MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU . 3
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUỒN VỐN HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN
(ODA) . 4
1. Khái quát nguồn vốn ODA: . 4
1.1. Định nghĩa: . 4
1.2. Đặc điểm: . 5
1.3. Nguồn gốc ra đời: . 8
1.4. Phân loại ODA: . 9
2. Vai trò của nguồn vốn ODA đối với các nước đang phát triển: . 10
2.1. Mục tiêu của nguồn vốn ODA: . 10
2.2. Vai trò của nguồn vốn ODA đối với các nước đang phát triển: . 10
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG - SỬ DỤNG NGUỒN VỐN ODA CỦA VIỆT
NAM TỪ 1993 ĐẾN 2009 . 14
1. Khái quát về nguồn vốn ODA tại Việt Nam từ 1993 đến 2009 . 14
1.1. Khả năng thu hút ODA của nền kinh tế Việt Nam: . 14
1.2. Tác động của ODA đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam từ 1993 đến
2009: 18
2. Thực trạng huy động - sử dụng nguồn vốn ODA ở Việt Nam: . 21
2.1. Giai đoạn 1993 – 2000: . 21
2.2. Giai đoạn 2001 - 2009: . 31
3. Ưu, nhược điểm của việc huy động – sử dụng vốn ODA ở Việt Nam:. 46
3.1. Ưu điểm: . 46
3.2. Nhược điểm: . 48
3.3. Những nguyên nhân chính : . 50
3.4. Bài học kinh nghiệm rút ra trong quá trình huy động – sử dụng nguồn vốn ODA ở
Việt Nam trong thời gian qua: . 55
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG – SỬ DỤNG NGUỒN VỐN HỖ TRỢ PHÁT
TRIỂN (ODA) HIỆU QUẢ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011 – 2015 . 56
1. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam giai đoạn 2011 - 2015: . 56
1.1. Mục tiêu tổng quát của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 – 2015: . 56
1.2. Định hướng phát triển và các nhiệm vụ chủ yếu: . 56
1.3. Các tiêu chí cụ thể: . 58
2. Một số thách thức đặt ra cho Việt Nam: . 58
2.1. Nợ công tăng cao:. 58
2.2. Lãi suất vay “thương mại": . 59
2.3. Nhu cầu tăng trưởng ODA cho các dự án lớn : . 59
3. Giải pháp huy động – sử dụng hiệu quả ODA ở Việt Nam giai đoạn 2011 - 2015: . 60
3.1. Một số giải pháp trong huy động vốn ODA: . 61
3.2. Một số giải pháp về việc tổ chức thực hiện dự án: . 62
3.3. Một số giải pháp sử dụng ODA hiệu quả: . 63
3.4. Một số giải pháp tăng tốc độ giải ngân ODA:. 63
KẾT LUẬN . 73
77 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 3948 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá thực trạng huy động và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển ODA ở Việt Nam giai đoạn 1993-2009, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2005.
Số vốn ODA cam kết nói trên bao gồm viện trợ không hoàn lại, chiếm khoảng 15-20%,
phần còn lại là vốn vay ưu đãi. Số vốn ODA cam kết này được sử dụng trong nhiều năm,
tuỳ thuộc vào thời hạn của các chương trình và dự án cụ thể.
Để sử dụng nguồn vốn ODA đã cam kết, ta đã ký kết với các nhà tài trợ các Điều ước
quốc tế về ODA (dự án, nghị định thư, hiệp định, chương trình). Tính từ năm 2001 đến hết
2004, tổng giá trị các điều ước quốc tế về ODA đã được ký kết đạt 8781 triệu USD, trong
đó 7385 triệu USD vốn vay và 1396 triệu USD viện trợ không hoàn lại, chiếm khoảng 78%
tổng nguồn vốn ODA đã được cam kết trong cùng giai đoạn.
Nguồn vốn ODA đã định hướng ưu tiên sử dụng cho các lĩnh vực như giao thông vận
tải; phát triển nguồn và mạng lưới chuyển tải và phân phối điện; phát triển nông nghiệp và
nông thôn bao gồm cả thủy lợi, thủy sản, lâm nghiệp kết hợp xóa đói giảm nghèo; cấp thoát
nước và bảo vệ môi trường; y tế, giáo dục và đào tạo; khoa học và công nghệ, tăng cường
năng lực và thể chế... Cơ cấu sử dụng ODA gần sát với yêu cầu do Đại hội IX đề ra.
