MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU - 1 -
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN - 2 -
I) Tìm hiểu chung về báo cáo tài chính , báo cáo kết quả kinh doanh - 2 -
1) Khái niệm: - 2 -
2) Vai trò của báo cáo tài chính nói chung và báo cáo kết quả kinh doanh nói riêng đối với việc phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp - 2 -
3) Phân loại báo cáo kết quả kinh doanh : - 3 -
II) Chuẩn mực kế toán quốc tế về trình bày báo cáo tài chính nói chung và báo cáo kết quả kinh doanh nói riêng: - 3 -
III)Kinh nghiệm lập và sử dụng báo cáo tài chính nói chung và báo cáo kết quả kinh doanh nói riêng của một số nước trên thế giới: - 5 -
1) Mỹ: - 5 -
2) Anh : - 6 -
3) Pháp: - 6 -
IV) Thực trạng báo cáo kết quả kinh doanh tại Việt Nam - 7 -
1) Sự biến đổi của báo cáo kết quả kinh doanh theo các thời kì lịch sử: - 7 -
2) Đánh giá khái quát về báo cáo kết quả kinh doanh qua các thời kì: - 10 -
3)Yêu cầu và nguyên tắc lập và trình bày báo cáo kết quả kinh doanh theo quy định hiện hành: - 11 -
4) Nội dung và kết cấu của báo cáo kết quả kinh doanh theo quy định hiện hành ( quyết định 15/2006/QĐ/BTC) : - 15 -
5) Cơ sở số liệu và phương pháp lập báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh: - 15 -
CHƯƠNG II :ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN BCKQKD VỚI VIỆC PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP . - 18 -
I) Thực trạng lập và trình bày báo cáo kết quả kinh doanh trong các doanh nghiệp hiện nay: - 18 -
II) Các phương hướng hoàn thiện: - 21 -
KẾT LUẬN - 24 -
TÀI LIỆU THAM KHẢO - 33 -
34 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1933 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá thực trạng và phương hướng hoàn thiện báo cáo kết quả kinh doanh với việc phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng các báo cáo này dựa trên cơ sở là quyết định 167/2000/QĐ/BTC, tuy nhiên đã được lược bớt các chỉ tiêu và nội dung của các chỉ tiêu thì cũng đơn giản hơn.
Bước sang năm 2006, Việt Nam tích cực chuẩn bị cho tiến trình hội nhập WTO, theo đó chế độ kế toán cũng cần có những sự thay đổi để phù hợp thời đại mới, tiến gần hơn đến chế độ và chuẩn mực kế toán quốc tế. Ngày 20/3/2006, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã kí quyết định 15/2006/QĐ/BTC về việc áp dụng chế độ kế toán mới trong hệ thống các doanh nghiệp.
2) Đánh giá khái quát về báo cáo kết quả kinh doanh qua các thời kì:
Qua từng thời kì biến đổi của đất nước, hệ thống kế toán đã không ngừng hoàn thiện, cải tiến và đổi mới mình, giai đoạn sau luôn có bước phát triển, cải tiến hơn so với giai đoạn trước và phù hợp hơn với sự phát triển cơ chế quản lí kinh tế hiện tại. Đương nhiên, ngay tại thời điểm áp dụng, cũng không có một chế độ, một quyết định nào là hoàn hảo, ví dụ như quyết định 167/2000/QĐ/BTC thiết kế không được khoa học cho lắm.Trong Báo cáo kết quả kinh doanh, biểu mẫu cũng như việc bố trí các chỉ tiêu quá rối rắm, phức tạp, không hợp lí, không phù hợp với tính chất của báo cáo. Chính vì vậy luôn cần có sự điều chỉnh, thay đổi để hệ thống báo cáo tài chính ngày càng hoàn thiện hơn.
3)Yêu cầu và nguyên tắc lập và trình bày báo cáo kết quả kinh doanh theo quy định hiện hành:
Báo cáo kết quả kinh doanh là một bộ phận quan trọng của hệ thống báo cáo tài chính , khi lập báo cáo kết quả kinh doanh cần phải tuân thủ các yêu cầu và nguyên tắc lập và trình bày báo cáo tài chính .
