Đề tài Đánh giá tính dễ tổn thương của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

MỤC LỤC

Chương 1. Lý luận tổng quan về tính dễ tổn thương của các ngân hàng thương mại. 1

1.1 Khái niệm về tính dễ tổn thương của các ngân hàng thương mại . . 1

1.2 Nguyên nhân của tính dễ tổn thương của các ngân hàng thương mại . . 1

1.3 Các nhân tố tác động đến tính dễ tổn thương của các ngân hàng thương mại . 4

1.3.1 Các nhân tố nội sinh . . . . 4

1.3.1.1 Rủi ro thanh khoản – sự mất cân đối giữa tài sản nợ và tài sản có . 4

1.3.1.2 Rủi ro tín dụng - Sự quản lý và giám sát tín dụng . . 5

a. Tỷ lệ nợ xấu. . . . 7

b. Tỷ lệ nợ quá hạn . . . . 8

c. Hệ số rủi ro tín dụng. . . . 8

d. Phương pháp đánh giá rủi ro – VAR. . . 8

1.3.1.3 Khả năng quản trị, điều hành và rủi ro đạo đức . . 9

1.3.1.4 Hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ . . . 10

1.3.1.5 Sự hợp tác giữa các ngân hàng thương mại . . 10

1.3.2 Các nhân tố ngoại sinh . . . . 11

1.3.2.1 Rủi ro của quá trình tự do hoá tài chính, hội nhập quốc tế . . 11

1.3.2.2 Rủi ro môi trường pháp lý. . . 11

1.3.2.3 Rủi ro về giá . . . . 11

a. Rủi ro lãi suất . . . . 11

b. Rủi ro tỷ giá hối đoái . . . . 12

1.3.2.4 Rủi ro hệ thống khác . . . 14

1.4 Nội dung tính dễ tổn thương – các tiêu chuẩn trên thế giới và Việt Nam để đánh giá mức độ

tổn thương của các ngân hàng thương mại. . . 15

1.4.1 Mức độ ổn định trong hoạt động của các ngân hàng thương mại . 15

1.4.1.1 Ổn định trong huy động vốn . . . 15

1.4.1.2 Ổn định trong hoạt động cho vay. . . 17

1.4.2 Mức độ an toàn trong hoạt động của các ngân hàng thương mại. . 18

1.4.2.1 Đánh giá theo các tiêu chuẩn trong Hiệp ước Basel I và II . . 18

a. Basel I. . . . 18

b. Basel II . . . . 19

1.4.2.2 Đánh giá theo các qui định tại Việt Nam . . 24

a. Quyết định số 457 qui định về tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng . 24

b. Quyết định 493 về phân loại nợ và trích lập dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong

hoạt động ngân hàng . . . . 26

Kết luận chương 1 . . . . 29

Chương 2. Các nghiên cứu và bằng chứng thực nghiệm trên thế giới về tính dễ tổn thương

của các ngân hàng thương mại. . . . 30

2.1 Xem xét tính dễ tổn thương của các ngân hàng Mỹ trong cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ 30

2.1.1 Sơ lược về cuộc khủng hoảng Mỹ. . . 30

2.1.2 Những tổn thương của các ngân hàng Mỹ trong cuộc khủng hoảng tài chính – Đánh

giá theo mô hình CAMELS . . . . 30

2.1.2.1 Mức độ an toàn vốn (Capital Adequacy) . . 34

2.1.2.2 Chất lượng tài sản có (Asset Quality) . . . 35

2.1.2.3 Quản lý (Management) . . . 37

2.1.2.4 Lợi nhuận (Earnings) . . . 38

2.1.2.5 Thanh khoản (Liquidity) . . . 39

2.1.2.6 Mức độ nhạy cảm với rủi ro thị trường (Sensitivity to Market Risk) . 40

2.1.3 Bài học rút ra từ cuộc khủng hoảng Mỹ cho các ngân hàng . . 41

2.2 Nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới để hạn chế tính dễ tổn thương của các ngân hàng

thương mại . . . . . 44

2.2.1 Áp dụng các tiêu chuẩn trong Hiệp ước Basel II tại Hàn Quốc . . 44

2.2.2 Cách hạn chế tính dễ tổn thương của các NHTM thông qua các biện pháp quản trị rủi

ro tại một số nước trên thế giới . . . . 45

Kết luận chương 2 . . . . 48

Chương 3. Đánh giá tính dễ bị tổn thương của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam

trong giai đoạn hiện nay . . . . 49

3.1 Đôi nét về thị trường ngân hàng Việt Nam hậu WTO . . 49

3.1.1 Đôi nét về nền kinh tế Việt Nam sau ba năm gia nhập WTO . . 49

3.1.2 Thị trường ngân hàng việt Nam hậu WTO . . . 49

3.2 Đánh giá tính dễ tổn thương của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn hiện