Nhằm mục đích tạo niềm tin cho phía đối tác, Chính phủ đã tăng cường công tác quản lý
Nhà nước về ODA. Năm 2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định mới về Quản lý và sử
dụng ODA, tạo ra khung pháp lý chặt chẽ và khá đồng bộ đối với công tác quản lý Nhà
nước về ODA. Trong giai đoạn 2001 - 2005, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính đã ban
hành nhiều văn bản pháp quy hướng dẫn thực hiện Nghị định nói trên của Chính phủ. Công
tác quản lý Nhà nước về ODA ở các cấp về cơ bản đã tập trung vào một đầu mối, ở Trung
ương là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ở các Bộ là các Vụ Kế hoạch và đầu tư hoặc Vụ Hợp tác
quốc tế, ở các tỉnh là các Sở Kế hoạch và Đầu tư. Tuy nhiên, ở một số địa phương công tác
quản lý ODA vẫn còn phân tán, ảnh hưởng tới công tác phối hợp và sử dụng có hiệu quả
nguồn lực này.
Nhìn chung lại, sự ổn định chính trị, xã hội; công cuộc đổi mới được tiếp tục cả chiều
sâu lẫn bề rộng, nền kinh tế có tăng trưởng liên tục, năm sau cao hơn năm trước; công tác
xóa đói giảm nghèo đạt được những kết quả rõ rệt; nhiều vấn đề phát triển xã hội đạt được
những kết quả khích lệ, chủ động hội nhập quốc tế được triển khai tích cực đã tạo ra một
môi trường rất thuận lợi để huy động ODA hỗ trợ cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội
trong 5 năm 2001 - 2005.
Trang 34
Nhìn chung, việc thu hút ODA của Việt Nam trong giai đoạn 2001 - 2005 đã được thực
hiện theo đúng chủ trương của Đảng và Nhà nước ta là ưu tiên sử dụng nguồn lực này để hỗ
trợ phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội, góp phần tăng trưởng kinh tế, xóa đói, giảm
nghèo.
Kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới năm 1986 cho tới nay, công cuộc xóa đói giảm
nghèo ở Việt Nam đã đạt được những bước tiến quan trọng. Số liệu các cuộc điều tra mức
sống dân cư trong thời gian qua cho thấy tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ mức 58% vào năm 1983
xuống còn 37% năm 1998 và 28,9% năm 2002 và dưới 10% năm 2004. Kết quả này cho
thấy Việt Nam đã vượt mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDGs) mà nước ta đã cam kết
với thế giới. Những kết quả giảm nghèo đã đạt được nói trên có sự góp phần quan trọng của
ODA. Điều này được thể hiện rõ nét thông qua các dự án phát triển nông nghiệp và nông
thôn, kết hợp xóa đói giảm nghèo, trong đó nguồn vốn ODA đã giúp nông dân nghèo tiếp
cận nguồn vốn vay để tạo ra các ngành nghề phụ, hỗ trợ phát triển công tác khuyến nông,
khuyến lâm, khuyến ngư, phát triển giao thông nông thôn, thủy lợi, cung cấp nước sạch,
phát triển lưới điện sinh hoạt, trạm y tế, trường học...
Mặt khác, việc huy động đầu tư vào các dự án phát triển hạ tầng quy mô lớn trong lĩnh
vực năng lượng, giao thông vận tải và hạ tầng đô thị đã góp phần cải thiện các điều kiện
sống cho một số lượng lớn dân cư đô thị, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế như đã trình
bày ở trên, qua đó tạo ra công ăn việc làm, tăng thu nhập cho một bộ phận lao động dư thừa
ở vùng nông thôn và đô thị. Nói cách khác, người nghèo ở Việt Nam đã trực tiếp hưởng lợi
từ quá trình tăng trưởng kinh tế cao trong 5 năm qua trong đó có sự đóng góp trực tiếp và
gián tiếp của ODA. Đây là thực tế có tính thuyết phục cao đối với cộng đồng tài trợ quốc tế
tiếp tục dành ODA cho Việt Nam.
Tổng nguồn vốn ODA huy động cho giáo dục và đào tạo chiếm khoảng 8,5-10% tổng
kinh phí giáo dục và đào tạo, đã góp phần cải thiện chất lượng và hiệu quả của lĩnh vực
này, tăng cường một bước cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc nâng cao chất lượng dạy và học,
như các dự án ODA hỗ trợ cải cách giáo dục tiểu học, trung học và đại học, dự án đào tạo
nghề... Nguồn vốn ODA đã đóng góp cho sự thành công của một số chương trình quốc gia,
ngành có ý nghĩa sâu rộng như Chương trình dân số và phát triển, Chương trình tiêm chủng
mở rộng, Chương trình dinh dưỡng trẻ em, Chương trình nước sạch nông thôn, Chương
trình chăm sóc sức khoẻ ban đầu, Chương trình xóa đói giảm nghèo... Nhờ vậy, thứ hạng
Trang 35
của Việt Nam trong bảng xếp hạng các quốc gia và chỉ số phát triển con người của Liên
hợp quốc đều được cải thiện hàng năm.
