Đề tài Đánh giá tình trạng đất tại xã Phú Phụng, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre

Để đạt được mục tiêu nghiên cứu đề ra, thí nghiệm được thực hiện qua các bước sau:

Bước 1: Đánh giá tổng quan hiện trạng vườn chôm chôm qua thảo luận với nông dân có vườn cây ăn trái lâu năm tại địa phương như kỹ thuật canh tác, phân bón, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, chế độ tưới tiêu, năng suất và sâu bệnh hại trên cây.

Bước 2: Chọn vườn điều tra khảo sát trên vườn chôm chôm. Các vườn được chọn cần đạt các yêu cầu như có tuổi liếp trên 17 năm, có biểu hiện cây kém phát triển, năng suất thấp, phẩm chất trái kém.

 

doc40 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2552 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá tình trạng đất tại xã Phú Phụng, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Sự nén dẽ là tiến trình thay đổi một số đặc tính vật lý đất như dung trọng, độ chặt, độ xốp, khả năng thắm nước của đất. Những thay đổi này sẽ làm ảnh hưởng đến sự di chuyển của nước và không khí trong đất, sự mất cân đối của đất và nước làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển của rễ cây trong môi trường đất. Sự nén dẽ làm giảm khả năng thắm nước của đất, làm tăng lượng nước chảy tràn trên bề mặt đất thường đưa đến hiện tượng xói mòn đất, dinh dưỡng cung cấp cho cây trồng cũng bị cuốn trôi, khả năng dự trữ nước của đất kém, những tế khổng trong đất bị giảm làm cho bộ rễ cây trồng phát triển kém, giảm khả năng hoạt động của hệ sinh vật trong đất và cuối cùng làm cho năng suất cây trồng bị giảm. Một cách tổng quát sự nén chặt trong đất được xem như là một hàm số thay đổi theo các điều kiện như: dung trọng khô của đất; độ xốp của đất; sức cản của đất và hàm lượng ẩm độ trong đất. Theo nghiên cứu của Võ Thị Gương và ctv (2004) lực cản ở tầng đất mặt 0 – 15 cm trên các vườn trồng cam tại Cần Thơ biến động từ 2,8 – 5,8 MPa. Đất liếp có lực cản được xem là bị nén dẽ và ảnh hưởng đến sự phát triển của bộ rễ cây trồng khi lực xuyên thấu của đất cao hơn 3,0 MPa. Độ nén dẽ của đất gia tăng theo tuổi liếp có ý nghĩa thống kê. Đặc biệt, ở vườn 26 và 33 năm tuổi liếp có độ cản của đất rất cao từ 5,60 – 5,83 MPa. Ở độ sâu 15 – 30 cm độ nén dẽ đất cao nhất trên đất vườn 26 năm tuổi là 6,83 MPa. Tương tự như thế, ở độ sâu 30 – 45 cm thì vườn 26 và 33 năm tuổi có độ nén dẽ cao nhất 3,0 – 4,7 MPa. Trên đất liếp trồng cam đất có tỷ lệ sét cao, hàm lượng chất hữu cơ trong đất thấp qua thời gian lên liếp lâu dài thì tình trạng nén dẽ của đất dễ dàng xảy ra. 1.4.1.2 Sự kết cứng và đóng ván trên mặt đất Theo Lê Văn Khoa (2004) thì sự kết cứng và đóng váng trên mặt đất là sự kết cứng của đất trong suốt thời gian đất bị khô cho đến khi đất được bão hoà nước trở lại. Đất dưới sự khô cứng sẽ trở nên cứng và không có cấu trúc. Khác với sự nén dẽ của đất, sự khô cứng này không bị ảnh hưởng bởi các tác nhân bên ngoài (như cày, dậm, trục... do động vật, máy móc hoặc con người) mà do tự tính chất của đất tạo ra. Sự khô cứng của đất tuỳ theo các yếu tố như sau: loại khoáng sét; tính trương co của đất; sức bền của đất; sự đóng ván trên bề mặt đất và tình trạng ngập lũ. 1.4.2 Dung trọng đất Dung trọng đất là khối lượng của một thể tích đất tự nhiên (không bị xáo