nay theo các tiêu chuẩn định lượng . . . 51

3.2.1 Mức độ ổn định trong hoạt động của các ngân hàng thương mại . 51

3.2.1.1 Ổn định trong huy động vốn . . . 51

3.2.1.2 Ổn định trong hoạt động cho vay. . . 55

3.2.1.3 Ổn định trong thu nhập . . . 58

3.2.2 Mức độ an toàn trong hoạt động của các ngân hàng thương mại. . 60

3.2.2.1 Về vốn tự có và tỷ lệ an toàn vốn . . . 60

3.2.2.2 Phân loại và đánh giá về nợ xấu của các ngân hàng . . 64

Kết luận chương 3 . . . . 67

Chương 4. Các giải pháp nhằm khắc phục tính dễ tổn thương của hệ thống ngân hàng

thương mại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay . . . 68

4.1 Quản lý điều hành và Chính sách của Chính phủ, ngân hàng nhà nước Việt Nam . 68

4.1.1 Đối với chính phủ . . . . 68

4.1.2 Đối với NHNN Việt Nam . . . 69

4.2 Bên trong các ngân hàng - Tái cấu trúc hoạt động của ngân hàng thương mại. 71

4.2.1 Chiến lược về nguồn vốn, tỷ lệ dự trữ . . . 71

4.2.2 Hoạt động quản lý điều hành hoạt động của ngân hàng. . 72

4.2.3 Chiến lược chính sách nguồn nhân lực . . . 73

4.2.4 Minh bạch hoá tài chính . . . 74

4.2.5 Hệ thống công nghệ thông tin . . . 75

4.2.6 Chế độ bảo hiểm tiền gửi . . . 75

4.2.7 Áp dụng các mô hình quản trị rủi ro theo khung VAR . . 76

4.3 M&A – Hướng đi cho các ngân hàng trong tương lai gần . . 77

4.4 Sự hỗ trợ và hợp tác của các tổ chức quốc tế . . . 78

Kết luận chương 4 . . . . 79

Kết luận . . . . . 80

pdf107 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2071 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá tính dễ tổn thương của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của việc không thực hiện tốt chức năng hoạt động của ngân hàng thương mại, mà các nhà quản lý ngân hàng đã lấn sân sang hoạt động thị trường tài chính quá nhiều, chính sách dễ dãi trong việc cho vay tín dụng với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận cao mà bất chấp rủi ro cao mà ngân hàng sẽ gặp phải. 2.1.2.4 Lợi nhuận (Earnings) Lợi nhuận là chỉ số quan trọng nhất để đánh giá công tác quản lý và các hoạt động chiến lược của nhà quản lý thành công hay thất bại. Lợi nhuận sẽ dẫn đến hình thành thêm vốn, đây là điều hết sức cần thiết để thu hút thêm vốn và sự hỗ trợ phát triển trong tương lai từ phía các nhà đầu tư. Lợi nhuận còn cần thiết để bù đắp các khoản cho vay bị tổn thất và trích dự phòng đầy đủ. Bốn nguồn 39 thu nhập chính của ngân hàng là: Thu nhập từ lãi, thu nhập từ lệ phí, hoa hồng, thu nhập từ kinh doanh mua bán, thu nhập khác. Bảng 2.3: Các khoản lỗ của các định chế tài chính lớn trên thế giới (tỷ USD) (10/2008) Tên định chế Khoản lỗ Tên định chế Khoản lỗ Bank of America 27.4 Barclays 7.0 Citigroup 68.1 Credit Suisse 14.0 Goldman Sachs 4.9 Deutsche Bank 9.3 JP Morgan 20.5 Fortis 8.5 Lehman Brothers 13.8 Halifax-Bank of Scotland 6.1 Merrill Lynch 58.1 HSBC 27.4 Morgan Stanley 15.7 ING 8.1 Wachovia 96.5 Royal Bank of Scotland 12.8 Washington Mutual 45.6 UBS 44.2 Wells Fargo 17.7 Nguồn: Financial stability report/November 2008/Reserve Bank of New Zealand. 2.1.2.5 Thanh khoản (Liquidity) Có hai nguyên nhân giải thích tại sao thanh khoản lại có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với ngân hàng. Thứ nhất, cần phải có thanh khoản để đáp ứng yêu cầu vay mới mà không cần phải thu hồi những khoản cho vay đang trong hạn hoặc thanh lý các khoản đầu tư có kỳ hạn. Thứ hai, cần có thanh khoản để đáp ứng tất cả các biến động hàng ngày hay theo mùa vụ về nhu cầu rút tiền một cách kịp thời và có trật tự. Do ngân hàng thường xuyên huy động tiền gửi ngắn hạn (với lãi suất thấp) và cho vay số tiền đó với thời hạn dài hạn (lãi suất cao hơn) nên ngân hàng về cơ bản luôn có nhu cầu thanh khoản rất lớn. Mà thanh khoản ảnh hưởng đến lòng tin của người gửi tiền và người cho vay. Thanh khoản kém mới là nguyên nhân trực tiếp của hầu hết các trường hợp đổ vỡ ngân