình trạng tài chính của đơn vị trước khi vay vốn không được kiểm tra chính xác, thiếu tính đảm bảo. Nhiều dự án do thiếu vốn xây lắp phải kéo dài thời gian xây dựng, chậm tiến độ thi công, không thực hiện được kinh doanh sản xuất nên không trả được nợ đúng hạn. Trình độ thẩm định công nghệ yếu, nhất là công nghệ tiên tiến, hiện đại, chủ yếu dựa vào luận chứng được duyệt, trong khi các luận chứng có xu hướng chung là tạo ra số lượng giả để tăng sức thuyết phục, làm mất đi tính thực tế cần thiết của quá trình thẩm định, hầu hết các dự án không lập bảng lưu kim, nên khi lập kế hoạch trả nợ thiếu chính xác. +Xác định tư cách pháp nhân thiếu chính xác, nhất là đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Việc tìm hiểu tư cách pháp nhân của giám đốc không được quan tâm xác đáng nên đã cho vay cả những vị giám đốc đã lừa đảo đơn vị nhiều năm liền.Một số ngân hàng thiếu tính toán không xem xét đã cho vay cả những khách hàng bị các ngân hàng khác thải loại.Việc xem xét đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp phải được đánh giá bằng thực tiễn hoạt động chứ không chỉ căn cứ vào giấy tờ sổ sách. - Kỹ thuật cấp tín dụng hiện nay của các tổ chức tín dụng chủ yếu dựa trên đơn xin vay của khách hàng và phương án kinh doanh cho khách hàng soạn thảo.Kỹ thuật cấp tín dụng vừa mang tính duy ý chí chủ quan của bên cấp tín dụng, vừa thiếu cơ sở khách quan của nền kinh tế. Thông thường một đơn xin vay đều có ghi rõ mục đích sử dụng tiền vay, số tiền xin vay và thời hạn trả nợ. Song điều đó hoàn toàn dựa vào kinh nghiệm cá nhân của người xin vay và khó có thể biết chắc rằng, việc sử dụng tiền vay như vậy có đạt được mục tiêu đề ra trong phương án kinh doanh hay không. Vì vậy kèm theo đơn xin vay thì có phương án sản xuất kinh doanh như là một cơ sở để chứng minh cho ý đồ của người đi vay.Vấn đề đặt ra là độ tin cậy của phương án kinh doanh đó đạt đến mức độ nào, thì khó có tiêu chuẩn nào đánh giá và dự đoán được. Và khi có sự dự đoán không chính xác, nghiễm nhiên ngân hàng phải chịu rủi ro. Đấy là chưa nói đến tình trạng là: Về nguyên tắc các phương án sản xuất kinh doanh phải do người đi vay thành lập hoặc có thể thuê ngoài lập nhưng không phải là cán bộ tín dụng. Tuy nhiên hiện nay hầu hết họ không có khả năng tự lập dự án và cũng chưa có chuyên trách hướng dẫn do cán bộ tín dụng phải trực tiếp hưóng dẫn cho người viết đơn xin vay, sau đó chính mình phải thậm định dự án. Do vậy việc thậm định dự án chỉ mang tính hình thức, thiếu khách quan vì cán bộ tín dụng “vừa đá bóng vừa thổi còi”. - Các dự án vay vốn với số lượng khách hàng đa dạng, phong phú, thường theo một mẫu chung, thường là mẫu in sẵn, người vay chỉ ghi thêm số liệu vào bảng tái khẳng định. Cán bộ tín dụng không có số liệu về định mức kinh tế-kĩ thuật, thông tin giá cả nên không có cơ sở khoa học để kiểm tra số liệu của dự án. Hơn nữa, một khi việc cấp tín dụng chỉ đặt ra chủ yếu dựa vào ý chí chủ quan của bên cho vay quyết định thì vấn đề tiêu cực trong quan hệ tín dụng sẽ có điều kiện nảy nở. - Về đối tượng khách hàng: Hiện nay các NHTM đang chú trọng bằng các chính sách