trộn) bao gồm cả chất hữu cơ, không khí, đơn vị tính là kg/m3 hoặc g/cm3. Giá trị dung trọng bình quân của đất thịt có canh tác biến động trong khoảng 1,1 đến 1,4 g/cm3. Cho sự phát triển tốt của cây trồng dung trọng nên giới hạn trong các giá trị sau: nhỏ hơn 1,4 g/cm3 với đất sét và nhỏ hơn 1,6 g/cm3 với đất cát. Dung trọng cũng được dùng để tính toán tổng lượng nước có thể được giữ bởi đất theo một thể tích đất nào đó và cũng để đánh giá khả năng phát triển của hệ thống rễ cây trồng và mức độ thoáng khí của đất (Lê Văn Khoa, 2004). Dung trọng đất được tính bằng công thức: Pb = (Wov – Wr)/Vr Trong đó: Pb: Dung trọng khô (g/cm3) Wov: Khối lượng mẫu đất và ring ngay sau khi sấy khô ở 1050C (g) Wr: Khối lượng của ring (g) Vr: Thể tích ban đầu của dụng cụ lấy mẫu (cm3) Dung trọng của đất phụ thuộc vào cấp hạt cơ giới, hàm lượng chất hữu cơ, độ chặt, cấu trúc và kỷ thuật làm đất (Trần Văn Chính, 2006). Theo kết quả nghiên cứu của Võ Thị Gương và ctv (2004) khảo sát trên liếp vườn trồng cam quýt tại Cần Thơ cho thấy dung trọng trên các vườn có tuổi liếp 7 đến 16 năm có biến động từ 0,9 – 1,1 g/cm3 được xem là đất không bị nén dẽ do dung trọng tương đối thấp. Riêng vườn có tuổi liếp 26 đến 33 năm có dung trọng khoảng 1,3 g/cm3 khá cao. Các loại đất có dung trọng thấp thường là những loại đất có kết cấu tốt, hàm lượng mùn cao. Do đó những loại đất này cũng sẽ có chế độ nước, nhiệt, không khí và dinh dưỡng phù hợp cho cây trồng sinh trưởng và phát triển (Nguyễn Thế Đặng, 1999). Tuy nhiên, khi dung trọng của đất cao, tế khổng trong đất giảm sẽ hạn chế sự phát triển của hệ rễ cây trồng, giới hạn khả năng hấp thu dinh dưỡng, hấp thu nước và cuối cùng là năng suất cây trồng giảm (Võ Thị Gương, 2004). 1.5 PHÂN HỮU CƠ Phân hữu cơ là các loại phân được sản xuất từ các vật liệu hữu cơ như các dư thừa thực vật, rơm rạ; phân súc vật, phân chuồng; phân rác và phân xanh. Mặc dù, nền công nghiệp hoá học trên thế giới ngày càng phát triển, phân hữu cơ vẫn là nguồn phân quí, không những làm tăng năng suất cây trồng mà còn có khả năng làm tăng hiệu lực của phân hoá học, cải tạo và nâng cao độ phì của đất (Ngô Ngọc Hưng và ctv, 2004). 1.5.1 Hiệu quả của phân hữu cơ trên sự sinh trưởng của cây trồng Theo Ngô Ngọc Hưng và ctv 2004 thông thường sử dụng phân hữu cơ nhằm mục đích cung cấp dưỡng chất, làm gia tăng hàm lượng chất hữu cơ trong đất, cải thiện tính chất vật lý và hoá học của đất: Cải thiện cấu trúc đất: Ảnh hưởng trực tiếp do làm mất độ cứng của đất, chất mùn trong phân hữu cơ có tác dụng gắn kết các hạt keo nhỏ lại với nhau, tạo nên cấu trúc bền vững, làm cải thiện độ xốp của đất, hạn chế sự rửa trôi, xói mòn đất, làm cho cây thu hút các ion dinh dưỡng dễ dàng hơn. Ảnh hưởng gián tiếp do sự hoạt động của vi sinh vật, làm cho cấu trúc trở nên tốt hơn. Gia tăng khả năng giữ nước của đất: Ảnh hưởng trực tiếp bởi sự liên kết nước với chất hữu cơ, ảnh hưởng gián tiếp bởi sự cải thiện cấu trúc đất. Cải thiện độ thoáng khí của đất: Cung cấp oxy cho rễ cây, tạo ra con đường thoát CO2 từ không gian rễ. Làm gia tăng nhiệt độ đất: Ảnh hưởng trực tiếp do mùn có màu sẫm, làm gia tăng sự hấp thu nhiệt của đất. Ảnh hưởng gián tiếp do cải thiện cấu trúc của đất. Ví dụ sự rút ra nhanh chóng lượng nước dư thừa trong các chỗ nứt, làm cho sự gia tăng nhiệt độ nhanh hơn. Chứa các dưỡng chất tại bề mặt của chúng dưới dạng trao đổi: Làm gia tăng khả năng trao đổi cation, vì vậy làm giảm khả năng trực di các cation, điều này quan trọng trên các loại đất chứa ít sét. Làm gia tăng khả năng đệm các chất dinh dưỡng, chủ yếu là N, P và S. Vì vậy, làm gia tăng hiệu quả của phân hoá học bón vào đất. Cung cấp chất dinh dưỡng và năng lượng: Cung cấp CO2 cho sự quang tổng hợp chất hữu cơ. Cung cấp chất dinh dưỡng khoáng, đặc biệt là chất đạm, lân, lưu huỳnh và các nguyên tố khác, bao gồm cả nguyên tố vi lượng. Cung cấp các chất dinh dưỡng hữu cơ như đường và các amino acid là sản phẩm trung gian trong quá trình phân huỷ, có thể được cây sử dụng. Sự phân huỷ chất mùn, huy động chất dinh dưỡng khoáng vô cơ: Trực tiếp qua sự tiết ra độ chua của vi sinh vật, giải phóng chất dinh dưỡng dự trữ, làm cho chúng trở nên hữu dụng hơn. Gián tiếp bởi sự tấn công của acid được tạo thành trong sự phân huỷ chất mùn, hoặc do sự giảm điện thế oxy hoá, một vài dưỡng chất trở nên di động hơn dưới điều kiện khử như Fe, Mn và gián tiếp là phosphate và Molybden. Sự phân huỷ chất mùn thúc đẩy sự cố định đạm từ khí quyển, chỉ xảy ra đối với chất mùn chứa hàm lượng đạm thấp. Sự bất động chất dinh dưỡng bởi chất mùn, các chất dinh dưỡng bị bất động trong thời gian ngắn do vi sinh vật tạm thời lấy chất dinh dưỡng để cấu tạo nên cơ thể của chúng, vì vậy làm trở ngại đến sự hữu dụng của chúng đối với rễ cây. Sự bất động chất đạm trong thời gian phân huỷ chất hữu cơ đặc biệt quan trọng khi tỷ số C/N lớn hơn 25. Sự bón phân hữu cơ và các tác nhân hoạt động trong đất: Các loại phân hữu cơ có thể chứa nhiều tác nhân hoạt động (active agent). Tác nhân hoạt động là các yếu tố sinh trưởng rất quan trọng cho cây thể hiện qua các chất sinh trưởng như vitamin, quinon có thể có ích lợi chính cho sự nẩy mầm của cây, mà tự nó không sản xuất đủ. 1.5.2 Phân chuồng Phân chuồng là một hỗn hợp phân gia súc, gia cầm với xác bả thực vật, phân chứa đủ ba chất dinh dưỡng cơ bản là đạm, lân và kali cần thiết cho tất cả các loại cây trồng. Ngoài ra, phân còn chứa nhiều nguyên tố vi lượng như B, Cu, Mo, Mn...và những chất kích thích sinh trưởng như Auxin, heteroauxin, các loại vitamin như vitamin B, vitamin C...Những chất dinh dưỡng có trong phân chuồng đều là những chất tương đối dễ tiêu, nhận được từ sự khoáng hoá các hợp chất hữu cơ. Do đó, bón phân chuồng với liều lượng thích hợp sẽ cung cấp thức ăn từ từ cho cây trồng, không gây hiện tượng héo lá, hoặc lốp đổ như trường hợp bón nhiều phân đạm hoá học dễ hoà tan. 1.6 VI SINH VẬT TRONG ĐẤT 1.6.1 Quần thể vi khuẩn trong đất Các nhóm vi sinh vật trong đất, thường được quan sát là: vi khuẩn, xạ khuẩn, tuyến trùng, trùng đất, nấm, tảo, động vật nguyên sinh, vi rus...Hệ vi sinh vật đất này đóng vai trò quan trọng trong các tiến trình phân huỷ chất hữu cơ, cung cấp dưỡng chất hữu dụng cho cây trồng, giúp đất phát triển cấu trúc, chống xói mòn và góp phần phục hồi, nâng cao độ phì tự nhiên của đất (Lê Văn Khoa, 2004). Theo nghiên cứu của Võ Thị Gương và ctv (2004) mật số nấm có xu hướng giảm dần theo tuổi liếp và khác biệt có ý nghĩa thống kê. Mật số nấm cao nhất trên vườn có tuổi liếp 7 đế 9 năm, kế đến là vườn có tuổi liếp là 26 