MỤC LỤC
Phần I: MỞ ĐẦU 1
1.1 Mục đích nghiên cứu 1
1.2 Giới hạn phạm vi nghiên cứu 1
1.3 kết cấu nội dung nghiên cứu 1
Phần II: Cơ sở lý thuyết đánh giá tăng trưởng kinh tế. 2
1. Các khái niệm 2
1.1. Tổng giá trị sản xuất (GO): 2
1.2. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP): 2
1.2.1 Phương pháp sản xuất 3
1.2.2 Phương pháp thu nhập 4
1.2.3 Phương pháp chi tiêu: 4
3.1. Tăng trưởng kinh tế. 5
1.3.1 Khái niêm 5
1.3.2 Đo lường tăng trưởng kinh tế 5
1.4 Năng suất lao động 5
1.4.1 khái niệm. 5
1.4.2 Cách tính năng suất lao động 6
2. Các chỉ tiêu đánh giá tăng trưởng kinh tế: 6
2.1 Quy mô, tốc độ tăng trưởng: 6
2.2 Hiệu quả tăng trưởng: 6
2.3 Cấu trúc tăng trưởng: 7
Phần III: TÌNH HÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM TỪ NĂM 1991 ĐẾN NAY 7
3.1 Quy mô, tốc độ tăng trưởng: 7
3.1.1 GDP và GDP/người 7
3.1.2 Tốc độ tăng trưởng. 8
3.2 Hiệu quả tăng trưởng: 9
3.2.1 Năng suất lao động 9
3.2.2 So sánh tốc độ tăng của GO và GDP 12
3.3 Cấu trúc tăng trưởng: 13
3.3.1 Cơ cấu kinh tế. 13
3.3.2 Đóng góp của các yếu tố đầu vào. 15
Phần IV: KIẾN NGHỊ ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI. 17
4.1. Mô hình tăng trưởng kinh tế việt nam hiện nay. 17
4.2. Định hướng tăng trưởng Việt Nam trong thời gian tới . 17
4.3. Đề xuất giải pháp. 18
23 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 10253 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá tình hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam từ năm 1991 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giá trị tăng thêm tính theo giá sản xuất thì tổng sản phẩm trong nước được tính như sau:
GDP = Tổng giá trị tăng thêm theo giá sản xuất + Thuế giá trị gia tăng (VAT) phải nộp + Thuế nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ
1.2.2 Phương pháp thu nhập
Như trên đã nói tổng sản phẩm trong nước tính theo phương pháp thu nhập bằng tổng các yếu tố như thu nhập của người lao động từ sản xuất; thuế trừ đi trợ cấp sản xuất; khấu hao tài sản cố định; thặng dư/ thu nhập hỗn hợp.
Tài khoản quốc gia 1993 định nghĩa thu nhập của người lao động từ sản xuất như sau: “Tổng thù lao bằng tiền và hiện vật mà đơn vị sản xuất phải trả cho người lao động do người lao động đã làm việc cho đơn vị sản xuất trong kỳ hạch toán. Thu nhập của người lao động từ sản xuất bao gồm tiền lương thực nhận (bằng tiền và hiện vật) và phần bảo hiểm xã hội đơn vị sản xuất nộp thay người lao động.
1.2.3 Phương pháp chi tiêu:
Tổng sản phẩm trong nước tính theo phương pháp sử dụng bằng tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình và của nhà nước cộng với tích luỹ tài sản và cộng với chênh lệch xuất, nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ. Dưới dạng công thức, tổng sản phẩm trong nước tính theo phương pháp sử dụng được viết như sau:
GDP = C+G+I+(X-M)
Tiêu dùng cuối cùng là một phần của tổng sản phẩm trong nước sử dụng để thoả mãn nhu cầu cho đời sống, sinh hoạt của cá nhân, dân cư, hộ gia đình và nhu cầu tiêu dùng chung của xã hội. Tiêu dùng cuối cùng gồm 2 phần:
- Tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình
- Tiêu dùng cuối cùng của Nhà nước.
Chỉ tiêu GDP là một chỉ báo kinh tế tổng hợp, phản ánh một cách khá toàn diện sức mạnh kinh tế của một quốc gia hay vùng lãnh thổ, vì vậy các nhà kinh tế thường sử dụng chỉ tiêu này để so sánh trình độ phát triển kinh tế với nhau thông qua chỉ tiêu GDP.
3.1. Tăng trưởng kinh tế.
1.3.1 Khái niêm
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản lượng quốc gia (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người (PCI) trong một thời gian nhất định.