Huy động ODA đã góp phần tăng cường năng lực và thể chế thông qua các chương
trình, dự án hỗ trợ công cuộc cải cách pháp luật, cải cách hành chính và xây dựng chính
sách quản lý kinh tế theo lịch trình phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước và lộ trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cường năng lực con người... Thông
qua các dự án ODA hàng ngàn cán bộ Việt Nam được đào tạo và đào tạo lại; nhiều công
nghệ sản xuất, kỹ năng quản lý hiện đại được chuyển giao.
Quan hệ giữa phía Việt Nam và các nhà tài trợ đã được thiết lập trên cơ sở quan hệ đối
tác, đề cao vai trò làm chủ của bên tiếp nhận ODA thông qua các hoạt động hài hòa và tuân
thủ các quy trình và thủ tục ODA.
Nổi bật trong thời kỳ 2001 - 2005 là sự hợp tác giữa phía Việt Nam và các nhà tài trợ để
thực hiện kế hoạch hành động về hài hòa hóa và tuân thủ các quy trình và thủ tục ODA, thể
hiện trên nhiều lĩnh vực như phát triển các quan hệ đối tác trong nông nghiệp, lâm nghiệp,
hiệu quả viện trợ..., nghiên cứu áp dụng các mô hình viện trợ mới (hỗ trợ ngân sách, tiếp
cận ngành,...), hài hòa quá trình chuẩn bị dự án, thống nhất hệ thống báo cáo, hài hòa hóa
quá trình mua sắm, tăng cường năng lực toàn diện về quản lý ODA.
Các hoạt động hài hòa và tuân thủ quy trình và thủ tục ODA đã được tiến hành cả trên
cơ sở song phương và đa phương, bao gồm: nhóm các nhà tài trợ đồng chính kiến (LMDG),
5 ngân hàng phát triển (JBIC, WB, ADB, KFW và AFD), EU và các tổ chức thuộc hệ thống
Liên hợp quốc.
Nước ta được lựa chọn là nước điển hình về tiến hành hài hòa quy trình thủ tục ODA,
tuân thủ hệ thống quản lý quốc gia về nâng cao hiệu quả viện trợ. Tuy nhiên, yếu kém xảy
ra do việc thiếu quy hoạch huy động đã được Chính phủ phê duyệt để định hướng cho các
cơ quan thụ hưởng chủ động thu hút nguồn lực này; chưa có nhận thức đúng đắn và đầy đủ
về bản chất của ODA: trong việc thu hút ODA, có nơi coi đây là nguồn vốn cho không, nếu
là vốn vay thì Chính phủ có trách nhiệm trả nợ, chính nhận thức sai lệch này dẫn đến một
số chương trình, dự án ODA kém hiệu quả; chậm cụ thể hóa chủ trương, chính sách và định
hướng thu hút ODA
Mặc dù vậy, đánh giá một cách tổng quát, việc thu hút ODA trong 5 năm 2001 - 2005 đã
được thực hiện theo các quan điểm, chủ trương và đường lối chủ đạo của Đảng tại các văn
kiện Đại hội Đảng lần thứ IX, phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển
Trang 36
kinh tế xã hội của Nhà nước. Quốc hội, Chính phủ, dư luận xã hội trong nước và các nhà tài
trợ đều nhất trí đánh giá trong thời gian qua việc sử dụng ODA của ta nhìn chung là có hiệu
quả.
2.2.1.2. Giai đoạn 2006-2009:
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X ngày 18 tháng 4 năm 2006 đã khẳng định:
“Tiếp tục tranh thủ nguồn vốn ODA, đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn các công trình, dự án
đã được ký kết; xây dựng chiến lược thu hút và sử dụng vốn ODA, tập trung vào lĩnh vực
kết cấu hạ tầng kỹ thuật ở các trung tâm kinh tế và các vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó
khăn”.
Bảng 2.5: Huy động ODA giai đoạn 2006-2010
Ngành, lĩnh vực
Giá trị ODA theo Hiệp định 2006-2010
Tổng (tỷ USD) Tỷ lệ (%)
1. Nông nghiệp và phát triển nông
thôn kết hợp xóa đói giảm nghèo.
2,2-2,5 18%
2. Công nghiệp và năng lượng. 1,9-2,2 16%
3. Giao thông vận tải, Bưu chính
viễn thông, cấp, thoát nước và phát
triển đô thị.
3,6-4,1
30%
4. Y tế, giáo dục đào tạo, môi
trường, khoa học kỹ thuật, các ngành
khác.