năm và thấp nhất ở vườn có tuổi liếp là 33 năm. Tảo và xạ khuẩn phát triển với mật số tương đương nhau giữa các vườn có tuổi liếp khác nhau. Kết quả này cho thấy, mật số vi khuẩn và nấm trong đất có thay đổi theo tuổi liếp, vườn có tuổi liếp cao mật số nấm và vi khuẩn giảm thấp có thể do điều kiện như đất chặt, độ nén dẽ cao, pH đất thấp, hàm lượng chất hữu cơ thấp, dinh dưỡng thấp là yếu tố làm giảm sự phát triển của nấm và vi khuẩn. Qua kết quả nghiên cứu của Bossuyt và ctv (2001) cho thấy nấm trong đất có tác dụng liên kết các hạt đất lại thành những đoàn lạp to. Trong khi đó, vi khuẩn trong đất giúp ổn định các cỡ hạt sét - thịt trong đất (Tisdall, 1994). Do đó, sự giảm mật số nấm, vi khuẩn trong đất liếp lâu năm ngoài việc ảnh hưởng bất lợi đến các tiến trình sinh học như sự khoáng hoá chất hữu cơ trong đất thì ảnh hưởng bất lợi về mặt vật lý đất là đất càng chặt, tế khổng trong đất kém, trao đổi khí và vận chuyển dưỡng chất kém gây ra bất lợi cho sự phát triển của rễ và sinh trưởng của cây trồng. 1.6.2 Vai trò của sinh vật trong đất Theo Lê Văn Khoa (2004) cho rằng vai trò quần thể vi sinh vật trong đất có ảnh hưởng trực tiếp đến các tiến trình trong đất, đặc biệt là những tiến trình thúc đẩy sự phát triển và làm tăng độ phì tự nhiên của đất (sự phát triển cấu trúc, sự khoáng hoá, sự chuyển hoá đạm, sự cố định đạm...). Ngoài ra, trong các nghiên cứu gần đây cho thấy một số dòng vi sinh vật đất còn góp phần phân huỷ một vài loại thuốc trừ sâu bệnh, trừ cỏ dại lưu tồn trong đất. Theo Võ Thi Gương (2002) thì hệ vi sinh vật đất đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển hoá chất hữu cơ và góp phần cải thiện tính chất lý, hoá đất. Bản thân sinh vật đất khi chết đi cũng trở thành chất hữu cơ và được phân huỷ là một trong những nguồn cung cấp dưỡng chất cho cây trồng. Theo Trần Thượng Tuấn (2004) cho biết vi sinh vật có vai trò sản sinh enzyme phân huỷ các hợp chất hữu cơ: cellulase, lignase, xylase, chitinase, protease, lipase… . Sản sinh các chất kháng sinh giúp rễ cây kháng bệnh; Sản sinh một số chất sinh trưởng: auxin, gibberellin, cytokinin; Cố định đạm và giữ gìn cấu trúc của đất và chất hữu cơ trong đất. Theo kết quả nghiên cứu của Võ Thị Gương và ctv (2004) thì quần thể vi sinh vật đóng vai trò quan trọng trong việc phân huỷ xác bả hữu cơ, tham gia vào các phản ứng sinh hoá trong đất, làm tăng độ phì nhiêu của đất và ảnh hưởng đến tính chất vật lý đất có lợi cho cây trồng. Lượng vi khuẩn trong tầng đất mặt liếp vườn 33 năm tuổi rất thấp so với các vườn có tuổi liếp 7, 9 và 26 năm. Theo nghiên cứu của Dương Minh (2004) nấm Trichoderma có khả năng phòng trị các loại nấm bệnh hại rễ cây ăn trái và rau màu như Fusarium, Rhizoctonia, Sclerotium, Colletotrichum, Verticilium… và trứng tuyến trùng hại rễ. Sự kết hợp chủng vi khuẩn Rhizobium với dung dịch lân chứa vi khuẩn và Trichoderma làm tăng sinh trưởng của cây, hấp thu đạm và năng suất, quần thể vi sinh vật ở vùng rễ (Rudresh và ctv, 2004). CHƯƠNG 2 PHƯƠNG TIỆN – PHƯƠNG PHÁP 2.1 PHƯƠNG TIỆN  2.1.1 Thời gian thực hiện  Đề tài được thực hiện vào tháng 05 năm 2006 tại xã Phú Phụng, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre. Tiến hành phân tích vào tháng 01 năm 2008 tại phòng thí nghiệm phân tích hóa - lý đất, Bộ môn Khoa Học Đất và Quản Lý Đất Đai, Khoa Nông Nghiệp và Sinh Học Ứng Dụng, Trường Đại Học Cần Thơ và kết thúc vào tháng 04 năm 2008. 