Theo chuẩn mực kế toán số 21 : “Trình bày báo cáo tài chính” thì việc lập và trình bày báo cáo tài chính phải tuân thủ các yêu cầu sau:
+ Trung thực và hợp lý; phản ánh chính xác tình hình tài chính và kết quả kinh doanh và các luồng tiền của doanh nghiệp. Để đảm bảo yêu cầu trung thực và hợp lí thì hệ thống báo cáo tài chính phải được lập và trình bày trên nguyên tắc tuân thủ các chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán, các văn bản, quy định pháp luật hiện hành.
+ Lựa chọn và áp dụng các chính sách kế toán phù hợp với qui định của từng chuẩn mực kế toán nhằm đảm bảo cung cấp thông tin thích hợp với nhu cầu ra các quyết định kinh tế của người sử dụng và cung cấp được các thông tin đáng tin cậy, khi:
- Trình bày trung thực, hợp lý tình hình tài chính, tình hình và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp;
- Phản ánh đúng bản chất kinh tế của các giao dịch và sự kiện không chỉ đơn thuần phản ánh hình thức hợp pháp của chúng;
- Trình bày khách quan, không thiên vị;
- Tuân thủ nguyên tắc thận trọng;
- Trình bày đầy đủ trên mọi khía cạnh trọng yếu
+ Mặt khác, báo cáo tài chính phải trình bày đầy đủ các thông tin kể cả các chính sách kế toán nhằm cung cấp thông tin phù hợp, đáng tin cậy, so sánh được và dễ hiểu kể cả các thông tin bổ sung khi quy định trong chuẩn mực kế toán không đủ để giúp cho người sử dụng hiểu được tác động của các giao dịch hoặc những sự kiện cụ thể đến tình hình tài chính, kết quả kinh doanh của doanh nghiệp .
Về nguyên tắc thì khi lập và trình bày báo cáo tài chính doanh nghiệp cần phải tuân thủ các nguyên tắc sau :
Nguyên tắc “hoạt động liên tục”:
Khi lập và trình bày báo cáo tài chính, Giám đốc (hoặc người đứng đầu) doanh nghiệp cần phải đánh giá về khả năng hoạt động liên tục của doanh nghiệp. Báo cáo tài chính phải được lập trên cơ sở giả định là doanh nghiệp đang hoạt động liên tục và sẽ tiếp tục hoạt động kinh doanh bình thường trong tương lai gần, trừ khi doanh nghiệp có ý định cũng như buộc phải ngừng hoạt động, hoặc phải thu hẹp đáng kể qui mô hoạt động của mình. Khi đánh giá, nếu Giám đốc (hoặc người đứng đầu) doanh nghiệp biết được có những điều không chắc chắn liên quan đến các sự kiện hoặc các điều kiện có thể gây ra sự nghi ngờ lớn về khả năng hoạt động liên tục của doanh nghiệp thì những điều không chắc chắn đó cần được nêu rõ. Nếu báo cáo tài chính không được lập trên cơ sở hoạt động liên tục, thì sự kiện này cần được nêu rõ, cùng với cơ sở dùng để lập báo cáo tài chính và lý do khiến cho doanh nghiệp không được coi là đang hoạt động liên tục. Để đánh giá khả năng hoạt động liên tục của doanh nghiệp, Giám đốc (hoặc người đứng đầu) doanh nghiệp cần phải xem xét đến mọi thông tin có thể dự đoán được tối thiểu trong vòng 12 tháng tới kể từ ngày kết thúc niên độ kế toán.
Nguyên tắc “cơ sở kế toán dồn tích”:
Nguyên tắc này yêu cầu doanh nghiệp phải lập báo cáo tài chính theo cơ sở kế toán dồn tích, ngoại trừ các thông tin liên quan đến các luồng tiền.Điều đó có nghĩa là: các giao dịch và sự kiện được ghi nhận vào thời điểm phát sinh, không căn cứ vào thời điểm thực thu, thực chi tiền và được ghi nhận vào sổ kế toán và báo cáo tài chính của các kỳ kế toán liên quan. Các khoản chi phí được ghi nhận vào Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh theo nguyên tắc phù hợp giữa doanh thu và chi phí.