4,3-4,9 36%
TỔNG 12-13,6 100%
(Nguồn:
Giai đoạn 2006-2010, Chính phủ sẽ dành 30% tổng số vốn ODA để phát triển giao
thông, bưu chính viễn thông, cấp thoát nước và đô thị. Đầu tư trọng điểm vào phát triển cơ
sở hạ tầng là một trong những nội dung quan trọng nhất trong bản đề án "Định hướng thu
hút và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) thời kỳ 2006 - 2010" vừa được
Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định phê duyệt số 290/2006/QĐ - TTg ngày 29/12/2006.
Như vậy, so với thời kỳ 2001 - 2005, chính sách phân bổ nguồn vốn ODA trong thời kỳ
2006 - 2010 tiếp tục duy trì tỷ trọng ODA ở mức cao 18% để hỗ trợ phát triển nông nghiệp,
thuỷ lợi, lâm nghiệp, thuỷ sản kết hợp xoá đói, giảm nghèo; tập trung sử dụng vốn ODA
vay ưu đãi (15%) để hỗ trợ phát triển hệ thống lưới điện và các trạm phân phối; tăng tỷ
Trang 37
trọng vốn ODA (30%) cho phát triển giao thông, bưu chính viễn thông, cấp thoát nước và
phát triển hạ tầng đô thị.
Theo bản đề án, lĩnh vực phát triển hạ tầng giao thông tiếp tục là mối quan tâm hàng đầu
của Chính phủ. Đặc biệt, đây cũng là lĩnh vực mà các nhà tài trợ vốn ODA như ADB,
JBIC, WB... rất quan tâm từ trước tới nay cũng như trong nhiều năm tới.
Cụ thể, nguồn vốn ODA cho lĩnh vực này trong giai đoạn này tiếp tục tăng mạnh để đầu
tư cho các lĩnh vực phát triển hệ thống đường cao tốc Bắc - Nam, các đường trục chính của
các vùng kinh tế; ưu tiên phát triển các tuyến đường ở miền núi phía Bắc, Tây Nguyên,
ĐBCSL; phát triển mạnh hệ thống đường cao tốc, nhất là tại các vùng kinh tế trọng điểm.
Ngoài ra, nguồn vốn này sẽ phát triển các tuyến hành lang giao thông trong khuôn khổ
hợp tác tiểu vùng Mê Kông mở rộng. Trong đó gồm có tam giác phát triển Việt Nam - Lào
- Campuchia và hai hành lang và một vành đai kinh tế Việt - Trung, xây dựng một số cầu
đường bộ lớn ở cả 3 miền, trong đó có các cầu Cao Lãnh, Vàm Cống thuộc Dự án đường
Hồ Chí Minh (giai đoạn II).
Đồng thời, giao thông nông thôn cũng nằm trong phạm vi của nguồn vốn, gồm nâng cấp
các tuyến đường huyện, bảo đảm đường thông suốt cả năm từ thôn bản đến trung tâm xã,
đầu tư hỗ trợ bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ cũng như công tác duy tu bảo
dưỡng đường bộ.
Bên cạnh việc định hướng đầu tư cho các dự án giao thông cầu đường bộ, đối với lĩnh
vực đường sắt, Chính phủ sẽ thu hút vốn ODA xây dựng một số tuyến đường sắt, kể cả
tuyến đường sắt cao tốc Hà Nội - TP.HCM; tăng cường năng lực quản lý và điều hành
ngành đường sắt.
Lĩnh vực hàng không, các sân bay quốc tế sẽ được xây dựng ở một số tỉnh, thành phố
phù hợp với quy hoạch phát triển hệ thống các sân bay của cả nước, trước mắt xây dựng
mới một sân bay quốc tế hiện đại cho Thủ đô Hà Nội (Cảng Hàng không Quốc tế 2), Long
Thành - Biên Hoà, Đà Nẵng (nhà ga), Cam Ranh - Khánh Hoà (nhà ga) và Phú Quốc - Kiên
Giang.
Trong giai đoạn này, Chính phủ cũng sẽ tập trung vốn ODA để xây dựng một số cảng
nước sâu, trong đó có các cảng Vân Phong - Khánh Hoà, cảng Lạch Huyện - Hải Phòng, và
các cảng trung chuyển. Ngoài ra sẽ hỗ trợ đầu tư phát triển hệ thống các tuyến đường thuỷ
nội địa quan trọng ở Đồng bằng sông Hồng và ĐBSCL.
Trang 38
Thể chế, tăng cường năng lực con người trong lĩnh vực giao thông, nhất là an toàn giao
thông, cũng sẽ là một hướng đầu tư.