2.1.2 Các phương tiện vật tư hổ trợ cho đề tài Các thiết bị, dụng cụ phân tích trong phòng thí nghiệm phân tích hóa- lý đất. Mẫu đất được lấy tại xã Phú Phụng, Huyện Chợ Lách, Tỉnh Bến Tre. 2.1.3 Hàm lượng dinh dưỡng trong đất đầu vụ và mẫu vật liệu làm thí nghiệm Bảng 2.1. Hàm lượng dinh dưỡng trong đất đầu vụ và mẫu vật liệu làm thí nghiệm. Chất dinh dưỡng trong vật liệu thí nghiệm pH đất tươi đầu vụ TÊN MẪU % N %P %K %Ca %Mg %C 3,38 Mẫu đất đầu vụ 1,45 0,55 0,36 0,06 0,27 37,08 Phân trùng + Tricho 0,60 0,21 0,81 0,003 0,34 5,38 Bã bùn mía + Tricho 1,90 2,50 0,34 0,35 0,27 29,79 Cỏ cúc ủ 3 ngày 1,76 0,36 3,11 0,50 0,22 41,39 Vôi 36,01 1,07 2.2 PHƯƠNG PHÁP  2.2.1 Phương pháp nghiên cứu 2.2.1.1 Đánh giá sự suy thoái về lý, hoá học, độ phì nhiêu và hô hấp đất trên các vườn cây ăn trái Để đạt được mục tiêu nghiên cứu đề ra, thí nghiệm được thực hiện qua các bước sau: Bước 1: Đánh giá tổng quan hiện trạng vườn chôm chôm qua thảo luận với nông dân có vườn cây ăn trái lâu năm tại địa phương như kỹ thuật canh tác, phân bón, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, chế độ tưới tiêu, năng suất và sâu bệnh hại trên cây. Bước 2: Chọn vườn điều tra khảo sát trên vườn chôm chôm. Các vườn được chọn cần đạt các yêu cầu như có tuổi liếp trên 17 năm, có biểu hiện cây kém phát triển, năng suất thấp, phẩm chất trái kém. 2.2.1.2 Thử nghiệm một số biện pháp cải thiện sự suy thoái đất Thí nghiệm sẽ được bố trí theo khối hoàn toàn ngẫu nhiên với 5 nghiệm thức và 3 lần lập lại. Mỗi nghiệm thức 30 m2/2cây. Tổng diện tích thí nghiệm 500m2. Chôm chôm đã được trồng 17 năm tuổi và lượng phân NPK bón theo khuyến cáo (1,5 kg N + 1,0 kg P2O5 + 1,7kg K2O cây-1) Các nghiệm thức: Nghiệm thức 1: Bón theo nông dân (2,2N +1,5P2O5 + 0,3 K2O). Nghiệm thức 2: 20 tấn ha-1 Phân bã bùn mía + (1,5 kg N + 1,0 kg P2O5 + 1,7kg K2O cây-1). Nghiệm thức 3: 20 tấn ha-1 Biogas + (1,5 kg N + 1,0 kg P2O5 + 1,7kg K2O cây-1). Nghiệm thức 4: 20 tấn ha-1 Phân trùng + (1,5 kg N + 1,0 kg P2O5 + 1,7kg K2O cây-1). Nghiệm thức 5: 20 tấn ha-1 cúc dại + (1,5 kg N + 1,0 kg P2O5 + 1,7kg K2O cây-1). Lượng vôi nền 1,5 tấn ha-1; ẩm độ phân hữu cơ là 50 %. 2.2.2 Chỉ tiêu theo dõi + Mẫu đất đầu vụ: Polsen, N-NH4 +, N-NO3-, Nlabile, CEC, Zn, CHC, hô hấp đất, pH, dung trọng, đoàn lạp. + Mẫu đất giữa vụ (6 tháng sau khi bón phân hữu cơ): Polsen, N-NH4 +, N-NO3-, Nlabile, CEC, Zn, CHC, hô hấp đất, pH. + Mẫu đất cuối vụ: Polsen, N-NH4 +, N-NO3-, Nlabile, CEC, Zn, CHC, hô hấp đất, pH, dung trọng, đoàn lạp. + Năng suất trái. 2.2.3 Phương pháp phân tích 2.2.3.1 Tính chất hoá học và hô hấp đất - pH tươi của đất theo từng giai đoạn sinh trưởng: pH đất được xác định bằng cách sử dụng điện cực xác định [H+] trong dung dịch trích với tỷ lệ đất và nước 1 : 2,5. - Lân dễ tiêu trong đất: được xác định theo phương pháp Olsen với dung dịch trích NaHCO3 0,5 M ở pH 8,5, với tỷ lệ đất và dung môi là 1 : 20 và thời gian lắc 30 phút. Dung môi NaHCO3 0,5 M ở pH 8,5 chủ yếu hoà tan lân ở dạng FePO4, AlPO4 và một ít Ca3(PO4)2. Hàm lượng lân dễ tiêu trong dung dịch trích được xác định theo phương pháp so màu amonium molybdate - acid ascorbic