1.3.2 Đo lường tăng trưởng kinh tế
Để đo lường tăng trưởng kinh tế có thể dùng mức tăng trưởng tuyệt đối, tốc độ tăng trưởng kinh tế hoặc tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trong một giai đoạn.
Mức tăng trưởng tuyệt đối là mức chênh lệch quy mô kinh tế giữa hai kỳ cần so sánh.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế được tính bằng cách lấy chênh lệch giữa quy mô kinh tế kỳ hiện tại so với quy mô kinh tế kỳ trước chia cho quy mô kinh tế kỳ trước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được thể hiện bằng đơn vị %.
Biểu diễn bằng toán học, sẽ có công thức:
y = dY/Y × 100(%),
Trong đó Y là qui mô của nền kinh tế, và y là tốc độ tăng trưởng. Nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) danh nghĩa, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hoặc GNP) danh nghĩa. Còn nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) thực tế, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hay GNP) thực tế. Thông thường, tăng trưởng kinh tế dùng chỉ tiêu thực tế hơn là các chỉ tiêu danh nghĩa.
1.4 Năng suất lao động
1.4.1 khái niệm.
Năng suất lao động là chỉ tiêu hiệu quả sử dụng nguồn lao động sống, đặc trưng bởi quan hệ so sánh giữa một chỉ tiêu đầu ra (kết quả sản xuất) và một chỉ tiêu đầu vào (lao động và làm việc).Đây là một chỉ tiêu khá tổng hợp nói lên năng lực sản xuất của một đơn vi hay của nền kinh tế xã hội.
1.4.2 Cách tính năng suất lao động
Tùy theo muc đích nghiên cứu của mỗi nước, mỗi ngành khác nhau trong từng gai đoạn khác nhau mà áp dụng chỉ tiêu năng suất lao đong theo các phương thức khác nhau.Được tính toán bắng chỉ tiêu đầu ra khác nhau.
Cách tính: +tính theo tổng giá trị sản xuất(GO) +tính theo tổng giá trị tăng thêm(GDP)Trên phạm vi nền kinh tế GDP là chỉ tiêu phân tích tính toán tốc độ tăng trưởng kinh tế ,làm căn cứ đánh giá sự phát triển của một đất nước và tính toán nhiều chỉ tiêu quan trọng khác nên tất nhiên nó được tính toán năng suất lao động trong nền kinh tế quốc dân. Năng suất lao động tính theo giá trị tăng thêm có ưu điểm hơn hẳn so với năng suất lao động tính theo giá trị sản xuất vì ở tử số của chỉ tiêu năng suất lao động không tính phần chi phí trung gian (phần giá trị này luôn bị tính trùng giữa các doanh nghiệp, giữa các ngành) nên sự biến động của chỉ tiêu năng suất lao động không phụ thuộc vào thay đổi tổ chức sản suất như năng suất lao động tính theo giá trị sản xuất. Hơn nữa, nếu trong toàn nền kinh tế, năng suất lao động tính theo tổng sản phẩm trong nước, thì đối với từng ngành, từng doanh nghiệp, năng suất lao động cũng cần được tính theo giá trị tăng thêm. Có như vậy mới cho phép nghiên cứu, phân tích mối liên hệ giữa năng suất lao động của các doanh nghiệp, các ngành với năng suất lao động chung của toàn nền kinh tế quốc dân.
Ở Việt Nam, năng suất lao động được tính toán theo chỉ tiêu giá trị tổng sản lượng (tính toàn bộ giá trị của sản phẩm tương tự như chỉ tiêu giá trị sản xuất ngày nay) được đưa vào chế độ báo cáo thống kê của các xí nghiệp (nay gọi là doanh nghiệp) trong các ngành công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng,... ngay từ những năm đầu mới thành lập ngành thống kê. Trong thời kỳ kế hoạch hóa tập trung có những năm năng suất lao động được coi là một trong những chỉ tiêu pháp lệnh để đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch nhà nước của doanh nghiệp thuộc các ngành công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải,...
2. Các chỉ tiêu đánh giá tăng trưởng kinh tế:
2.1 Quy mô, tốc độ tăng trưởng:
-Qui mô của một nền kinh tế thể hiện bằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản phẩm quốc gia (GNP), hoặc tổng sản phẩm bình quân đầu người hoặc thu nhập bình quân đầu người (Per Capital Income, PCI).
GDP, GNP, PCI càng lớn thể hiện quy mô của nền kinh tế càng lớn
-Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế thể hiện là sự gia tăng của GDP năm này so với năm trước. tốc độ tăng trưởng nói lên xu hướng tăng lên hoặc giảm đi về quy môcủa một nền kinh tế.