Nguyên tắc “nhất quán”:
Nguyên tắc “nhất quán” đòi hỏi việc trình bày và phân loại các khoản mục trong báo cáo tài chính phải nhất quán từ niên độ này sang niên độ khác, trừ khi có sự thay đổi đáng kể về bản chất các hoạt động của doanh nghiệp hoặc khi xem xét lại việc trình bày báo cáo tài chính cho thấy rằng cần phải thay đổi để có thể trình bày một cách hợp lý hơn các giao dịch và các sự kiện; hoặc một chuẩn mực kế toán khác yêu cầu có sự thay đổi trong việc trình bày.
Nguyên tắc này cũng cho phép doanh nghiệp có thể trình bày báo cáo tài chính theo một cách khác khi mua sắm hoặc thanh lý lớn các tài sản, hoặc khi xem xét lại cách trình bày báo cáo tài chính. Việc thay đổi cách trình bày báo cáo tài chính chỉ được thực hiện khi cấu trúc trình bày mới sẽ được duy trì lâu dài trong tương lai hoặc nếu lợi ích của cách trình bày mới được xác định rõ ràng. Khi có thay đổi, thì doanh nghiệp phải phân loại lại các thông tin mang tính so sánh sao cho bảo đảm tính so sánh được, ngoài ra phải giải trình lý do và ảnh hưởng của sự thay đổi đó trong phần thuyết minh báo cáo tài chính.
Nguyên tắc “trọng yếu và tập hợp” :
Khi trình bày báo cáo tài chính, một thông tin được coi là trọng yếu nếu không trình bày hoặc trình bày thiếu chính xác của thông tin đó có thể làm sai lệch đáng kể báo cáo tài chính, làm ảnh hưởng đến quyết định kinh tế của người sử dụng báo cáo tài chính. Tính trọng yếu phụ thuộc vào quy mô và tính chất của các khoản mục được đánh giá trong các tình huống cụ thể nếu các khoản mục này không được trình bày riêng biệt. Tuỳ theo các tình huống cụ thể, tính chất hoặc quy mô của từng khoản mục có thể là nhân tố quyết định tính trọng yếu. Ví dụ, các tài sản riêng lẻ có cùng tính chất và chức năng được tập hợp vào một khoản mục, kể cả khi giá trị của khoản mục là rất lớn hoặc có thể tài sản này là có giá trị lớn so với công ty này và là khoản mục trọng yếu nhưng với công ty khác là có giá trị nhỏ thì không được coi là khoản mục trọng yếu.
Nguyên tắc “trọng yếu và tập hợp” chỉ rõ từng khoản mục trọng yếu phải được trình bày riêng biệt trong báo cáo tài chính. Các khoản mục không trọng yếu thì không phải trình bày riêng rẽ mà được tập hợp vào những khoản mục có cùng tính chất hoặc chức năng trong báo cáo tài chính hoặc thuyết minh báo cáo tài chính. Tuy nhiên, có những khoản mục không được coi là trọng yếu để có thể được trình bày riêng biệt trên báo cáo tài chính, nhưng lại được coi là trọng yếu để phải trình bày riêng biệt trong phần thuyết minh báo cáo tài chính. Theo nguyên tắc trọng yếu, doanh nghiệp không nhất thiết phải tuân thủ các quy định về trình bày báo cáo tài chính của các chuẩn mực kế toán cụ thể nếu các thông tin đó không có tính trọng yếu.
Nguyên tắc “bù trừ”:
Các khoản mục tài sản và nợ phải trả trình bày trên báo cáo tài chính không được bù trừ, trừ khi một chuẩn mực kế toán khác quy định hoặc cho phép bù trừ . Các khoản mục doanh thu, thu nhập khác và chi phí chỉ được bù trừ khi được quy định tại một chuẩn mực kế toán khác; hoặc các khoản lãi, lỗ và các chi phí liên quan phát sinh từ các giao dịch và các sự kiện giống nhau hoặc tương tự và không có tính trọng yếu.
Một số giao dịch ngoài hoạt động kinh doanh thông thường của doanh nghiệp thì được bù trừ khi ghi nhận giao dịch và trình bày báo cáo tài chính, ví dụ:
- Đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán ngắn hạn:
Lãi (lỗ) bán
chứng khoán
=
Thu bán
chứng khoán
-
Giá gốc
Chứng khoán
- Đối với hoạt động kinh doanh ngoại tệ:
Lãi (lỗ) mua, bán ngoại tệ
=
Thu bán
ngoại tệ
-
Giá mua
ngoại tệ
Các khoản mục được bù trừ được trình bày: Số lãi (hoặc lỗ thuần).