ở bước sóng 800 nm hoặc 720 nm. - Chất hữu cơ: chất hữu cơ trong đất được xác định theo phương pháp Walkley- Black. Dựa trên nguyên tắc oxy hoá chất hữu cơ bằng K2Cr2O7 trong môi trường H2SO4 đậm đặc, sau đó chuẩn độ lượng dư K2Cr2O7 bằng FeSO4 0,1 N. - Đạm hữu cơ dễ phân huỷ: dung dịch trích là KCl 2M đun nóng ở 100oC trong 4 giờ (Gianello và Bremner, 1986). Đạm NH4+ - N được phân tích theo phương pháp Kjeldahn có thêm vào MgO để tạo môi trường kiềm. NH4+- N được xác định bằng cách chuẩn độ với dung dịch H2SO4 0,0025 M. - Kali trao đổi trong đất: Kali được đo ở dung dịch trích mẫu đất với BaCl2 0,1 M trên máy hấp thu nguyên tử (Atomic Absorption Spectrophotometer). Chất Cs (acidified) được thêm vào dung dịch trước khi đo và độ dài sóng tương ứng K 766 nm. - Calcium và Magnesium trao đổi trong đất: Ca và Mg trong dung dịch trích BaCl2 và được đo bằng máy hấp thu nguyên tử (Atomic Absorption Spectrophotometer). Để ngăn sự kết hợp giữa Ca, Mg với P, Al,… trong ngọn lửa, Lanthanum được thêm vào và nó sẽ thay thế Ca và Mg. Đối với Ca đo ở độ dài sóng 422,7 nm và Mg 285,2 nm. - Phương pháp xác định hô hấp đất: sự hô hấp đất được xác định bằng cách đo hàm lượng CO2 tích luỹ theo thời gian theo phương pháp của Anderson (1982): khí CO2 thoát ra từ đất sẽ được dung dịch NaOH có nồng độ chính xác biết trước hấp thu và giữ lại dưới dạng carbonate CO2 + 2OH- ª CO32- + H2O Xác định lượng NaOH thừa, sau khi đã hấp thu CO2 bằng cách chuẩn độ với dung dịch H2SO4 chuẩn (0,01N). Lượng CO2 tích luỹ được tính toán thông qua việc xác định nồng độ NaOH giảm theo thời gian. Lượng CO2 được xác định sau 7 ngày 14 ngày và 28 ngày. Tính kết quả Tính lượng CO2 thoát ra bằng công thức: Mg CO2-C = (B-V) x (N x E) Trong đó : B : thể tích dung dịch H2SO4 (ml) dùng để chuẩn độ mẩu blank. V : thể tích dung dịch H2SO4 (ml) dùng để chuẩn độ mẩu đất. N : nồng độ mol của dung dịch H2SO4 chuẩn (0,01N). E : khối lượng đương lượng của CO2 (E=22). 2.2.3.2 Xác định các tính chất vật lý đất * Phương pháp tính dung trọng: mẫu đất lấy không được để xáo trộn dùng để tính toán dung trọng. Các bước thực hiện: - Cân khối lượng dụng cụ lấy mẫu (2 số thập phân). - Lấy mẫu đất không xáo trộn ở độ sâu cần tính toán, chú ý mẫu đất phải đủ trong dụng cụ thể tích được dùng lấy mẫu. - Sấy mẫu đất ở 105oC liên tục ít nhất 24 giờ. - Lấy ra để nguội trong bình hút ẩm. - Cân và xác định khối lượng đất khô kiệt của mẫu đất. * Phương pháp xác định tính bền của đất theo Trường Đại Học Gent, Bỉ (Verplancke, 2002): Tính bền sẽ được xác định cho hai trạng thái đất khác nhau. Đất khô không khí sẽ được qua rây 8 mm. Rây khô: Trong phương pháp này, sự phân phối thực của tập hợp đất khô sẽ được xem xét. Cân khoảng 200 g đất (tập hợp < 8mm), sau đó cho đất qua loạt rây với kích cỡ của đường kính như sau: 4,76; 2,83; 2,00; 1,00; 0,50 và 0,30mm. Rây có đường kính nhỏ nhất được đặt ở dưới cùng. Loạt rây đó được lắc nhẹ bằng tay (5 lần), theo đó chúng ta sẽ thu được những phần tử của tập như sau: 8 – 4,76 mm; 4,76 – 2,83 mm; 2,83 – 2,00 mm; 2,00 – 1,00 mm; 1,00 – 0,50 mm; 0,50 – 0,30 mm và <0,30 mm. Mỗi phần tử được đổ ra hộp nhôm và cân cẩn thận, tiếp theo tập hợp đó được làm ẩm đến ẩm độ thủy dung ngoài đồng theo hệ thống Mariotte, trong đó chiều cao và đường