-GDP/người được tính bằng tổng sản phẩm quốc nội chia cho tổng dân số. nó phản ánh một phần nào sự đóng góp của một ngươi dân vào GDP
2.2 Hiệu quả tăng trưởng:
- Năng suất lao động: là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của tăng trưởng tốt nhất vì nó phản ánh năng lực của một lao động chính đóng góp vào tổng sản phẩn đầu ra.
Lao động là thành phần chính để tạo nên sản phẩm trong một nền kinh tế, năng suất lao động ngày càng cao thì tốc độ tăng trưởng ngày càng lớn
- So sánh tốc độ tăng GO và GDP:
Nếu tốc độ tăng GO>GDP thì phản ánh xu hướng chi phí trung gian tăng
Nếu tốc độ tăng GO=GDP thì phản ánh xu hướng chi phí trung gian không thay đổi.
Nếu tốc độ tăng GO<GDP thì phản ánh xu hướng chi phí trung gian giả.
2.3 Cấu trúc tăng trưởng:
-Nếu GDP là thể hiện quy mô của nền kinh tế thì GDP theo ngành nó lại thể hiện cơ cấu của một nền kinh tế cơ cấu của một nền kinh tế cho ta biết nền kinh tế đang ở thời kì nào của quá trình phát triển kinh tế chung.
-Đóng góp của các yếu tố đầu vào (K,L,TFP) cho GDP cho ta biết được yếu tố nào tạo ra GDP nhiều nhất trong các yếu tố đầu vào đó.
Phần III: TÌNH HÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM TỪ NĂM 1991 ĐẾN NAY
3.1 Quy mô, tốc độ tăng trưởng:
3.1.1 GDP và GDP/người
Quy mô của nền kinh tế việt nam còn nhỏ!
Đơn vị : tỷ đồng
năm
1990
1991
1992
1993
1994
1995
GDP
41955
76707
110532
140258
178534
228892
năm
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
GDP
272036
313623
361017
399942
441646
481295
535762
năm
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
GDP
613443
715307
839211
974266
1143715
1477717
1645481
Năm 2008 theo xếp hạng về GDP của các nước trên thế giới thì GDP của việt nam xếp thứ 61 với 90,88 tỷ đô la. Và tỷ trọng GDP của việt nam so với thế giới là vào khoảng 0,15% GDP toàn thế giới.
Tỷ trọng sản phẩm nội địa của các nước_theo Theo CIA World Factbook
GDP/ người của nền kinh tế việt nam còn thấp do quy mô của nền kinh tế còn nhỏ trong khi đó dân số của VIỆT NAM vào khoảng 86 triệu người năm 2009 và có tốc độ tăng hàng năm vào khoảng 1,2% và xếp thứ 12 trên thế giới sau TRUNG QUỐC, NHẬT BẢN, MEXICO…..
3.1.2 Tốc độ tăng trưởng.
Một trong những thành quả nổi bật của nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới chính là tốc độ tăng trưởng kinh tế cao khá ổn định. Thời kỳ từ năm 1986 tới nay là thời kỳ đổi mới, tốc độc tăng trưởng bình quân 1986 1990 là 4,5%, thời kỳ 1991-1995 là 8,2%, thời kỳ 1996-2000 là 7% và từ 2001-2007 là 7,6%. Tốc độ tăng trưởng kinh tế ngang bằng Hàn Quốc và chỉ đứng sau Trung Quốc.
Biểu đồ tốc độ tăng trưởng kinh tế qua các năm
Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam từ 1985 đến 2008
Từ kết quả tính toán và biểu đồ trên thấy rằng: thời kỳ 1991-2003 GDP ở phạm vi chung toàn nền kinh tế quốc dân tăng bình quân năm là: 7,45%/năm. Nếu so sánh giữa các năm ta thấy GDP tăng không đồng đều. Năm có tốc độ tăng cao nhất là 9,54% (1995), thấp nhất 4,77%(1999). Có 8 năm tốc độ tăng GDP năm sau cao hơn tốc độ tăng năm trước và 5 năm có tốc độ tăng GDP năm sau thấp hơn tốc độ tăng năm trước. Tuy nhiên, nếu xét về giá trị tuyệt đối thì không có trường hợp nào có GDP năm sau thấp hơn năm trước, tức là có tốc độ tăng đạt "giá trị âm". Tốc độ tăng GDP chung toàn nền kinh tế quốc dân theo các thời kỳ như sau:
- Thời kỳ 1991-1995 có tốc độ tăng GDP bình quân năm đặt khá cao (8,18%), trong đó năm 1991 đạt 5,81%, các năm còn lại đều tăng hơn 8%, riêng năm 1995 tăng 9,54%.