hàng. Quỹ phòng chống rủi ro của Mỹ từng cho rằng, khi các vấn đề nảy sinh, họ hoàn toàn có thể tháo gỡ từng vấn đề một cách ổn thỏa. Nhưng trên thực tế lúc đó đã không còn sự hiện diện của bất kỳ một khách hàng nào nữa - mọi người mua đều đã ra đi. Điều tương tự cũng xảy ra với Merrill Lynch, WaMu và một số tập đoàn khác. Tâm lý hoang mang, sợ hãi lan nhanh trong thị trường tới nỗi không một ai muốn bỏ tiền ra mua lại các khoản nợ của họ - dù ở bất kỳ mức giá nào. Chính quyền của Tổng thống Mỹ G.Bush trong tháng 11/2008 đã cung cấp thêm 33,56 tỉ USD cho 21 ngân hàng đang gặp khó khăn của nước này. Đây là đợt bơm vốn thứ hai cho các ngân 40 hàng, bằng tiền lấy từ quỹ cứu vãn thị trường trị giá 700 tỉ USD. Chính phủ Mỹ trước đó đã chi 125 tỉ USD để mua lại cổ phiếu của các ngân hàng gặp khó khăn. Đại gia ngân hàng số 2 của Mỹ là Citigroup đã nhận được khoản cứu trợ trị giá 25 tỉ USD. Năm 2008, Citigroup đã cắt giảm 95.000 nhân công trong tổng số 375.000 người. Citigroup là thể chế tài chính bị thiệt hại nặng nhất trong cuộc khủng hoảng tín dụng vừa qua, với khoản thua lỗ lên tới 20,4 tỉ USD. Trong năm nay, cổ phiếu của Citigrroup mất gần 70% và tập đoàn này mất 1/3 giá trị trong 2 tuần gần đây. Một trong những ngân hàng thương mại lớn nhất nước Mỹ - Washington Mutual Inc (WaMu) - đã sụp đổ do sức nặng của những khoản nợ xấu kếch sù liên quan đến thị trường cho vay thế chấp. WaMu được bán lại cho JPMorgan Chase & Co với giá 1,9 tỉ USD. WaMu được thành lập từ năm 1889, có tổng tài sản trị giá 307 tỉ USD, là ngân hàng tiết kiệm lớn nhất ở Mỹ. WaMu đã lâm vào tình trạng thua lỗ nặng nề một phần do các khoản nợ xấu liên quan tới cho vay cầm cố địa ốc, phần khác do sự tháo chạy của các khách hàng gửi tiết kiệm. Giá cổ phiếu ngân hàng này giảm 95% trong vòng 1 năm qua và chỉ còn 0,45USD/CP lúc bị tiếp quản. 2.1.2.6 Mức độ nhạy cảm với rủi ro thị trường (Sensitivity to Market Risk) Mức độ nhạy cảm với rủi ro thị trường được thể hiện bằng chữ cái S (Sensitivity) trong hệ thống phân tích CAMELS. Phân tích S nhằm đo lường mức độ ảnh hưởng của thay đổi về lãi suất và/hoặc tỷ giá đến giá trị của lợi nhuận hay vốn cổ phần. Phân tích S quan tâm đến khả năng của ban lãnh đạo ngân hàng trong việc xác định, giám sát, quản lý và kiểm soát rủi ro thị trường, đồng thời đưa ra dấu hiệu chỉ dẫn định hướng rõ ràng và tập trung. Trong cuộc khủng hoảng Mỹ vừa qua, nhân tố này được nhóm nghiên cứu đánh giá là một rủi ro liên quan đến tính đỗ vỡ mang tính hệ thống của các công ty tài chính và ngân hàng. Đây là thứ mà chúng ta thường gọi là hiệu ứng domino, lần lượt các công ty tài chính và các ngân hàng của Mỹ đã bị phá sản hoặc bị mua lại do các khoản nợ, các khoản chứng khoán hoá trở nên tồi tệ trong mối liên kết với nhau. Các ngân hàng tại Mỹ trong những năm gần đây đã trở nên rất nhạy cảm với những rủi ro mang tính hệ thống này bởi chính những công cụ do bản thân chúng nghĩ ra khi tìm kiếm lợi nhuận. 41 Diễn biến lãi suất Mỹ trong từ 2001 – 2008 Trong 8 năm, tính từ 2004, FED đã nâng lãi suất cơ bản đồng USD từ 1% được duy trì gần 1 năm lên tới mức 5,25% năm 2007. Nhưng kể từ ngày 18/9/2007 đến 29/10/2008, FED đã liên tục cắt giảm lãi suất nhiều lần từ 5,25% xuống mức rất thấp là 1%. Việc liên tục giảm lãi suất của FED đã làm bùng nổ tín dụng, mà các ngân hàng thì thi nhau chạy đua để kiếm lợi nhuận, lách qua khe hở quản lý lỏng lẻo của Chính phủ, mà thật ra cũng có phần trách nhiệm từ Chính phủ khi “thả” cho các ngân hàng cho người dân vay dưới chuẩn. Các nhà quản lý của ngân hàng vô tư chạy theo con đường tìm kiếm lợi nhuận khổng lồ có bàn tay che đỡ của Chính phủ. Với việc bùng nổ tín dụng tăng nhanh chóng, thế nhưng chính phủ cũng như cục dự trữ Liên bang Mỹ FED đã không có những biện pháp kiểm soát, quản lý chặt chẽ những hoạt động của các ngân hàng thương mại và đã để cho