Chính phủ cũng định hướng cụ thể trong việc sử dụng nguồn vốn ODA. Đối với nguồn
vốn ODA hoàn lại, đặc biệt là các khoản vay có ưu đãi cao (lãi suất thấp, thời gian trả nợ
dài và có ân hạn) thì ưu tiên sử dụng để phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế.
Các khoản vay ODA có điều kiện ưu đãi kém hơn (lãi suất cao, thời gian trả nợ và ân
hạn ngắn) sẽ được sử dụng cho các chương trình, dự án có tính khả thi cao về mặt kinh tế
và có khả năng trả nợ.
Theo đánh giá của Bộ Giao thông Vận tải, thời gian tới vốn ODA dành cho phát triển hạ
tầng giao thông về cơ bản vẫn sẽ đến từ các nhà tài trợ lớn, truyền thống JBIC, WB, ADB,
AFD (Cơ quan Phát triển Pháp) và KFW (Ngân hàng Tái thiết Đức).
Theo nhận định của các chuyên gia, mặc dù nguồn cung cấp ODA trên thế giới vẫn còn
hạn chế, nhưng nguồn vốn ODA dành cho Việt Nam trong giai đoạn này đã tăng trưởng
mạnh.
Từ nguồn vốn ODA ký kết cho thấy, bên cạnh 8 tỷ USD vốn ODA thời kỳ 2001 - 2005
chuyển tiếp sang, trong giai đoạn từ 2006-2010, vốn ODA ký kết mới sẽ đạt khoảng từ 12 –
13,6 tỷ USD, đưa tổng nguồn vốn ODA được ký kết lên con số 21,6 tỷ USD.
Bản đề án của Chính phủ cũng nêu rõ: "Chính sách thu hút và quản lý ODA trong thời
gian tới cần tập trung cải thiện mạnh mẽ tình hình giải ngân các chương trình và dự án
ODA đã ký kết, sớm đưa các công trình vào khai thác và sử dụng, góp phần nâng cao hiệu
quả sử dụng ODA. Đồng thời, xây dựng các chương trình, dự án ODA gối đầu cho giai
đoạn sau năm 2010, đặt trọng tâm vào chất lượng và hiệu quả".
Mặc dù xác định ODA là nguồn vốn vô cùng quan trọng đối với việc phát triển cơ sở hạ
tầng, nhưng từ những bài học chủ yếu được rút ra qua thực tế thu hút và sử dụng ODA
trong giai đoạn 2001- 2005, Chính phủ đã nêu rõ rằng các cơ quan tiếp nhận nguồn vốn này
cần nhận thức đúng đắn về ODA, coi ODA là nguồn lực bên ngoài có tính chất bổ sung chứ
không thay thế nguồn lực nội sinh đối với quá trình phát triển ở cấp độ quốc gia, ngành, địa
phương và đơn vị thụ hưởng. Vì xét cho cùng, ODA không phải là "thứ cho không" mà chủ
yếu là vay nợ nước ngoài theo các điều kiện ưu đãi, gắn với uy tín và trách nhiệm quốc gia
trong quan hệ với cộng đồng tài trợ quốc tế.
Trang 39
2.2.2. Thực trạng giải ngân nguồn vốn ODA ở Việt Nam:
2.2.2.1. Giai đoạn 2001 - 2005:
Trong thời gian qua, Việt Nam đã nhận được sự cam kết viện trợ vốn ODA của nhiều
quốc gia và tổ chức quốc tế. Tuy nhiên cho đến nay, lượng vốn ODA được đưa vào đầu tư
phát triển kinh tế xã hội trên phạm vi cả nước còn chiếm tỷ lệ thấp so với số vốn được cam
kết và ký kết.
Bảng 2.6: Vốn ODA cam kết, ký kết và giải ngân giai đoạn 2001 - 2005
Đơn vị tính: tỷ USD
Năm cam kết ký kết giải ngân
% giải ngân/
ký kết
2001 2,4 2,1 1,5 0,71
2002 2,5 2,1 1,55 0,74
2003 2,8 1,8 1,42 0,79
2004 2,8 2,6 1,6 0,62
2005 3,4 2,5 1,7 0,68
(Nguồn: Bộ Kế hoạch – đầu tư)
Biểu đồ 2.4: Vốn ODA cam kết, ký kết và giải ngân giai đoạn 2001 - 2005
Vốn ODA ký kết qua các năm tăng trong giai đoạn 2001 – 2005. Tuy tỷ lệ giải ngân đã
tăng so với giai đoạn 1993 - 2000 nhưng nhìn chung vẫn thấp và có dấu hiệu giảm dần qua
các năm do chú trọng đưa vốn ODA vào các công trình, dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, giao
thông... Quy chế quản lý sử dụng ODA còn nhiều vướng mắc đã làm chậm tốc độ giải ngân
0,0
0,5
1,0
1,5
2,0
2,5
3,0
3,5
4,0
2001 2002 2003 2004 2005
cam kết
kí kết
giải ngân
Trang 40
vốn ODA vào đầu tư phát triển. Mức giải ngân trong năm 2002 tăng lên do một số nhà tài
trợ lớn chuyển sang áp dụng cơ chế giải ngân nhanh các khoản vốn ODA. Điều này đã bù
lại cho mức giải ngân thấp trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng sau khi hoàn thành một số dự án
lớn về năng lượng trong giai đoạn 2000-2001 khiến cho mức giải ngân năm 2001 giảm
đáng kể. Sự suy giảm trong năm 2001 là lần suy giảm đầu tiên kể từ năm 1993. Mức giải
ngân giảm khoảng 16% sau 8 năm liên tục tăng. Nguyên nhân chủ yếu là do một số dự án,
chương trình do Nhật Bản tài trợ đã được hoàn thành như Dự án nhà máy điện Phú Mỹ, Phả
Lại, Hàm Thuận-Đa Mi, cũng như sáng kiến Miyazawa hỗ trợ phát triển khu vực tư nhân,
cải cách DNNN và thương mại.