ưu đãi để thu hút và tăng trưởng đầu tư cho vay đối với các dự án lớn, các doanh nghiệp lớn. Điều đó là do yêu cầu đảm bảo an toàn đồng vốn cho vay, trong điều kiện môi trường kinh tế, môi trường pháp lí còn thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán, thiếu khả năng khả thi. Trong khi các doanh nghiệp lớn có bộ máy quản lí mạnh bởi các tầng nấc theo qui chế, lại có sự trợ giúp của Chính phủ, có sức mạnh về tài chính thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có được những thế mạnh đó, do đó ẩn chứa nhiều rủi ro hơn. - Về phía cán bộ tín dụng, với tư cách là người thẩm định, một số ít vì lợi ích cá nhân đã có những biểu hiện: bao che cho khách hàng, báo cáo với lãnh đạo những thông tin thiếu trung thực, tìm cách hợp lí hoá hồ sơ cho vay, gò ép thời gian cho vay phù hợp với tính chất nguồn vốn làm cho việc thực hiện kế hoạch trả nợ không phù hợp với thời gian đã cam kết, tìm cách giãn nợ, gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ ... không đúng nguyên tắc đối với các khoản nợ mất khả năng thanh toán. - Về phía lãnh đạo ,với tư cách là người điều hành một số ít tỏ ra thiếu bản lãnh,thiếu kiểm tra giám sát thường xuyên, chạy theo lợi ích cục bộ, cá biệt lạm dụng mưu lợi riêng cố tình làm sai nguyên tắc chế độ cho vay những doanh nghiệp có nợ nhiều ngân hàng những doanh nghiệp mở tài khoản tiền gửi chính tại ngân hàng nên không quản lý được nguồn thu. Việc sử dụng và bố trí cán bộ thiếu chọn lọc, một số nơi lấy lý do thiếu người, rất nguy hiểm cho công tác quản lý chất lượng tín dụng. - Trình độ thẩm định của cán bộ tín dụng nhìn chung còn bộc lộ nhiều yếu kém, đội ngũ chuyên gia tư vấn phần lớn còn thiếu kinh nghiệm, chưa dày dạn trong cơ chế thị trường để xử lý kịp thời những rủi ro bất thường. - Bản thân ngân hàng cũng có nhiều chậm trễ trong việc tham mưu,đề xuất ban hành sửa đổi, bổ sung các chính sách có liên quan đến hoạt động ngân hàng như: bảo lãnh, thế chấp, cầm cố , phát mại tài sản thế chấp...hoạt động của các ngân hàng trong điều kiện hành lang pháp lý vừa thiếu vừa thừa, không ổn định, bên cạnh đó một số chủ trương,chính sách ngành ngân hànglại luôn được thay đổi, thậm chí trong thời gian ngắn. Nhiều ngân hàng thương mại cho rằng thời gian qua ngân hàng thương mại Việt Nam ban hành nhiều qui định tự trói buộc các ngân hàng trong hoạt động kinh doanh tiền tệ.Nhiều vấn đề thực tế xảy ra nhưng lại chưa được quy định, bổ sung kịp thời những quy định của nhà nước, chính phủ thì Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chậm hướng dẫn ngân hàng thương mại thực hiện. - Đối với hệ thống quỹ tín dụng nhân dân, một hình thức tín dụng phổ biến với địa bàn rộng lớn, các quy định về trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro còn nhiều điểm chưa phù hợp.Kinh tế nước ta chủ yếu là nông nghiệp, sản xuất phụ thuộc vào thiên nhiên, mặt khác ở nước ta chưa có chính sách bảo hiểm mùa màng, giá cả cho nông nghiệp nên hoạt động tín dụng ở đây luôn tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao. Chính vì vậy, việc quy định căn cứ số dư quá hạn (phân theo nhóm) đầu năm để trích