- Đến thời kỳ 1996-2000 chịu ảnh hưởng khá nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu Á (1997) đã làm cho tốc độ tăng GDP trong các năm ở thời kỳ này giảm liên tục (từ 9,34% năm 1996 xuống 8,15% năm 1997 rồi 5,76% năm 1998 và 4,77% năm 1999). Năm 2000 tốc độ tăng đã bắt đầu nhích lên nhưng vẫn ở mức dưới 7%. Bình quân năm thời kỳ 1996-2000 tăng 6,95%, thấp hơn tốc độ tăng giai đoạn 1991-1995 là 1,23%;
- Thời kỳ 2001-2007 đã chấm dứt được xu thế giảm mạnh của thời kỳ trước và GDP đã tăng dần qua các năm, song tốc độ tăng ở những năm đầu thiên niên kỷ mới không lớn, năm sau chỉ nhích hơn năm trước từ 0,1 đến 0,2% làm cho tốc độ tăng bình quân năm giai đoạn 2001-2003 mới đạt 7,06%, thấp hơn mức tăng bình quân chung 13 năm (1991-2003) là 0,39% và thấp hơn mức tăng bình quân của 5 năm đầu (1991-1995) là 1,12%.Tuy nhiên những năm sau đó tốc độ tăng trưởng của nước ta đã vươn lên cao và năm trong nhóm những nước co tăng trưởng cao nhất trên thế giới.Tăng trưởng năm 2001 là 6,7%, năm 2005 là 8,4% và đạt đỉnh năm 2007 với 8,5%.
- Thời kỳ từ 2008 đến nay, do Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng nặng nề sau cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu cuối năm 2008 nên tốc độ tăng trưởng kinh tế nước nhà đã sự suy giảm lớn. Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2008 chỉ đạt 6,23% thâps nhất so với 9 năm trước đó, và hậu quả nặng nề của khủng hoang kinh tế toàn cầu còn dư am sang tới những quý đầu năm 2009 và anh hưởng rất lớn đến tình hình kinh tế chung của cả nước. Tốc độ tăng trưởng GDP năm 2009 chỉ đạt 5,32% cho thấy hậu quả nặng nề sau khủng hoảng và mặc dù Chính phủ đã đưa ra những gói kích cầu nhưng không thể cải thiện tốt hơn cho nền kinh tế Việt Nam.
3.2 Hiệu quả tăng trưởng:
3.2.1 Năng suất lao động
Năm
2000
2004
2005
2006
2007
2008
Tổng số
11,7
17,2
19,7
22,5
25,9
32,9
Nông nghiệp và lâm nghiệp
4,0
5,6
6,3
7,2
8,4
12,2
Thủy sản
15,1
19,6
22,2
24,6
28,2
34,7
Công nghiệp khai mỏ
166,6
223,5
260,5
269,5
281,0
306.1
Công nghiệp chế biến
23,1
30,1
33,0
36,6
40,8
49,5
sản xuất điên và khí đốt
169,2
182,9
191,1
193,6
202,4
212,1
Xây dựng
22,7
23,2
26,7
30,2
35,1
40,0
TN,sửa xe moto đồ dùng gđ
16,1
20,3
23,1
26,0
29,6
31,8
Vân tải kho bãi và tt liên lạc
14,8
25,3
30,3
36,1
42,0
54,9
Khách sạn nhà hàng
20,9
19,8
38,2
45,8
55,3
78,0
Tài chính tín dụng
108.4
102,0
96,4
96,3
98,9
123,7
Hoạt động khcn
124,7
172,6
214,2
233,0
262,6
342,8
Giáo dục đào tạo
14,9
19,7
21,8
23,6
25,7
27,5
Hoạt động cứu trợ xã hội
26,6
31,5
34,5
37,8
40,2
46,5
Hoạt động văn hóa thể thao
19,4
28,7
31,3
34,4
38,1
44,4
Hoạt động Đảng và đoàn thể
9,6
7,0
7,1
7,1
7,4
8,5
Hoạt động phục vụ Cn và cộng đồng
21,9
25,3
24,0
25,1
26,6
31,9
ANQP và đảm bảo xã hội
32,1
35,6
35,5
37,3
39,5
47,3
(Tổng sản phẩm trong nước /giá trị tăng thêm theo giá trị thưc tế bình quân 1 lao động đang làm việc).