- Theo mục tiêu phát triển:
Tỷ trọng lớn vốn ODA vẫn tiếp tục được phân bổ cho những dự án cơ sở hạ tầng lớn.
Các dự án cơ sở hạ tầng nhận được 568 triệu USD, tức là 42% tổng vốn ODA trong năm
2001, mặc dù con số này đã giảm đáng kể so với năm trước đó. Các khoản vốn vay ODA
giải ngân nhanh chiếm 20% trong tổng số ODA, tức là 258 triệu USD. Đây chủ yếu là từ
các khoản Tín dụng hỗ trợ xóa đói giảm nghèo (PRSC) của Ngân hàng thế giới và Quỹ tăng
trưởng xóa đói giảm nghèo (PRSF) của IMF. Các khoản này nhằm hỗ trợ cải cách khu vực
ngân hàng và doanh nghiệp Nhà nước, phát triển khu vực tư nhân, phát triển xã hội, phát
triển nông thôn và quản trị quốc gia. Mức giải ngân cho lĩnh vực phát triển nông thôn đứng
vị trí lớn thứ ba, mặc dù xét về giá trị tuyệt đối thì mức giải ngân cho lĩnh vực này lại giảm.
Lĩnh vực này nhận được 207 triệu USD, xấp xỉ 15% trong tổng số vốn ODA. Ngay tiếp
theo là phát triển nhân lực, chiếm 14% trong tổng số ODA. Các khoản vốn đầu tư cũng
được phân chia gần như đồng đều giữa giáo dục đào tạo và y tế.
- Theo vùng kinh tế:
Phân tích về lượng ODA giải ngân trực tiếp ở các vùng cụ thể của đất nước cho thấy
miền núi phía Bắc, vùng duyên hải Bắc trung bộ và Đồng bằng sông Cửu Long nhận được
43% các khoản ODA giải ngân trực tiếp. Con số này thấp hơn nhiều so với 70% người
nghèo cả nước sống ở các vùng này. Năm khu vực: miền núi Bắc bộ, Đồng bằng sông
Hồng, duyên hải Bắc trung bộ, Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Mêkông giải ngân vốn
ODA giảm đáng kể trong năm 2001. Chỉ có 2 khu vực: cao nguyên Trung bộ và duyên hải
Nam trung bộ là lượng vốn ODA gia tăng nhưng với một con số khá khiêm tốn (tổng cộng
khoảng 30 triệu USD)
- Theo nhà tài trợ:
Trang 41
Nhật Bản vẫn là nhà tài trợ lớn nhất trong năm, với tổng mức giải ngân là 321 triệu
USD, mặc dù đã có sự sụt giảm đáng kể trong mức giải ngân; tiếp theo là Ngân hàng thế
giới, ADB và IMF. Sau đó là Pháp, Đan Mạch, Liên Hiệp Quốc, Hàn Quốc, Thụy Điển và
Vương quốc Anh. Nhóm các nhà tài trợ song phương cung cấp khoảng 50% trong tổng
mức giải ngân ODA. Tổng mức giải ngân từ Liên minh Châu Âu (kể cả các quốc gia thành
viên EU và EC) là 271 triệu USD, và nếu gộp toàn bộ, sẽ đứng thứ ba về mức giải ngân.
- Theo loại hình viện trợ:
Vốn ODA gồm 2 loại: viện trợ không hoàn lại và vốn vay ưu đãi. Những năm đầu nối
lại quan hệ hợp tác, nguồn vốn ODA chủ yếu dưới hình thức viện trợ không hoàn lại, các
chương trình viện trợ, cứu trợ của các tổ chức quốc tế. Hiện nay, xu hướng các khoản viện
trợ không hoàn lại giảm dần và nguồn vốn ODA được thực hiện dưới hình thức chủ yếu là
cho vay ưu đãi có hoàn trả: các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng năng lượng, giao thông vận tải.