các ngân hàng hoạt động một cách “vô kỷ luật” với các mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận của chúng. Việc phát triển mạnh của hình thức cho vay thế chấp dưới tiêu chuẩn đi kèm với sự bùng nổ thị trường nhà đất của Mỹ là hệ quả của việc lãi suất giảm xuống mức thấp kỷ lục, các tiêu chuẩn cho vay nới lỏng. Theo nhóm nghiên cứu thì đây là một loại rủi ro mang tính hệ thống mà cũng đã góp phần tạo nên cơn đại khủng hoảng vừa qua. 2.1.3 Bài học rút ra từ cuộc khủng hoảng Mỹ cho các ngân hàng Mặc dù cuộc khủng hoảng chưa kết thúc và cần thời gian để kiểm định, nhưng có thể rút ra 3 bài học lớn từ cuộc khủng hoảng tài chính của Mỹ hiện nay: Thứ nhất, không có ngoại lệ và miễn dịch phá sản cho bất kỳ đại gia nào trong cuộc chơi trên sân kinh tế thị trường. Nói cách khác, một doanh nghiệp hay một ngân hàng, tổ chức tài chính dù lớn đến đâu, thâm niên dài bao nhiêu và trước đó có thành công như thế nào, cũng có thể sụp đổ nếu vi phạm luật chơi, mà cụ thể ở cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ hiện nay là vi phạm chuẩn cho vay bất động sản có sự dung túng của chính phủ… 42 Thứ hai, vai trò của công tác thông tin, dự báo và giám sát, cảnh báo an toàn, nhất là an toàn hệ thống tài chính – ngân hàng là hết sức quan trọng và không thể coi nhẹ trong bất luận trường hợp nào và vào thời điểm nào… Ngoài ra, cần luôn tỉnh táo với các tác động lan tỏa, dây chuyền của các sự biến kinh tế trên thị trường trong nước và quốc tế. Cần dập ngòi khủng hoảng từ khi nó còn nhen nhóm, thay vì khi nó đã thành đám cháy mạnh và lan rộng, thì chi phí là khó đo lường, nhất là với một nước còn nghèo và các thiết chế thị trường còn chưa phát triển, hoàn thiện. Thứ ba, nhà nước có vai trò không thể thiếu được và ngày càng to lớn trong cuộc chiến với các chấn động kinh tế chu kỳ hoặc bộc phát, nhất là khủng hoảng tài chính - ngân hàng, dù nó xảy ra không trực tiếp từ sai lầm của chính phủ hoặc trong khu vực kinh tế nhà nước… Tuy nhiên, sự can thiệp này phải tuân thủ các yêu cầu và lợi ích thị trường, không làm xấu đi sự ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm hài hòa các lợi ích, nhất là không đổ gánh nặng khủng hoảng lên người dân, người tiêu dùng. Sử dụng các công cụ nợ, biến nợ xấu thành chứng khoán có thể mua – bán trên thị trường nợ là một trong các lựa chọn cần thiết và hiệu quả trong trường hợp này và cho mục tiêu đó. Sự thật là Chính phủ Mỹ đã kiểm soát hệ thống ngân hàng quá lỏng lẻo. Ngân hàng phải là chỗ bảo đảm cho dân chúng thác gởi, khác với các quỹ đầu tư là nơi sinh lời (hay lỗ). Đầu thập niên 80 nền kinh tế Mỹ bị trì trệ nên chính quyền Reagan nới lỏng các biện pháp kiểm soát, ngân hàng tiến vào các lãnh vực đầu tư và tín dụng. Nguồn tiền này mang đến những cơ hội đầu tư mới giúp các ngân hàng sinh lời và tăng trưởng trong nhiều năm. Nhưng từ đó các ngân hàng lại lao vào các khoảng đầu tư quá nhiều rủi ro, đến khi quả bóng địa ốc bị vỡ năm 2007 thì nhiều ngân hàng lớn gần sập tiệm kéo theo sự đe doạ toàn bộ nền kinh tế nước Mỹ và toàn cầu. Lợi nhuận của Ngân hàng đầu tư (hình thức ngân hàng phổ biến tại Mỹ và là một dạng cỗ máy hái ra nhiều tiền của) thông thường đến từ 3 hoạt động. Một là từ huy động vốn và M&A, Ngân hàng đầu tư được hưởng một khoản phí trên số tiền huy động được cho khách hàng. Hai là từ môi giới, Ngân hàng đầu tư được nhận một khoản phí để mua và bán cổ phiếu trên sàn chứng khoán và ba là từ đầu tư (Ngân hàng đầu tư có thể được hoặc mất những khoản tiền dựa trên giá trị khoản đầu tư). Hầu hết lợi nhuận của các Ngân hàng đầu tư nhỏ chỉ đến từ các hoạt động thuộc nhóm 1, nhưng các Ngân hàng đầu tư lớn đều tạo lợi nhuận trên cả 3 hoạt động. Theo đánh giá của các chuyên gia ngân hàng đầu tư, phần lớn rủi ro thường đến từ hoạt động thứ 3 (hoạt động đầu tư), vì nó phụ thuộc rất nhiều vào biến động thị trường. Tuy nhiên, còn có một rủi ro rất lớn mà các Ngân hàng đầu tư có thể phải đối mặt và được xem là bài học xương máu cho tất cả những nhà kinh doanh ngân hàng đầu tư, đặc biệt là Ngân hàng đầu tư “thuần”. 