Vốn có thể vay được,công nghệ có thể mua được còn lao động là yếu tố nội lực,lại đang có lợi thế về số lượng dồi dào,tỷ lệ lao động trẻ cao có tính chịu khó và giá nhân công rẻ…Để đạt được mức tăng trưởng hằng năm la 8,5% thì năng suất lao đông đang là vấn đề được quan tâm lớn. Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy gì? +Năng suất lao động của Việt Nam qua các năm đều tăng khá,nhưng so với khu vực và các nước phát triển khác mức năng suất lao động của nước ta còn quá thấp +Nếu chia theo nhóm ngành thì năng suất thuộc nhóm ngành nông,lâm nghiệp thấp nhất.Mà Việt Nam là nước co tỷ lệ lao động trong ngành này rất cao.
Năng suất lao động thấp:(số liệu năm 2005 theo tổng cục thống kê)
Tên nước và lãnh thổ
Mức năng suất lao động
Tốc độ tăng NSLĐ
Mức NSLĐ (USD)
Thứ tự
Tốc độ (%)
Thứ tự
Mỹ
77346
1
1,8
12
Nhật
77061
2
1,9
10
Ai-len
62936
3
1,0
15
Hồng Kông
60299
4
5,0
4
Pháp
57677
5
1,4
14
Phần Lan
55698
6
0,1
18
Xin-ga-po
52426
7
1,9
10
Anh
51882
8
0,9
16
Đức
50789
9
0,9
16
Ca-na-đa
49308
10
1,6
13
Ô-xtrây-li-a
45545
11
-1,0
20
Đài Loan
35856
12
2,7
8
Hàn Quốc
27907
13
2,6
9
Ma-lai-xi-a
11300
14
3,0
6
Thái Lan
4305
15
3,0
6
Phi-lip-pin
2807
16
-0,8
19
Trung Quốc
2272
17
7,1
1
In-đô-nê-xi-a
1952
18
4,4
5
Ấn Độ
1242
19
6,6
2
Việt Nam
1237
20
5,51
3
Tỷ lệ tăng NSLĐ của nước ta đạt mức khá,nhưng hãy thử so sánh mức năng suất lao động của nước ta so với nước có mức năng suất lao động cao nhất là Mỹ thi chúng ta chỉ bằng 1/60.So với các nước trong khu vực như Ma-lai-xi-a hay Thái lan,Phi-lip-pin thì năng suất lao động của nước ta còn kém xa.
Năng suất lao động trong các ngành nông,lâm nghiệp thấp:Mức năng suất trong ngành nông,lâm nghiệp thấp chỉ bằng một phần ba so với năng suất lao động của cả nước và chỉ bằng một phần tám so với năng suất lao động của ngành công nghiệp,chưa bằng một phần ba mức năng suất lao động của ngành thủy sản.nguyên nhân làm cho năng suất lao động trong ngành nông lâm nghiệp thấp là do số lao động chiếm tỷ trọng lớn nhất nhưng thời gian chưa sử dụng còn nhiều.Năng suất cây con thấp(năng suất lúa của Việt Nam năm 2006 đạt 48,9 ta/ha,trong khi đó Trung Quốc đạt 62 tạ/ha.Mỹ đạt 80 tạ/ha).Ngành công nghiệp có năng suất lao động cao nhất nhưng số lượng lao động chiếm tỷ lện thấp(13,5%),tốc độ gia tăng chậm tính gia công và khai thác nguyên nhiên vật liệu còn cao,giá trị tăng thêm thấp,tỷ trọng doanh nghiệp có công nghệ cao chỉ đạt 20.5%.Nhìn tổng quát, năng suất lao động của nước ta còn thấp do nhiều nguyên nhân. Có nguyên nhân do những ngành có năng suất lao động thấp lại chiếm tỷ trọng lao động rất cao (như nông nghiệp, buôn bán nhỏ...). Có nguyên nhân do chất lượng lao động mà biểu hiện trước hết ở tỷ lệ lao động đã qua đào tạo còn rất thấp và tăng rất chậm, hiện mới đạt khoảng một phần tư tổng số. Ngay cả số đã qua đào tạo thì cơ cấu cũng còn nhiều điểm chưa hợp lý.