Đó là xu hướng chung của nguồn vốn ODA trên thế giới hiện nay. Do vậy, các dự án vay
ưu đãi từ nguồn vốn ODA cần phải được thẩm định tính toán đầy đủ về hiệu quả và khả
năng trả nợ.
Qua 10 năm thực hiện nguồn vốn ODA, ta thấy mức độ giải ngân ODA được cải thiện
nhiều so với mức cam kết, giá trị các hiệp định ký kết và mức giải ngân cũng gia tăng đáng
kể. Song so với mức kế hoạch đặt ra hàng năm, chúng ta vẫn chưa đạt, với số liệu tổng hợp
Việt Nam còn khoảng 5,7 tỷ USD đã ký kết chưa được giải ngân.
Trong nguồn vốn ODA, tỷ lệ giải ngân viện trợ không hoàn lại khá cao, đạt tới 90% so
với mức cam kết, nguyên nhân chủ yếu là do không có những ràng buộc về trả nợ nước
ngoài, và nguồn vốn này chủ yếu dưới hình thức hỗ trợ kỹ thuật tập trung vào các lĩnh vực
y tế, giáo dục, cải cách hành chính,…Đây là các hình thức được giải ngân nhanh hơn các
dự án đầu tư bằng vốn vay.
Tỷ lệ giải ngân của vốn ODA có hoàn lại ở mức rất thấp, chỉ đạt 54,95%, có nghĩa là
còn tồn lại khoản vốn tương đối trên 5 tỷ USD chưa được thực hiện, gây lãng phí vốn và
hiệu quả sử dụng vốn này chưa cao .
2.2.2.2. Giai đoạn hiện nay:
Với chính sách tập trung phát triển cơ sở hạ tầng, từng bước xây dựng, hiện đại hóa đất
nước, phần lớn vốn ODA, chủ yếu là từ Nhật Bản, WB và ADB đã được đầu tư vào các dự
án hạ tầng trọng điểm như giao thông, hệ thống thoát nước, môi trường… tại các thành phố
lớn như Hà Nội, TP.HCM…
Trang 42
- Trong 4 tháng đầu năm 2009, theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, giá trị vốn ODA
được ký thông qua các hiệp định với các nhà tài trợ đạt 1,459 tỷ USD, trong đó vốn vay
là 1,448 tỷ USD và viện trợ không hoàn lại là 11,66 triệu USD. Tổng giá trị giải ngân
vốn ODA trong 4 tháng đầu năm đạt khoảng 300 triệu USD, bằng 16% kế hoạch cả
năm; trong đó, vốn vay khoảng 239 triệu USD, vốn viện trợ không hoàn lại khoảng 61
triệu USD.
- Đến tháng 05 năm 2009, theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, giải ngân vốn ODA
trong 5 tháng đầu năm mới bằng 38% kế hoạch giải ngân của cả năm 2009, đạt khoảng
720 triệu USD.
- Tháng 06/2009, giải ngân ODA với tỷ lệ đạt 67% kế hoạch năm và tăng tới 9% so với
cùng kỳ năm 2008, vốn ODA đã trở thành điểm sáng trong bức tranh giải ngân các
nguồn vốn của Việt Nam trong nửa đầu năm 2009. Giải ngân ODA đạt 1,27 tỷ USD
trong vòng 6 tháng đầu năm 2009. Riêng trong tháng 06/2009, các dự án ODA đã “hấp
thụ” được thêm 550 triệu USD, gấp 3,8 lần so mức trung bình 5 tháng đầu năm. Tích
cực nhất là TP.HCM. Chỉ mới qua nửa năm, địa phương này đã vượt kế hoạch giải ngân
ODA năm 2009 tới 18%. Thủ đô Hà Nội cũng tăng tốc với tỷ lệ giải ngân ODA đạt
57% kế hoạch năm. Đạt mức trung bình khá là Bộ GTVT với tỷ lệ gần 50%, Bộ
NN&PTNT trên 44%. Dẫn đầu về tốc độ giải ngân nguồn vốn này là dự án nâng cấp tỉnh
lộ (ADB), vượt gấp 3 lần kế hoạch năm; dự án cải thiện môi trường nước TP.HCM lưu
vực kênh Bến Nghé - Tàu Hủ Kênh Đôi giai đoạn 1 (JICA) vượt 81,56% kế hoạch năm.