kính giọt nước được thực hiện theo mô hình mưa trong phòng thí nghiệm. Khối lượng của những giọt mưa được xác định bằng cách hứng 30 giọt nước trong một cốc nhôm và cân chúng. Trong lượng trung bình của một giọt sẽ được tính toán và số lượng giọt nước cần thiết để làm ẩm lượng đất đến thuỷ dung ngoài đồng. Thể tích nước cần để làm ẩm lượng đất khô đạt thuỷ dung ngoài đồng cho các sa cấu đất khác nhau: Sét nặng là 24 ml nước; Sét là 22; Sét nhẹ là 20; Thịt là 18 và cát là 15 ml nước. Những cốc đựng các kích cỡ hạt khác nhau được đặt trong tủ ủ 24 giờ (khoảng 20oC và ẩm độ 80%-100%). Rây ướt: Sau khi ủ, mỗi cấp hạt được chuyển vào loạt rây tương ứng, hệ thống rây này giống như hệ thống rây khô nhưng đã được loại bỏ rây cuối cùng (<0,3 mm). Hệ thống rây ướt được lắc lên xuống trong nước dưới tốc độ không đổi (tự động) trong vòng 5 phút. Sau đó, tập hợp đất còn lại trên mỗi rây được rửa vào cốc, để yên trong khoảng 15 phút cho các hạt đất lắng xuống, lượng nước trên mặt được loại bỏ. Các cốc được đặt trên bếp nung để cho nước bốc hơi, sau đó được để khô trong không khí, phần tử của mỗi tập hợp sẽ được cân. Lượng tập hợp <0,3 mm được xác định bằng sự sai khác với trọng lượng ban đầu. 2.2.4 Phân tích số liệu  Số liệu sẽ được xử lý bằng EXCELL, sau đó phân tích thống kê bằng chương trình MSTATC. CHƯƠNG 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1 HIỆU QUẢ CỦA CÁC BIỆN PHÁP CẢI THIỆN ĐẤT VỀ TÍNH CHẤT HÓA HỌC ĐẤT 3.1.1 pH đất Nhìn chung kết quả từ hình 3.1 cho thấy, pH đất không có sự khác biệt ý nghĩa giữa các nghiệm thức, nhưng pH đất có bón phân hữu cơ + Tricho cao hơn so với bón theo nông đân. Từ kết quả trình bày ở bảng 2.1 ta thấy pH đất tươi đầu vụ rất thấp (pH 4 (bã bùn mía + Tricho pH = 4,50), đến cuối vụ lại giảm xuống (bã bùn mía + Tricho có pH = 3,71). Đến vụ sau, tiến trình cũng diễn ra như vụ trước nhưng pH đất lại giảm xuống, đầu vụ sau khi bón phân hữu cơ + Tricho pH < 3,5, đến giữa vụ pH có tăng (bã bùn mía + Tricho có pH = 3,65) nhưng vẫn thấp hơn so với vụ trước. Hình 3.1. Hiệu quả của phân hữu cơ đến pH đất trên vườn chôm chôm. Nguyên nhân do sự acid hóa của đất trồng cũng tăng theo thời gian lên liếp, có nghĩa là đất có tuổi liếp càng lâu năm thì pH đất càng thấp do nhiều yếu tố kết hợp như một phần cation base được cây trồng hấp thu, rửa trôi dinh dưỡng (Ca2+, Mg2+) theo thời gian, sự tích tụ ion H+ (do rễ cây phóng thích H+ để lấy dinh dưỡng), sự cung cấp dưỡng chất mất cân đối. Nhìn chung, khi bón phân hữu cơ có sung nấm Tricho thì lượng pH tăng cao hơn so với bón theo nông dân. Do đó đối với đất liếp lâu năm ta nên bón chất hữu cơ có bổ sung nấm Tricho để cải thiện độ pH của đất, vì khi bón phân hữu cơ vào giúp giữ được những cation kiềm khi xảy ra hiện tượng rửa trôi nên pH đất ít thay đổi. 3.1.2 Chất hữu cơ Kết quả trình bày ở hình 3.2 cho thấy, 3 tháng sau khi bón phân hữu cơ có bổ sung nấm Tricho thì hàm lượng chất hữu cơ ở mức trung bình so với thang đánh giá hàm lượng chất hữu cơ trong đất theo phương pháp Walkley-Black (Nguồn Metson, 1961, theo trích dẫn của Landon, 1984) cao nhất là bón bã bùn mía có bổ sung nấm Tricho (35,20 gC/kg) chưa thấy có sự khác biệt ý nghĩa trong thống kê (p = 0,05) so với nghiệm thức bón theo nông dân và các nghiệm thức còn lại. Sau 