Nguyên tắc “so sánh”:
Yêu cầu của nguyên tắc này đó là các thông tin bằng số liệu trong báo cáo tài chính kì này phải đảm bảo so sánh được với các thông tin bằng số liệu trong báo cáo tài chính của kỳ trước. Các thông tin so sánh cần phải bao gồm cả các thông tin diễn giải bằng lời nếu điều này là cần thiết giúp cho những người sử dụng hiểu rõ được báo cáo tài chính của kỳ hiện tại.
Khi thay đổi cách trình bày hoặc cách phân loại các khoản mục trong báo cáo tài chính, thì phải phân loại lại các số liệu so sánh (trừ khi việc này không thể thực hiện được) nhằm đảm bảo khả năng so sánh với kỳ hiện tại, và phải trình bày tính chất, số liệu và lý do việc phân loại lại. Nếu không thể thực hiện được việc phân loại lại các số liệu tương ứng mang tính so sánh thì doanh nghiệp cần phải nêu rõ lý do và tính chất của những thay đổi nếu việc phân loại lại các số liệu được thực hiện. Trường hợp không thể phân loại lại các thông tin mang tính so sánh để so sánh với kỳ hiện tại, như trường hợp mà cách thức thu thập các số liệu trong các kỳ trước đây không cho phép thực hiện việc phân loại lại để tạo ra những thông tin so sánh, thì doanh nghiệp cần phải trình bày tính chất của các điều chỉnh lẽ ra cần phải thực hiện đối với các thông tin số liệu mang tính so sánh.
Cụ thể đối với Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh:
+ Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm phải trình bày số liệu so sánh theo từng chỉ tiêu tương ứng được lập cho kỳ kế toán năm trước gần nhất (Năm trước);
+ Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh lập theo kỳ kế toán quý phải trình bày số liệu của quý báo cáo và số lũy kế từ đầu năm đến ngày lập báo cáo tài chính quý và có thể có số liệu so sánh theo từng chỉ tiêu của Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh quý cùng kỳ năm trước (Quý này năm trước).
@Nói thêm về trách nhiệm lập và gửi báo cáo tài chính ,theo quy định của chế độ thì tất cả các doanh nghiệp độc lập, có tư cách pháp nhân đầy đủ đều phải lập và gửi báo cáo tài chính vào cuối mỗi quý. Giám đốc (hoặc người đứng đầu) doanh nghiệp chịu trách nhiệm về lập, trình bày và gửi báo cáo tài chính theo đúng các quy định của chế độ. Về thời hạn lập và nơi nhận báo cáo có thể chi tiết trên bảng sau:
Loại hình doanh nghiệp
Thời hạn lập báo cáo
Nơi nhận báo cáo
Cơ quan tài chính
Cục thuế
Cơ quan thống kê
Doanh nghiệp cấp trên
Cơ quan đăng kí kinh doanh
1.DN nhà nước
Quý, năm
.DN có vốn đầu tư nước ngoài
Năm
3.Các loại hình DN khác
Năm
-
Về đối tượng áp dụng : Hệ thống báo cáo tài chính năm được áp dụng cho tất cả các loại hình doanh nghiệp thuộc các ngành và các thành phần kinh tế. Riêng các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn tuân thủ các quy định chung tại phần này và những qui định, hướng dẫn cụ thể phù hợp với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chế độ kế toán doanh nghiệp vừa và nhỏ. Việc lập và trình bày báo cáo tài chính của các ngân hàng và tổ chức tài chính tương tự được quy định bổ sung ở Chuẩn mực kế toán số 22 "Trình bày bổ sung báo cáo tài chính của các ngân hàng và tổ chức tài chính tương tự" và các văn bản quy định cụ thể. Việc lập và trình bày báo cáo tài chính của các doanh nghiệp ngành đặc thù tuân thủ theo quy định tại chế độ kế toán do Bộ Tài chính ban hành hoặc chấp thuận cho ngành ban hành. Công ty mẹ và tập đoàn lập báo cáo tài chính hợp nhất phải tuân thủ quy định tại chuẩn mực kế toán “Báo cáo tài chính hợp nhất và kế toán khoản đầu tư vào công ty con”. Đơn vị kế toán cấp trên có các đơn vị kế toán trực thuộc hoặc Tổng công ty Nhà nước hoạt động theo mô hình không có công ty con phải lập báo cáo tài chính tổng hợp theo quy định tại Thông tư hướng dẫn kế toán thực hiện Chuẩn mực kế toán số 25“Báo cáo tài chính hợp nhất và kế toán khoản đầu tư vào công ty con”. Hệ thống báo cáo tài chính giữa niên độ (Báo cáo tài chính quý) được áp dụng cho các DNNN, các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán và các doanh nghiệp khác khi tự nguyện lập báo cáo tài chính giữa niên độ. Trong giới hạn của đề tài này, em xin được làm rõ về báo cáo kết quả kinh doanh năm của doanh nghiệp.