Dự án xây dựng đại lộ Đông Tây TP.HCM vượt 60,9%; dự án hỗ trợ thuỷ lợi Việt Nam
(WB) đã vượt 45% kế hoạch năm…
- Tháng 09/2009, theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong 9 tháng, lượng vốn ODA giải ngân
đã đạt 1,715 tỷ USD, bằng 90% kế hoạch giải ngân của cả năm. Bộ Kế hoạch và Đầu tư
cho biết, tổng giá trị vốn ODA giải ngân tính đến 20/11/2009 đạt 1,99 tỷ USD, vượt
khoảng 5% so với kế hoạch dự kiến cả năm 2009 (1,9 tỷ USD).
- Bộ KH-ĐT cho rằng, với tác động của chủ trương kích cầu đầu tư của Chính phủ, vừa
qua, các bộ ngành, địa phương đã tinh giản quy trình, thủ tục giải ngân ODA, bằng cách
ban hành các quy chế nội bộ về việc sử dụng nguồn vốn này. Đặc biệt, tổ công tác ODA
của Chính phủ và nhóm 6 nhà tài trợ lớn phối hợp chặt chẽ với cơ chế giao ban hàng
tháng. Nhờ đó, những vướng mắc của từng dự án cụ thể đã dần được tháo gỡ. Hội nghị
Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam 2009, do Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp
Trang 43
với Ngân hàng Thế giới (WB) tổ chức với chủ đề "Phục hồi tăng trưởng nhanh và bền
vững" đã khai mạc ngày 03/12/2009, tại Hà Nội. Các nhà tài trợ đã cam kết dành 8,063
tỷ USD vốn ODA cho Việt Nam trong năm 2010, mức kỷ lục từ trước đến nay. Đây là
mức cam kết khá ấn tượng, nhất là trong bối cảnh kinh thế giới đang gặp nhiều khó
khăn, việc tiếp cận các nguồn vốn vay bị hạn chế. Trong đó, Ngân hàng Thế giới (WB)
vẫn là nhà tài trợ hàng đầu của Việt Nam với con số cam kết lên tới 2,498 tỷ USD. Tiếp
đến là Nhật Bản với 1,640 tỷ USD. Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cam kết tài trợ
1,479 tỷ USD, trong khi Ủy ban châu Âu (EC) cam kết 331 triệu USD; Mỹ 138 triệu
USD. Khối các nước Liên minh châu Âu (EU) là 1,082 tỷ USD, trong đó Pháp là nhà tài
trợ lớn nhất với mức cam kết 378 triệu USD, tiếp sau là Đức 137 triệu USD... Từ khi các
nhà tài trợ quốc tế tái khởi động chương trình ODA cho Việt Nam tháng 11/1993 đến
nay, đã có 22 tỷ USD được giải ngân trong tổng số 42,5 tỷ USD vốn cam kết, tính đến
trước thời điểm diễn ra hội nghị CG lần này. Trong nhiều năm trở lại đây, cam kết ODA
cho Việt Nam liên tiếp lập kỷ lục mới. Nếu như năm 2005 là 3,7 tỷ USD thì năm 2006
đã tăng lên hơn 4,4 tỷ USD; năm 2007 lên 5,426 tỉ USD và gần đây nhất, năm 2008 là
5,015 tỷ USD. Như vậy, con số cam kết của năm 2009 này đã vượt xa mọi kỷ lục trước
đó.
- Đối với nhà tài trợ Nhật Bản – nhà tài trợ lớn nhất của Việt Nam: năm 2009, Việt
Nam trả cho Nhật Bản 210 triệu USD nợ gốc các khoản vay ODA của nhiều năm trước.
Thời gian tới số nợ phải trả sẽ tiếp tục tăng lên, mỗi năm từ 200 đến 250 triệu USD.
Tổng số vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA) mà Nhật Bản thực hiện giải ngân cho
Việt Nam đạt 121,5 tỷ yên. Tuy nhiên, tổng thực giải ngân chỉ là 100,7 tỷ yên sau khi đã
trừ đi số tiền Việt Nam trả nợ. Năm 2008, số nợ gốc Việt Nam đã trả là 21 tỷ yên, tương
đương khoảng 210 triệu USD. Nhật Bản bắt đầu nối lại viện trợ ODA cho Việt Nam từ
1992 với các khoản vay có thời hạn 10 đến 40 năm, với 10 năm ân hạn. Trong 10 năm
ân hạn, Việt Nam chỉ phải trả lãi, tính từ năm thứ 11 trở đi mới trả cả gốc lẫn lãi. Quá
trình Việt Nam trả nợ cho Nhật Bản đã bắt đầu trong những năm gần đây. Số
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đánh giá thực trạng huy động và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển ( ODA ) ở Việt Nam giai đoạn 1993 - 2009.pdf