6 tháng, hàm lượng chất hữu cơ trong đất gia tăng đáng kể, cao nhất là khi bón biogas có bổ sung nấm Tricho (55,07 gC/kg) nhưng chưa thấy có sự khác biệt ý nghĩa trong thống kê với các nghiệm thức còn lại. Đến giai đoạn 12 tháng sau khi bón phân hữu cơ ở hình 3.2 cho thấy hàm lượng chất hữu cơ đạt ở mức trung bình, cao nhất ở nghiệm thức biogas (33,73 gC/kg) và nghiệm thức bã bùn mía (33,07 gC/kg), có sự khác biệt ý nghĩa trong thống kê so với nghiệm thức bón theo nông dân, nghiệm thức bón cúc dại và phân trùn. Hình 3.2. Hiệu quả của phân hữu cơ đến hàm lượng chất hữu cơ trong đất trên vườn chôm chôm. Ở giai đoạn 3 tháng của chu kỳ thứ hai bón phân hữu cơ ở hình 3.2, hàm lượng chất hữu cơ cũng ở mức trung bình, cao nhất là bã bùn mía (36,48 gC/kg) nhưng chưa thấy có sự khác biệt ý nghĩa về mặt thống kê so với nghiệm thức bón theo nông dân và các nghiệm thức còn lại. Ở giai đoạn 6 tháng sau khi bón phân hữu cơ, hàm lượng chất hữu cơ trong đất cao nhất là bã bùn mía (32,82 gC/kg) có sự khác biệt ý nghĩa về mặt thống kê so với nghiệm thức bón theo nông dân nhưng không có sự khác biệt ý nghĩa với ba nghiệm thức còn lại. Khi bón phân hữu cơ + Tricho, ở giai đoạn đầu vụ ta thấy hàm lượng chất hữu cơ ở mức trung bình, điều này phù hợp với nghiên cứu của Võ Thị Gương và ctv (2004), trên các vùng trồng cây ăn trái ở đồng bằng sông Cửu Long có nhiều năm tuổi bước đầu cho thấy sự giảm hàm lượng chất hữu cơ. Đến giữa vụ, hàm lượng chất hữu cơ tăng lên là do trong giai đoạn này cây xử lý ra hoa nên rụng lá nhiều. Mặt khác, trong thí nghiệm có tưới bổ sung nấm Tricho nên giúp quá trình phân hủy thân cỏ và lá cây xảy ra nhanh hơn thì hàm lượng chất hữu cơ tăng cao, trong đó ta thấy nghiệm thức bã bùn mía + Tricho tăng cao do khả năng phân hủy chất hữu cơ của chúng thấp nên hàm lượng chất hữu cơ vẫn còn nhiều ở giai đoạn này. Từ những kết quả trên, ta thấy bón phân hữu cơ + Tricho hàm lượng chất hữu cơ cao hơn so với nghiệm thức bón theo nông dân. Do đó, nên bón nhiều phân hữu cơ có bổ sung nấm Trichoderma cho đất liếp lâu năm để bổ sung lượng chất hữu cơ bị mất đi trong thời gian dài lên liếp hơn là bón theo nông dân. 3.1.3 Hàm lượng đạm 3.1.3.1 Đạm hữu cơ dễ phân hủy Kết quả trình bày ở hình 3.3 cho thấy, khi bón phân hữu cơ có bổ sung nấm Trichoderma thì chưa thấy có sự khác biệt ý nghĩa thống kê giữa các nghiệm thức ở các giai đoạn đầu vụ, giữa vụ và cuối vụ. Ở giai đoạn đầu vụ, do mới bón phân hữu cơ vào, là giai đoạn thích nghi nên lượng đạm hữu cơ dễ phân hủy chưa được vi sinh vật phân hủy kịp mà chúng chỉ lấy đạm để tích lũy năng lượng nuôi cơ thể, do đó lượng đạm trong các nghiệm thức bón phân hữu cơ không tăng nhiều so với nghiệm thức bón theo nông dân. Đến giữa vụ, hàm lượng đạm hữu cơ dễ phân hủy trong phân hữu cơ + Tricho gia tăng đáng kể, do sự phát triển của nấm Trichoderma trong đất giúp cải thiện phần nào về cấu trúc đất nên đạm hữu cơ dễ phân hủy được đưa xuống sâu bên dưới đất, giúp cho rễ cây trồng phát triển sâu hơn, và hàm lượng đạm trong nghiệm thức phân trùn + Tricho giả

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docẢnh hưởng của luân canh cây họ đậu và chất hữu cơ đến khả năng khóang hóa đạm và hô hấp đất trên đất bạc màu thâm canh lúa hai vụ tại mộc hóa- long an.doc