4) Nội dung và kết cấu của báo cáo kết quả kinh doanh theo quy định hiện hành ( quyết định 15/2006/QĐ/BTC) :
- Về nội dung: Báo cáo kết quả kinh doanh phản ánh tổng hợp doanh thu, chi phí và các kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sau mỗi kì hoạt động. Trong báo cáo này có nhiều chỉ tiêu liên quan đến doanh thu, chi phí của hoạt động kinh doanh và các chỉ tiêu liên quan đến thu nhập, chi phí khác cũng như toàn bộ kết quả các hoạt động của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu này đều được theo dõi chi tiết số năm trước, năm nay và số thứ tự chỉ tiêu được giải trình ở Bản thuyết minh báo cáo tài chính.
- Kết cấu của một bảng báo cáo kết quả kinh doanh gồm có 5 cột. Cụ thể:
Cột 1 “Chỉ tiêu”: phản ánh các chỉ tiêu của báo cáo.
Cột 2 “Mã số”: phản ánh mã số của các chỉ tiêu trong bảng.
Cột 3 “Thuyết minh” : phản ánh chỉ tiêu trên bản thuyết minh báo cáo tài chính.
Cột 4 “Năm nay” : phản ánh trị số của các chỉ tiêu trong kì báo cáo.
Cột 5 “Năm trước”: số liệu để ghi vào cột này được căn cứ vào số liệu ghi của báo cáo năm trước theo từng chỉ tiêu tương ứng.
5) Cơ sở số liệu và phương pháp lập báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh:
+ Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh được lập dựa trên nguồn số liệu sau:
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh kì trước
Hệ thống sổ kế toán tổng hợp , sổ chi tiết kì này các tài khoản từ loại 5 đến loại 9.
+Cách lập bảng và tính toán các chỉ tiêu trên báo cáo kết quả kinh doanh :
Với cột 1 ta ghi tên các chỉ tiêu, yêu cầu phải ghi đúng và ghi đủ tên các chỉ tiêu theo như quy định hiện hành. Mã số ghi ở cột 2 dùng để cộng khi lập báo cáo tài chính tổng hợp hoặc báo cáo tài chính hợp nhất. Số liệu ghi vào cột 3 “Thuyết minh” thể hiện số liệu chi tiết của chỉ tiêu này trong bản thuyết minh báo cáo tài chính năm. Số liệu ở cột 5 “Năm trước” kì này căn cứ vào số liệu ghi ở cột 4 “Năm nay” của từng chỉ tiêu tương ứng của báo cáo kết quả kinh doanh kì trước. Cột 3 phản ánh các chỉ tiêu có trên báo cáo thuyết minh tài chính. Các chỉ tiêu của năm nay sẽ được tính toán như sau:
Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ (Mã số 01) : phản ánh tổng số doanh thu bán hàng hóa, thành phẩm, bất động sản đầu tư và cung cấp dịch vụ trong năm báo cáo của doanh nghiệp . Số liệu phản ánh vào chỉ tiêu này là lũy kế số phát sinh bên Có TK 511 –“Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ” và TK 512 – “doanh thu bán hàng nội bộ”.
Các khoản giảm trừ (Mã số 02) : phản ánh tổng hợp các khoản giảm trừ vào tổng doanh thu trong năm, bao gồm : chiết khấu thương mại, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại và thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu và thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp phải nộp tương ứng với số doanh thu được xác định trong kì báo cáo. Số liệu để ghi vào chỉ tiêu này là số lũy kế phát sinh bên Nợ TK 511, 512 đối ứng với bên Có TK 521, 531, 532, 3331, 3332, 3333.