43 Giả sử có một ngân hàng đầu tư A, có cùng mô hình với Lehman Brothers, ngân hàng đầu tư đã tự xóa sổ trên bản đồ tài chính nước Mỹ năm 2008. Nếu tổng vốn của A là 34 (trong đó, vốn chủ sở hữu là 1, vốn vay từ ngân hàng, phát hành trái phiếu là 33) thì tài sản tương ứng là 34. Giả sử khi giá cổ phiếu của A giảm 50% (do tác động bất lợi của thị trường) thì phần tài sản chỉ còn 17, trong khi vốn vay quá lớn (33) đến hạn phải trả thì Ngân hàng đầu tư có thể mắc phải 2 rủi ro lớn. Rủi ro đầu tiên là Ngân hàng đầu tư này không tạo được lợi nhuận kế toán. Nhưng rủi ro lớn hơn nhiều là A không có tiền mặt (có thể mở rộng là vàng, kim cương, trái phiếu chính phủ có thể mua bán ngay lập tức để tạo ra tiền mặt) và cũng không thể huy động tiền mặt ngắn hạn (do không phải là ngân hàng thương mại), dẫn đến việc A có thể sụp đổ ngay lập tức. Đó chính là tình cảnh của nhiều Ngân hàng đầu tư Mỹ trong cơn bão tài chính năm 2008. Và bài học rút ra ở đây cho mô hình Ngân hàng đầu tư cũng là bài học cơ bản nhất, là “vay quá nhiều thì một là thắng trước, hai là thua trước”. Đây cũng chính là lý do nhiều ngân hàng đầu tư quốc tế ngày nay đang hướng đến mô hình ngân hàng đa năng. Các bài học khác được rút ra sau khủng hoảng tài chính Mỹ cũng đã được Chính quyền Mỹ đưa ra trong kế hoạch cải tổ hệ thống tài chính nước này (Phụ lục 1). 44 2.2 Nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới để hạn chế tính dễ tổn thương của các ngân hàng thương mại 2.2.1 Áp dụng các tiêu chuẩn trong Hiệp ước Basel II tại Hàn Quốc Có thể nói, áp dụng Basel II là một biện pháp cực kỳ hiệu quả trong công tác hạn chế tính dễ tổn thương của các ngân hàng thương mại của chính bản thân các ngân hàng. Về thực nghiệm áp dụng Basel II, Hàn Quốc là một điển hình rõ nét. Tại Hàn Quốc, các ngân hàng thương mại của Hàn Quốc có kế hoạch thực hiện lộ trình ứng dụng Basel II bắt đầu từ tháng 1 năm 2002 và hi vọng sẽ thực hiện thành công vào 1/1/2008 (theo báo cáo của Goo Yong Ahn – Phó Vụ trưởng Vụ ổn định hệ thống tài chính thuộc Ngân hàng trung ương Hàn Quốc). Trong khảo sát của Goo Yong Ahn có đưa ra tình trạng áp dụng phương pháp IRB để xác định đúng thực tế mức độ rủi ro của từng trạng thái rủi ro gồm các khoản cho vay doanh nghiệp, cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho vay bán lẻ, cho vay thế chấp bất động sản, chứng khoán hoá, góp vốn cổ phần và các trạng thái không cân bằng khác. Khi áp dụng phương pháp mới trong Hiệp ước Basel II, hệ số rủi ro của các khoản vay có tính thay đổi linh động và phù hợp hơn với thực tế chứ không còn cố định như các phương pháp hiện tại, nó giúp việc đánh giá rủi ro được tốt hơn tùy theo từng mức độ rủi ro của từng khoản vay. Bảng 2.4: So sánh hệ số rủi ro của các khoản vay tại Hàn Quốc (%) Hiện tại SA IRB Cho vay thế chấp nhà 50 35 3 - 48 Cho vay bán lẻ 100 75 5 - 52 Bảng 2.5: Ảnh hưởng của phương pháp Basel II đến hệ số rủi ro quy đổi Rủi ro Trạng thái rủi ro SA F - IRB A - IRB Hệ số rủi ro tín dụng Cho vay doanh nghiệp Tăng Tăng - Cho vay SMEs Tăng - Giảm Cho vay bán lẻ Giảm Giảm Giảm Cho vay thế chấp bất động sản Giảm Giảm Giảm Chứng khoán hoá Tăng Tăng Tăng Góp vốn cổ phần Tăng Tăng Tăng Các tài sản trạng thái rủi ro không được cân bằng Tăng Tăng Tăng 45 Trong đó: SA : phương pháp chuẩn hóa. F-IRB : phương pháp cơ sở dựa trên hệ thống xếp hạng nội bộ. A-IRB : phương pháp nâng cao dựa trên hệ thống xếp hạng nội bộ. 2.2.2 Cách hạn chế tính dễ tổn thương của các NHTM thông qua các biện pháp quản trị rủi ro tại một số nước trên thế giới Quản trị rủi ro tốt là cách tốt nhất để có thể ngăn chặn tính dễ tổn thương bộc phát tại các ngân hàng. Ngành ngân hàng tại các nước trên thế giới đã có nhiều phương pháp khác nhau để có thể hạn chế rủi ro và cũng đã đạt được nhiều thành công. Sau đây, chúng ta cùng đi xem xét những bài học của một số quốc gia trên thế giới là Hồng Kông, Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan và Columbia.  