lập dự phòng để xử lý rủi ro trong năm tài chính e rằng chưa thật hợp lý bởi đây không phải là số dư nợ quá hạn bình quân cả năm.Hơn nữa hệ thống quỹ tín dụng nhân dân được thiết lập theo nguyên tắc về tổ chức và tài chính nhăm đảm bảo an toàn cho cả hệ thống, nhưng chưa có quy định nào hình thành một nguồn dự trữ bù đắp rủi ro chung cho hệ thống , nhằm hỗ trợ giải quyết rủi ro bất khả kháng vượt quá năng lực tài chính của tổ chức . Tóm lại, do nhiều nguyên nhân , chủ quan cũng như khách quan mà chất lượng tín dụng chưa cao.Về phía ngân hàng, do thận trọng trong bảo toàn vốn ,trình độ cán bộ chưa cao nên còn khó khăn trong quản lý tín dụng.Về phía khách hàng, năng lực tổ chức còn kém, thiếu tài sản thế chấp ,hệ thống hạch toán kế toán không rõ ràng đồng bộ theo qui định , bên cạnh đó là thực trạng làm ăn yếu kém,thiếu nghiêm túc , lừa đảo khiến rủi ro tín dụng tăng cao,giảm hiệu quả .Ngoài ra về nguyên nhân khách quan, môi trường pháp lý chưa hoàn thiện, còn nhiều kẽ hở , cơ chế chính sách chưa ổn định , quản lý còn chưa thống nhất và nhiều tệ nạn ...,tất cả nguyên nhân ấy đã khiến cho các khoản tín dụng không phát huy được kết quả như mong đợi . 3. Những chỉ tiêu đánh giá rủi ro. Phân tích được nguyên nhân, thấy được rủi ro tín dụng là do đâu để từ đó có đánh giá mức độ và khắc phục.Phân tích rủi ro tín dụng là hoạt động bắt buộc trong hoạt động kinh doanh tín dụng ngân hàng.Chất lượng của công tác phân tích rủi ro tín dụng phụ thuộc nhiều vào trình độ của cán bộ tín dụng , không có một chuẩn mực chi tiết mang tính cố định cho hoạt động này.Phân tích rủi ro tín dụng là nhân tố quyết định sự thành bại của mỗi khoản cho vay tín dụng. Trước khi ngân hàng có một quyết định đầu tư vào một dự án hay một tài sản thế chấp nào đó,bản thân mỗi ngân hàng thương mại với công việc đầu tiên đều phải đánh giá hiệu quả và rủi ro của việc đầu tư đó, phải xác minh cân đối giữa khả năng, giữa lợi nhuận thu được và mức độ rủi ro liên quan có thể chấp nhận được hay không(mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận).Khi cho vay đầu tư đối với cá nhân và tổ chức, về nguyên tắc đánh giá không có gì khác nhau, mà chỉ khác ít nhiều về nội dung đánh giá . Có nhiều phương pháp đánh giá rủi ro tín dụng khác nhau, tuy nhiên hiện nay phương pháp thông thường đang được nhiều định chế tài chính áp dụng trên thế giới là phương pháp “5c” để phân tích tín dụng.Phương pháp này, khi phân tích tín dụng thông qua 5 chỉ tiêu khác nhau. 3.1 Vốn : Thông qua mức vốn để đánh giá thực trạng và tình hình hoạt động của đối tác vay vốn. Vốn là yếu tố quan trọng thể hiện tiềm lực tài chính của khách hàng.Mặc dù sức mạnh tài chính chỉ là một tỷ số các yếu tố liên quan đến việc đánh giá rủi ro, những thông tin có được để đánh giá vốn nói chung sẽ hình thành cơ sở để đánh giá các yếu tố khác như khả năng năng lực tài chính. Do vậy , để đánh giá rủi ro tín dụng luôn luôn bắt đầu từ việc đánh giá sức mạnh tài chính của người vay, cần đánh giá về thực trạng tài chính của người vay và thu nhập d

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0605.doc
Tài liệu liên quan