Tỷ số người tốt nghiệp các cấp đào tạo theo chuẩn mực của thế giới là 1 cao đẳng, đại học/4 trung cấp chuyên nghiệp/10 học nghề, thì ở nước ta các tỷ số tương ứng là 1 - 0,98 - 3,03, gây ra tình trạng "thiếu thợ nhiều hơn thiếu thầy". Đó là chưa kể trình độ đào tạo cũng còn không ít vấn đề: lý thuyết nhiều hơn tay nghề, thực tế; trung cấp chuyên nghiệp thì nửa thầy nửa thợ, cao đẳng, đại học thì khoa học cơ bản chưa đủ, còn khoa học ứng dụng còn yếu. Ngay cả giáo sư, tiến sĩ thì có tới gần một phần ba là danh nhiều hơn thực. Cán bộ khoa học, kỹ thuật ở cơ sở, ở thực tiễn thì ít. Ngoài ra còn tình trạng mua bán bằng,... Trình độ kỹ thuật - công nghệ
3.2.2 So sánh tốc độ tăng của GO và GDP
So sánh tốc độ tăng GO và GDP ngành NN
Từ biểu đồ trên ta thấy: tốc độ tăng GDP ổn định hơn tốc độ tăng GO ở ngành NN, tuy nhiên tốc độ tăng GO lại ở mức cao hơn tốc độ tăng GDP. Vì sao lại thế? Vì GO chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như chi phí trung gian, năng suất lao động, số lượng lao động… còn GDP phụ thuộc chủ yếu vào giá trị gia tăng của ngành. Năm 1991-1993, tốc độ tăng GO giảm mạnh có thể do chúng ta giảm mạnh được chi phí trung gian từ việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Năm 2001, tốc độ tăng GO đạt mức thấp do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực làm giá nông phẩm giảm mạnh. Còn năm 2007 đến nay, tốc độ tăng GO tăng mạnh do ảnh hưởng của nhiều yếu tố trong đó có việc gia nhập WTO. Chuyển giao công nghệ đã giúp chúng ta tăng được năng suất trong ngành nông nghiệp. Mặc dù hơn 70% dân số làm việc trong ngành nông nghiệp nhưng đóng góp vào GDP là rất thấp.
So sánh tốc độ tăng GO và GDP ngành CN
Tốc độ tăng của GO ngành công nghiệp lớn hơn tốc độ tăng GDP trong giai đoạn 1997-2004 phản ánh chi phí trung gian cao mặt khác đây là thời kì mà chúng ta chủ yếu là gia công chế tác sản phẩm mà không có các mặt hàng chính.
Tốc độ tăng của GO ngành công nghiệp năm 2005-2007 không tăng trong khi đó GDP ngành công nghiệp tăng đều với tốc độ khoảng 10% có thể nói được rằng xu hướng giảm thiểu chi phí trung gian do chúng ta đầu tư cho kế cấu hạ tâng lớn.
3.3 Cấu trúc tăng trưởng:
3.3.1 Cơ cấu kinh tế.
Tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia đều đi kèm với những thay đổi trong cơ cấu kinh tế, đặc biệt là cơ cấu ba nhóm ngành nông nghiệp (bao gồm nông- lâm nghiệp và thuỷ sản), công nghiệp (bao gồm công nghiệp và xây dựng) và dịch vụ. Cơ cấu kinh tế của nước ta trong thời gian qua đã có sự chuyển dịch tích cực (mặc dù chưa rõ nét): tỷ trọng nông- lâm- thuỷ sản trong GDP đã giảm đều đặn (từ 40,5% xuống 22,09% trong thời kỳ 1991-2008) và tỷ trọng công nghiệp- xây dựng tăng lên tương ứng (từ 23,8% tăng lên 39,73% trong cùng thời kỳ). Trong khi đó, khu vực dịch vụ sau một thời gian dài chững lại (1995-2004) và tăng chậm hơn nhịp độ tăng trưởng chung của GDP, hiện nay đã trở lại tốc độ tăng trưởng khá.