Quản trị rủi ro tín dụng bằng biện pháp trích lập dự phòng Trích lập dự phòng là cách thức hữu hiệu để quản trị rủi ro do tổn thất tín dụng. Việc trích lập dự phòng phải căn cứ vào thực tế trả nợ vay thay vì căn cứ vào khả năng trả nợ trong quá khứ của khách hàng. Các nước chia sẻ kinh nghiệm rằng họ áp dụng các nguyên tắc dự phòng khác nhau dựa theo việc phân loại nợ vay có khả năng gây tổn thất ở mức độ khác nhau. - Hồng Kông: xếp loại rủi ro cho khách hàng và trích lập dự phòng tương ứng. - Hàn Quốc: các nguyên tắc dự phòng phân lập theo loại tín dụng. - Singapore: dự phòng tổn thất khoản vay ước tính từ danh mục vay được áp dụng cho các khoản vay tiêu dùng. - Thái Lan: phân loại khoản vay được đưa vào luật. Các cơ quan giám sát ngân hàng có quyền yêu cầu trích lập dự phòng cho các khoản vay cần chú ý. - Columbia: dự phòng cho tín dụng tiêu dùng, thương mại, cầm cố thế chấp và tín dụng nhỏ theo thời hạn khoản vay từ 1-18 tháng.  Quản trị rủi ro tín dụng bằng biện pháp tuân thủ những nguyên tắc tín dụng thận trọng - Hồng Kông: giới hạn cho vay các đối tác ở mức 5% giá trị ròng doanh nghiệp. Tổng dư nợ vay cho các đối tác không vượt quá 10% vốn tự có Ngân hàng. - Hàn Quốc: giới hạn cho vay cổ đông ở mức 25% vốn tự có Ngân hàng hoặc tỷ lệ mà họ sở hữu. Giới hạn cho vay các đối tác liên quan ở mức 10% vốn tự có Ngân hàng. - Singapore: Ngân hàng không được phép tham gia vào các hoạt động phi tài chính. Cũng không được phép đầu tư hơn 10% vốn vào các công ty hoạt động phi tài chính. Mức đầu tư 46 vốn vào một công ty đơn lẻ giới hạn ở 2% vốn tự có Ngân hàng. Tổng vốn đầu tư giới hạn ở 10% vốn tự có Ngân hàng. - Thái Lan: giới hạn đầu tư ở mức 10% vốn khách vay và 20% vốn của Ngân hàng. Giới hạn cho vay cho nhóm khách hàng ở mức 5% vốn ngân hàng, 50% giá trị ròng của doanh nghiệp và 25% giá trị nợ. - Columbia: giới hạn cho vay cho nhóm khách hàng liên quan 10% vốn tự có. Mở rộng tới 25% nếu có tài sản đảm bảo tốt.  Quản trị rủi ro tín dụng bằng biện pháp đặt ra hạn mức cho vay Phòng ngừa rủi ro do tập trung tín dụng là hoạt động được xem là thường xuyên của Ngân hàng các nước trong việc quản lý danh mục tín dụng của mình. Biện pháp sử dụng là đặt ra các hạn mức cho vay dựa trên vốn tự có của Ngân hàng đối với khách hàng vay riêng lẻ hay nhóm khách hàng vay: - Hồng Kông: giới hạn cho vay khách hàng đơn lẻ ở mức 25% vốn tự có của Ngân hàng. - Hàn Quốc: giới hạn cho vay khách hàng đơn lẻ ở mức 20% vốn tự có của Ngân hàng và giới hạn cho vay nhóm khách hàng ở mức 25% vốn tự có của ngân hàng. - Singapore: giới hạn cho vay khách hàng đơn lẻ ở mức 25% vốn tự có của Ngân hàng. - Thái Lan: giới hạn cho vay khách hàng đơn lẻ ở mức 25% vốn tự có của Ngân hàng. - Columbia: giới hạn vay ở mức 40% giá trị ròng của khách hàng vay.  Quản trị rủi ro tín dụng bằng biện pháp kiểm tra, giám sát Kiểm tra và giám sát là các hoạt động thường xuyên được thực hiện trước khi cho vay, trong khi cho vay và sau khi cho vay: - Hồng Kông: sử dụng mô hình CAMEL (vốn, tài sản, quản lý, thu nhập, thanh khoản) để đánh giá. - Hàn Quốc: sử dụng mô hình CAMELS (vốn, tài sản, quản lý, thu nhập, thanh khoản và thử nghiệm chịu đựng cực điểm). (Capital, Assets, Management, Earnings, Liquidity and Stress testing). - Singapore: kiểm tra trong quá trình phát vay, báo cáo hàng tháng và hàng quý. - Thái Lan: kiểm tra trong quá trình phát vay và sau khi cho vay. Giám sát hệ số đủ vốn dự báo. Có hệ thống báo cáo định kỳ. - Columbia: kiểm tra trong quá trình phát vay, kiểm tra bởi Ủy ban giám sát Ngân hàng. 47  Quản trị rủi ro