Doanh thu thuần về bán hàng và cung cấp dịch vụ (Mã số 10) : Chỉ tiêu này phản ánh số doanh thu bán hàng hóa , thành phẩm, bất động sản đầu tư và cung cấp dịch vụ sau khi đã trừ đi các khoản giảm trừ .
Mã số 10 = Mã số 01- Mã số 02
Giá vốn hàng bán (Mã số 11): Chỉ tiêu này phản ánh tổng giá vốn của hàng hóa, bất động sản đầu tư, giá thành sản xuất của thành phẩm đã bán, chi phí trực tiếp của khối lượng dịch vụ hoàn thành đã cung cấp, chi phí khác được tính vào giá vốn hoặc ghi giảm giá vốn hàng bán trong kì báo cáo. Số liệu để ghi vào chỉ tiêu này là lũy kế số phát sinh Có TK 632- “Giá vốn hàng bán” trong kì báo cáo đối ứng với bên Nợ TK 911.
Lợi nhuận gộp về bán hàng và cung cấp dịch vụ (Mã số 20) : Chỉ tiêu này phản ánh số chênh lệch giữa doanh thu thuần về bán hàng hóa, thành phẩm, bất động sản đầu tư và cung cấp dịch vụ với giá vốn trong kì báo cáo. Số liệu của chỉ tiêu này được tính như sau:
Mã số 20 = Mã số 10 – Mã số 11
Doanh thu hoạt động tài chính ( Mã số 21) : Chỉ tiêu này phản ánh tổng số doanh thu hoạt động tài chính thuần ( Tổng số doanh thu trừ thuế GTGT tính theo phương pháp trực tiếp) phát sinh trong kì báo cáo của doanh nghiệp. Số liệu để ghi vào chỉ tiêu này là lũy kế số phát sinh bên Nợ TK 515 – “Doanh thu hoạt động tài chính” đối ứng với bên Có TK 911.
Chi phí tài chính ( Mã số 22): Chỉ tiêu này phản ánh tổng số chi phí tài chính, gồm tiền lãi vay phải trả, chi phí bản quyền, chi phí hoạt động liên doanh phát sinh trong kì báo cáo của doanh nghiệp . Số liệu để ghi vào chỉ tiêu này là lũy kế số phát sinh bên Có TK 635 – “Chi phí tài chính” đối ứng với bên Nợ TK 911.
Chi phí lãi vay (Mã số 23) : phản ánh chi phí lãi vay phải trả được tính vào chi phí tài chính trong kì báo cáo. Số liệu để ghi vào chỉ tiêu này được tính căn cứ vào sổ kế toán chi tiết TK635.
Chi phí bán hàng ( Mã số 24): Chỉ tiêu này phản ánh tổng chi phí bán hàng phân bổ cho thành phẩm, hàng hóa đã bán trong kì. Số liệu để ghi vào chỉ tiêu này là tổng cộng phát sinh Có TK 641 – “Chi phí bán hàng” với phát sinh có TK 1422 – “Chi phí chờ kết chuyển” chi tiết phần chi phí bán hàng, đối ứng với Nợ TK 911 –“Xác định kết quả kinh doanh kì báo cáo”.
Chi phí quản lí doanh nghiệp (Mã số 25) : Chỉ tiêu này phản ánh tổng chi phí quản lí doanh nghiệp phân bổ cho thành phẩm, hàng hóa đã bán trong kì. Số liệu để ghi vào chỉ tiêu này là tổng cộng phát sinh Có TK 642 – “Chi phí quản lí doanh nghiệp” và phát sinh Có TK 1422 – “Chi phí chờ kết chuyển” chi tiết phần chi phí quản lí doanh nghiệp , đối ứng với bên Nợ TK 911 – “Xác định kết quả kinh doanh kì báo cáo”.
Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh (Mã số 30): Chỉ tiêu này phản ánh kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động tài chính trong kì báo cáo. Chỉ tiêu này được tính toán dựa trên cơ sở lợi nhuận thuần về bán hàng và cung cấp dịch vụ cộng doanh thu hoạt động tài chính trừ đi chi phí tài chính, chi phí bán hàng, chi phí quản lí doanh nghiệp phân bổ cho hàng hóa, thành phẩm, dịch vụ đã tiêu thụ trong kì báo cáo.