Cơ cấu kinh tế Việt Nam phân theo nhóm ngành, 1991-2008
Tuy nhiên, cơ cấu kinh tế Việt Nam chuyển dịch chậm hơn dự kiến, kể cả cơ cấu ngành, cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ... Trong nhiều năm qua, xét theo tỷ trọng giá trị tăng thêm trong GDP, cơ cấu kinh tế chủ yếu biến đổi theo sự chuyển dịch của hai nhóm ngành nông- lâm - thủy sản và công nghiệp- xây dựng. Tỷ trọng dịch vụ trong GDP trồi sụt theo từng năm và chưa thể hiện một xu thế chuyển dịch rõ ràng hướng tới một cơ cấu hiện đại, trong khi đây là khu vực có rất nhiều cơ hội và tiềm năng phát triển. Mục tiêu đặt ra cho chuyển dịch cơ cấu ngành trong GDP năm 2010 (khu vực nông nghiệp 15-16%; công nghiệp và xây dựng 43- 44%; dịch vụ 40- 41%) rất khó đạt được.Sự chuyển dịch cơ cấu ngành có liên quan chặt chẽ đến cơ cấu lao động và cơ cấu đầu tư. Cơ cấu lao động chưa có sự chuyển dịch rõ rệt theo hướng tiến bộ, lao động chưa có việc làm còn lớn, đang bị “tắc nghẽn” trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn. Trong khi đó, cơ cấu đầu tư thể hiện sự mất cân đối lớn giữa nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản và tình trạng đầu tư tràn lan ở các địa phương. Nhìn từ góc độ dài hạn, quá trình chuyển dịch cơ cấu chưa diễn ra theo một quy hoạch chiến lược tổng thể có tầm nhìn dài hạn, với một lộ trình hợp lý và được bảo đảm thực hiện nghiêm ngặt. Những năm qua là giai đoạn hình thành cơ cấu được định hướng bởi các quy hoạch mang tính cục bộ ngành và địa phương, nhằm phục vụ cho các lợi ích cục bộ và ngắn hạn. Chính vì thế, quy hoạch tổng thể thường bị điều chỉnh, phá vỡ, hiệu quả đầu tư thấp, cơ cấu chuyển dịch không đúng yêu cầu thúc đẩy tăng trưởng cao, bền vững, nâng cao sức cạnh tranh. Tất cả những điều nói trên phản ánh tầm nhìn cơ cấu hạn chế, nặng về hiện vật và tư duy “chính sách ngành”, chưa theo kịp các xu hướng công nghệ và nguyên lý phát triển hiện đại
3.3.2 Đóng góp của các yếu tố đầu vào.
Đóng góp các yểu tố đầu vào trong tăng trưởng GDP Việt Nam (%) giai đoạn (1993-2007)
Hàm sản xuất: Y=f(K,L,TEP)
K,L: Các yếu tố tăng trưởng tho chiều rộng
TEP: Các yếu tố tăng trưởng theo chiều sâu
Đóng góp củ các yếu tố
1993_1997
1998- 2007
1.Đóng góp theo điểm phần trăm (%)
- Vốn
- Lao động
- TEP
8.8
6.1
1.4
1.3
6.44
3.7
1.29
1.45
2. Đóng góp theo tỷ lệ phần trăm (%)
- Vốn
- Lao động
- TFP
100
69.3
15.9
14.8
100
57.5
20
23
Nguồn: CIEM và Thời báo kinh tế Việt Nam
Tăng trưởng kinh tế xét ở đầu vào, có ba yếu tố đóng góp. Đó là sự đóng góp của yếu tố số lượng vốn đầu tư, sự đóng góp của số lượng lao động và sự đóng góp của yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP). Theo tính toán ban đầu, yếu tố số lượng vốn đầu tư đã đóng góp khoảng 57%, yếu tố số lượng lao động đóng góp khoảng 20%, yếu tố TFP đóng góp 23%. Từ sự đóng góp như trên, có thể rút ra một số nhận xét đáng lưu ý. Một là, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam dựa chủ yếu vào sự đóng góp của yếu tố số lượng vốn đầu tư. Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP từ năm 2004 đến nay đều đã vượt qua mốc 40% (năm 2004 đạt 40,7%, năm 2005 đạt 40,9%, năm 2006 đạt 41%, ước năm 2007 đạt 40,4%), kế hoạch năm 2008 còn cao hơn, lên đến 42%. Đây là tỷ lệ thuộc loại cao nhất thế giới, chỉ sau tỷ lệ trên dưới 44% của Trung Quốc - một tỷ lệ làm cho tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đạt cao nhất thế giới, đã nhiều năm liền tăng hai chữ số, hiện đang giữ kỷ lục thế giới về số năm tăng trưởng liên tục (28 năm), nhưng Trung Quốc đưa ra mục tiêu giảm độ nóng của tăng trưởng và đẩy mạnh chống lạm phát do tốc độ tăng giá tính theo năm của tháng 2/2008 đã