tín dụng bằng biện pháp quản trị hệ thống thông tin tín dụng Tổ chức tốt hệ thống thông tin tín dụng sẽ hỗ trợ đắc lực cho công tác thẩm định khách hàng vay, giúp hạn chế phòng ngừa rủi ro ngay từ khâu thẩm định hồ sơ vay: - Singapore: Hiệp hội Ngân hàng tổ chức và quản lý thông tin tín dụng từ các thành viên. Hỗ trợ thông tin về các khoản tín dụng lớn. - Thái Lan: Cục thông tin tín dụng được quản lý bởi công ty tư nhân, tất cả các Ngân hàng báo cáo thông tin về Cục, sau đó Cục thông tin kết xuất báo cáo về khách hàng vay và lịch sử trả nợ vay hàng tháng, không cung cấp thông tin thẩm định tín dụng. - Columbia: Ngân hàng báo cáo các khoản vay cho cơ quan giám sát theo định kỳ hàng tháng. Sau đó thông tin về giá trị khoản vay, lãi suất vay, chất lượng khoản vay và tư cách khách hàng vay sẽ được tập hợp lại. 48 Kết luận chương 2 Khủng hoảng tài chính Mỹ là một cơn địa chấn giúp cả thế giới nhìn nhận lại về tình trạng an toàn trong toàn hệ thống tài chính – ngân hàng. Các ngân hàng ngày nay đã ngày càng tập trung nhiều vào việc tìm kiếm lợi nhuận trước mắt mà phớt lờ đi khả năng dễ bị tổn thương luôn luôn tồn tại của mình. Chính điều này đã làm cho nhiều định chế tài chính – ngân hàng (đặc biệt là tại Mỹ) điêu đứng, thậm chí sụp đổ trong cơn khủng hoảng. Trong chương 2, đề tài đã đi sâu vào phân tích tính dễ tổn thương của các định chế tài chính – ngân hàng tại Mỹ trong cuộc khủng hoảng thông qua mô hình CAMELS, sau đó đưa ra các bài học để có thể hạn chế tính dễ tổn thương của các định chế này trong và sau khủng hoảng. Quan trọng hơn, điểm nổi bật của chương là đã đưa ra một số nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới về hạn chế tính dễ tổn thương của các NHTM như việc áp dụng các tiêu chuẩn của Hiệp ước Basel II tại các ngân hàng Hàn Quốc, các biện pháp quản trị rủi ro tại một số nước khác trên thế giới. Những nghiên cứu thực nghiệm này đã cho chúng ta thấy được một cách rõ nét hơn về tính dễ tổn thương của các NHTM trên thế giới, từ đó giúp cho việc đánh giá về tính dễ tổn thương của các NHTM tại Việt Nam được rõ ràng hơn trong chương 3. 49 Chương 3. Đánh giá tính dễ bị tổn thương của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 3.1 Đôi nét về thị trường ngân hàng Việt Nam hậu WTO 3.1.1 Đôi nét về nền kinh tế Việt Nam sau ba năm gia nhập WTO Từ ngày 11-1-2007, Việt Nam trở thành thành viên 150 của tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Đây là một sân chơi đầy cơ hội và thách thức đặt ra cho nền kinh tế Việt Nam. Ba năm qua, trên con đường hội nhập quốc tế, nước ta đã tham gia đầy đủ các định chế kinh tế toàn cầu, mở rộng thị trường hàng hóa dịch vụ, đầu tư quốc tế, đổi mới mạnh mẽ hơn và đồng bộ hơn các thể chế, đồng thời, cải tiến nền hành chính quốc gia theo hướng hiện đại. Chúng ta gia nhập WTO đúng thời điểm kinh tế thế giới diễn biến xấu đến hai lần. Lần thứ nhất là năm 2007 giá cả thị trường thế giới tăng cao, đặc biệt là giá dầu; lần thứ hai là cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu vừa qua. Bên cạnh đó trong năm 2007 và 2008 dòng vốn đầu tư gián tiếp từ nước ngoài tràn vào Việt Nam một cách ồ ạt thông qua thị trường chứng khoán, lạm phát tăng đáng kể và kết quả là con số lạm phát của năm 2008 tới hai chữ số là 22%, tỷ giá hối đoái tương đối ổn định. Từ cuối năm 2007 đến nay giá vàng, giá xăng dầu tăng một cách đột biến; riêng trong năm 2009 chỉ số giá vàng tăng 19,16% năm 2008; giá bất động sản biến động liên tục, chính sách, chỉ thị của nhà nước liên tục được ban hành để điều chỉnh và hướng dẫn. Đặc biệt trong năm 2009, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu tiếp tục tác động tiêu cực đến tình hình kinh tế - xã hội của nước ta. Nhất là trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Tốc độ tăng trưởng kinh tế, sản xuất và kinh doanh, xuất khẩu và đầu tư từ quý 1 đến quý 