Mã số 30 = Mã số 20 + 21 – 22 – 24 – 25 .
Thu nhập khác (Mã số 31) : Chỉ tiêu này phản ánh các khoản thu nhập khác ( sau khi đã trừ đi thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp) ngoài hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động tài chính phát sinh trong kì báo cáo. Số liệu để ghi vào chỉ tiêu này là phát sinh Nợ TK 711 – “Thu nhập khác”, đối ứng với bên Có TK 911 – “Xác định kết quả kinh doanh kì báo cáo”.
Chi phí khác (Mã số 32): chỉ tiêu này phản ánh các khoản chi phí khác phát sinh trong kì báo cáo. Số liệu để ghi vào chỉ tiêu này là phần phát sinh Có TK 811 – “Chi phí khác” đối ứng với bên Nợ TK 911.
Lợi nhuận khác (Mã số 40) : Chỉ tiêu này phản ánh khoản chênh lệch giữa các khoản thu nhập khác với chi phí khác.
Mã số 40 = Mã số 31 – Mã số 32.
Tổng lợi nhuận kế toán trước thuế ( Mã số 50): Chỉ tiêu này cho biết tổng số lợi nhuận kế toán thực hiện được trong năm báo cáo của doanh nghiệp trước khi trừ đi chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp từ hoạt động kinh doanh, hoạt động khác phát sinh trong kì báo cáo.
Mã số 50 = Mã số 30 + Mã số 40.
Chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành (Mã số 51): Phản ánh chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành phát sinh trong năm báo cáo. Số liệu để ghi vào chỉ tiêu này căn cứ vào số phát sinh bên Có TK 8211 đối ứng với bên Nợ TK 911 hoặc số phát sinh bên Nợ TK 8211 đối ứng với bên Có TK 911 [ trường hợp này ghi bằng số âm (…) ].
Chi phí thuế doanh nghiệp hoãn lại ( Mã số 52) : Phản ánh chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp hoãn lại hoặc thu nhập thuế thu nhập hoãn lại phát sinh trong năm báo cáo. Số liệu để ghi vào chỉ tiêu này căn cứ vào số phát sinh bên Có TK 8212 đối ứng với bên Nợ TK 911 hoặc số phát sinh bên Nợ TK 8212 đối ứng với bên Có TK 911 [ Trường hợp này ghi bằng số âm (…) ].
Lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp ( Mã số 60) : phản ánh tổng lợi nhuận thuần (hoặc lỗ) sau thuế từ các hoạt động của doanh nghiệp (sau khi trừ đi chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp) phát sinh trong năm báo cáo.
Mã số 60 = Mã số 50 – Mã số 51 – Mã số 52.
18. Lãi cơ bản trên cổ phiếu (Mã số 70) : chỉ tiêu này chỉ áp dụng đối với các công ty cổ phần. Chỉ tiêu này được xác định dựa vào công thức:
Lãi cơ bản trên cổ phiếu
=
Lợi nhuận hoặc lỗ phân bổ cho cổ đông sở hữu cổ phiếu phổ thông
Số bình quân gia quyền của cổ phiếu đang lưu hành trong kì
CHƯƠNG II :ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN BCKQKD VỚI VIỆC PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP .
I) Thực trạng lập và trình bày báo cáo kết quả kinh doanh trong các doanh nghiệp hiện nay:
- Số liệu trên báo cáo kết quả kinh doanh giúp cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp biết được những thông tin cơ bản cần thiết nhất về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, và đó là cơ sở, là căn cứ quan trọng để đưa ra các quyết định đầu tư, hợp tác…. Tuy nhiên đối với các nhà quản trị doanh nghiệp, nếu chỉ dựa vào báo cáo kết quả kinh doanh thì chưa thể có đủ căn cứ và cơ sở để đưa ra các quyết định quản trị có tính chiến lược cho doanh nghiệp của mình . Bởi vì số liệu trên báo cáo kết quả kinh doanh khi tính toán, trình bày phải tuân thủ các chuẩn mực kế toán, theo đúng các chế độ và các quy định hiện hành, thông tin đưa ra mang tính bắt buộc, trọng tâm của thông tin là cần chính xác, khách quan và tổng thể, vì vậy các thông tin có thể cứng nhắc, chưa chú ý tới tính linh hoạt, kịp thời, thích ứng với sự vận động và biến đổi liên tục của nền kinh tế. Bên cạnh đó thì báo cáo kết quả kinh doanh chỉ sử dụng thước đo giá trị chứ không sử dụng đến thước đo hiện vật và thước đo thời gian, nên nó sẽ không giúp nhà quản trị đánh giá về hiệu quả, hiệu năng trong quá trình hoạt động. Có thể lấy ví dụ như :các nhà quản trị không thể biết được trong doanh nghiệp bộ phận nào, phân xưởng nào tạo ra được nhiều lợi nhuận nhất, bộ phận nào phát sinh nhiều chi phí và thu được ít kết quả. Tóm lại là không thể biết được bộ phận nào hoạt động hiệu quả, bộ phận nào không, và như vậy sẽ không thể quyết định được cần tăng cường, phát triển hoặc thu hẹp quy mô của bộ phận nào…. Hoặc thông tin trên báo cáo kết quả kinh doanh cũng không thể phản ánh kịp thời và linh hoạt các vấn đề, nghiệp vụ kinh tế phát sinh ngày một trong doanh nghiệp và như vậy nó cũng không phải là công cụ đắc lực trong hoạt động hàng ngày của các nhà quản trị mà nó chỉ có tác dụng hỗ trợ, giúp đỡ các nhà quản trị trong quá trình ra quyết định. Một điểm nữa là trong đa số các doanh nghiệp hiện nay việc phân tích các báo cáo tài chính chưa được thực hiện một cách chuyên nghiệp, thường chi có các công ty lớn mới chú ý lập, còn công ty nhỏ, khi báo cáo kết quả kinh doanh được lập ra, cũng tương tự như các báo cáo tài chính khác, chúng ít được chú trọng đúng mức, đôi khi các kế toán viên lập ra chúng cũng chính là những người ngồi lại để phân tích chúng luôn. Thêm vào đó, công tác phân tích tài chính ở các doanh nghiệp hầu như không theo quy trình. Điều này cũng là một yếu tố làm giảm tính khách quan, chất lượng phân tích thấp, thời gian không đảm bảo, thiếu linh hoạt trong quá trình phân tích, không phát hiện ra được các sai phạm trong hệ thống kế toán, làm đáng kể tác dụng của hệ thống báo cáo tài chính trong doanh nghiệp
- Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, khi thị trường chứng khoán phát triển rất nóng, rất mạnh, nhu cầu đầu tư của các nhà đầu tư, các ngân hàng tương đối lớn….. ngoài việc nộp báo cáo tài chính cho các cơ quan chức năng, doanh nghiệp còn cần phải công bố công khai các báo cáo tài chính cho các đối tượng quan tâm bên ngoài .Tính hữu ích của báo cáo tài chính sẽ giảm đi rất lớn nếu chúng không được công bố cho những người sử dụng bên ngoài trong một thời gian hợp lí sau ngày khóa sổ kế toán. Tuy nhiên các văn bản pháp quy ở Việt Nam mới chỉ ấn định thời hạn lập và nộp cho các cơ quan chức năng nhưng chưa quy định thời hạn công khai báo cáo tài chính của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cho các đối tượng bên ngoài. Điều này có thể dẫn tới việc đầu tư kém hiệu quả do thiếu thông tin của các nhà đầu tư, và nó cũng làm giảm sức thu hút, hấp dẫn của doanh nghiệp.
- Trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, có 2 hoạt động tạo ra doanh thu cho doanh nghiệp là lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh ( Mã số 30) và lợi nhuận khác ( Mã số 40 ). Tổng hợp số liệu từ mã số 30 và mã số 40 ta thu được lợi nhuận kế toán trước thuế khiến cho người đọc báo cáo dễ hiểu rằng trong doanh nghiệp chỉ xảy ra 2 hoạt động (vì thu nhập và chi phí của hoạt động tài chính đã đưa vào chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh). Thế nhưng khi chuyển sang báo cáo lưu chuyển tiền tệ thì ta lại thấy xuất hiện cả 3 luồng tiền của 3 hoạt động ( luồng tiền từ hoạt động kinh doanh, luồng tiền từ hoạt động đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36012.doc