lên đến 8,3%, cao nhất trong 12 năm qua. Hai là, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện còn dựa một phần quan trọng vào yếu tố số lượng lao động, sự quan trọng này được xét trên hai mặt.Một mặt, do nguồn lao động hàng năm vẫn còn tăng khoảng 2%, tức là trên 1 triệu người mỗi năm. Mặt khác, do tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn còn cao. Ba là, nếu tính cả sự đóng góp của yếu tố số lượng vốn đầu tư và sự đóng góp của yếu tố số lượng lao động, thì hai yếu tố này đã đóng góp trên ba phần tư tổng tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Điều đó chứng tỏ, sự đóng góp của yếu tố TFP đối với tổng tốc độ tăng trưởng kinh tế còn nhỏ, chưa được một phần tư, thấp chỉ bằng hai phần ba tỷ trọng đóng góp của yếu tố này của các nước trong khu vực hiện nay. Điều đó cũng chứng tỏ, nền kinh tế Việt Nam hiện vẫn đi theo hướng tăng trưởng về số lượng, chưa chuyển sang tăng trưởng về chất lượng, vẫn chủ yếu phát triển theo chiều rộng, chưa chuyển mạnh sang phát triển theo chiều sâu. Hiệu quả sử dụng vốn chưa cao TFP là tổng hợp của các nhân tố hiệu quả sử dụng vốn đầu tư và năng suất lao động. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư được thể hiện ở nhiều chỉ tiêu. Gần đây, trên các diễn đàn hội thảo và trên một số phương tiện thông tin đại chúng, khi đề cập đến hiệu quả đầu tư các chuyên gia thường dùng hệ số ICOR. Chỉ tiêu này được tính bằng nhiều cách, song theo cách tính đơn giản mà các chuyên gia đề cập là lấy tỷ lệ vốn đầu tư/GDP chia cho tốc độ tăng trưởng GDP. Hệ số ICOR càng lớn thì hiệu quả đầu tư càng thấp và ngược lại. Tỷ lệ vốn đầu tư/GDP và tốc độ tăng GDP thì ICOR qua các thời kỳ như sau: Tính chung ICOR của Việt Nam trong thời kỳ 1991-2007 là 4,86 lần, cao hơn nhiều so với 2,7 lần của Đài Loan (trong thời kỳ 1961-1980), 3 lần của Hàn Quốc (trong thời kỳ 1961- 1980), 3,7 lần của Indonesia (trong thời kỳ 1981-1995), 4 lần của Trung Quốc (trong thời kỳ 2001-2006), 4,1 lần của Thái Lan (trong thời kỳ 1981-1995); cũng cao hơn so với 4,6 lần của Malaysia (trong thời kỳ 1981-1995). Điều đó chứng tỏ, hiệu quả đầu tư của Việt Nam còn thấp. Hiệu quả đầu tư còn được tính theo cách lấy GDP chia cho vốn đầu tư hàng năm (đều tính theo giá thực tế). Theo cách này, thì GDP/Vốn đầu tư (có nghĩa là 1 đồng vốn đầu tư tạo ra được bao nhiêu đồng GDP) của Việt Nam đã bị sút giảm qua các thời kỳ: nếu thời kỳ 1991-1995 đạt 3,55 đồng/đồng, thì năm 1996-2000 còn 3,0 đồng/đồng, 2001-2005 còn 2,56 đồng/đồng, 2006-2007 còn 2,46 đồng/đồng. Năng suất lao động của Việt Nam còn thấp. Năm 2007 mới đạt 25.886 đồng/người, của nhóm ngành nông, lâm nghiệp-thuỷ sản còn đạt thấp hơn chỉ có 9.607 nghìn đồng/người, ngay cả nhóm ngành công nghiệp-xây dựng cao nhất cũng mới đạt 55.072 đồng/người và của nhóm ngành dịch vụ cũng chỉ đạt 38.159 nghìn đồng/người. Nếu quy ra USD theo tỷ giá hối đoái, năng suất lao động của toàn nền kinh tế cũng mới đạt khoảng 1,6 nghìn USD, của nhóm ngành nông, lâm nghiệp- thuỷ sản chỉ đạt 0,6 nghìn USD, của nhóm ngành công nghiệp- xây dựng đạt khoảng 3.438 USD, của nhóm ngành dịch vụ đạt khoảng 2.385 USD. Các con số trên còn thấp xa so với năng suất lao động chung của thế giới (khoảng trên 14,6 nghìn USD), còn thấp hơn cả mức bình quân đầu người của thế giới (khoảng 6,5 nghìn USD/người). Với năng suất còn thấp như trên thì giá trị thặng dư còn đang rất nhỏ nhoi. Một nền kinh tế tăng trưởng chủ yếu dựa vào vốn, mà hiệu quả đầu tư thấp, nhất là hiệu quả đầu tư của khu vực kinh tế Nhà nước còn thấp hơn; năng suất lao động thấp,... nên nhu cầu đối với t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 112358.doc