3 giảm sút nghiêm trọng, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chỉ còn khoảng 165 tỷ đô-la Mỹ bằng gần 1/3 so với năm 2008. Những khoản tín dụng đầu tư trong nước không còn dồi dào như các năm trước; nhiều hợp đồng cho vay trở nên chặt chẽ hơn, khiến nhiều nhà đầu tư gặp khó khăn trong việc thu xếp tín dụng cho các dự án mới. Năm 2010 là năm khá đặc biệt, trong nửa đầu năm, nền kinh tế nước ta phải đối phó với tình trạng lạm phát cao. Tất cả những điều vừa nói trên thì chúng ta có thể khẳng định rằng nền kinh tế Việt Nam có sự bất ổn, thiếu sự an toàn. Ba năm đã qua đi, từ khi nước ta trở thành thành viên đầy đủ của WTO, bên cạnh những thuận lợi và thời cơ đó là nhiều khó khăn và thách thức mà Việt Nam cần phải vượt qua mới có thể sánh vai với các nước trên thế giới. 3.1.2 Thị trường ngân hàng việt Nam hậu WTO Cùng với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam sau khi gia nhập WTO gắn liền với những thuận lợi, thách thức và khó khăn. Đối với ngành ngân hàng Việt Nam, đây là ngành mà trong những năm qua đã có những bước tiến lớn, có một sự phát triển vượt bậc và đã đạt được những 50 thành tựu quan trọng đóng góp quan trọng vào sự phát triển chung của đất nước. Thế nhưng ngành ngân hàng của nước ta vẫn còn đó nhiều khuyết điểm, yếu kém chưa đáp ứng được những nhu cầu trước sự đòi hỏi của sự phát triển của nền kinh tế trong nước và thế giới. Sau khi việt Nam gia nhập WTO các NHTM đã có sự chuyển mình mạnh mẽ để tận dụng tốt những cơ hội trong quá trình hội nhập, khai thác tối đa lợi thế cạnh tranh “trên sân nhà”, đó là có mạng lưới rộng lớn, có khách hàng truyền thống và hiểu biết về khách hàng cũng như các điều kiện kinh doanh tại Việt Nam, kinh nghiệm nghiệp vụ tích luỹ trong nhiều năm qua. Do vậy, các NHTM trong nước vẫn chiếm vai trò chủ đạo trong việc cung cấp các dịch vụ truyền thống là huy động vốn và cho vay. Hiện nay, thị phần huy động vốn của các NHTM trong nước chiếm tỷ trọng lớn, khoảng 90%. Các ngân hàng đã rất chú trọng đến lĩnh vực công nghệ ngân hàng, coi đây là phương tiện chủ lực để rút ngắn khoảng cách phát triển so với ngân hàng của các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. Hầu hết các NHTM đã đầu tư xây dựng hệ thống ngân hàng lõi (core banking), cho phép quản trị dữ liệu một cách tập trung tại Hội sở chính, giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Một số ngân hàng như NHTM cổ phần Ngoại thương Việt Nam, NHTM cổ phần Hàng hải đã hoàn thiện giai đoạn 2 dự án hiện đại hoá ngân hàng và hệ thống thanh toán, cho phép khai thác tối đa những tiện ích công nghệ ngân hàng, đặc biệt là các kỹ thuật quản trị rủi ro theo chuẩn mực quốc tế. Về sản phẩm dịch vụ thì các NHTM đã tập trung đổi mới, cho ra đời nhiều sản phẩm dịch vụ phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Bên cạnh những sản phẩm truyền thống như tiền gửi và cho vay, đã xuất hiện nhiều sản phẩm mới tăng tiện ích cho khách hàng như: tăng tiện ích của tài khoản cá nhân, phát triển dịch vụ thẻ, phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại như phone banking, internet banking… Dịch vụ tiền gửi được đa dạng hoá, cho phép người gửi có nhiều lựa chọn cho đồng vốn nhàn rỗi của mình. Bên cạnh các sản phẩm tiền gửi tiết kiệm với lãi suất cố định truyền thống, các ngân hàng còn đưa ra các sản phẩm tiền gửi được hưởng lãi suất biến động theo tỷ lệ lạm phát, đảm bảo giá trị theo vàng, được bù chênh lệch tỷ giá… Đặc biệt, dịch vụ thanh toán thẻ đã có sự phát triển bùng nổ. Nhiều sản phẩm thẻ đa tiện ích đã được giới thiệu tới khách hàng và thanh toán bằng thẻ ATM đã trở nên khá phổ biến tại các tỉnh, thành phố lớn. Đã có một bước tiến lớn về năng lực tài

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfĐánh giá tính dễ tổn thương của các ngân hàng thương mại việt nam trong giai đoạn hiện nay.pdf
Tài liệu liên quan