Công tác thu nộp BHXH là điều kiện tiên quyết cho việc hình thành và tăng trưởng quỹ BHXH. Vì vậy ngay từ khi mới thành lập, trên cơ sở những văn bản hướng dẫn hoạt động BHXH và danh sách các đơn vị sử dụng lao động nhận bàn giao từ cơ quan Lao động – Thương binh và xã hội, Tài chính, Liên đoàn Lao động. BHXH các tỉnh, thành phố đã tập trung nắm tình hình hoạt động và sử dụng lao động của các đơn vị có trong danh sách được bàn giao, cũng như các đơn vị ngoài danh sách bàn giao nhưng trong diện phải tham gia BHXH theo quy định của pháp luật. Nhờ có sự cố gắng trên toàn ngành BHXH Việt Nam đã đat được những thành tích nhất định, khẳng định được vị trí của mình, khẳng định được sự tồn tại và phát triển thông qua các hoạt động của ngành:
27 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2939 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá về nguồn thu và cơ chế quản lý quỹ bảo hiểm xã hội hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển.Quỹ BHXH hình thành và hoạt động đã tạo khả năng giải quyết những rủi ro của tất cả những người tham gia với tổng dự trữ ít nhất, giúp cho việc giàn trải rủi ro được thực hiện theo cả hai chiều không gian và thời gian, đồng thời giúp giảm thiểu thiệt hại kinh tế cho người sử dụng lao động, tiết kiệm chi cho cả Ngân sách nhà nướcvà ngân sách gia đình.Quỹ được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau:
- Thứ nhất, đó là phần đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động và Nhà nước, đây là nguồn chiếm tỉ trọng lớn nhất và cơ bản của quỹ.
- Thứ hai, là phần tăng thêm do bộ phận nhàn rỗi tương đối của quỹ được tổ chức BHXH chuyên trách đưa vào hoạt động sinh lời.
- Thứ ba, là phần nộp phạt của những cá nhân và tổ chức kinh tế vi phạm luật lệ về BHXH. Phần lớn các nước trên thế giới, quỹ BHXH đều được hình thành từ các nguồn nêu trên. Tuy nhiên phương thức đóng góp và mức đóng góp của các bên tham gia có khác nhau.
Mục đích sử dụng quỹ BHXH
Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu cho hai mực đich sau đây:Chi trả và trợ cấp cho các chế độ BHXH,chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH
Theo khuyến nghị của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) quỹ BHXH được sử dụng để trợ cấp cho các đối tượng tham gia BHXH, nhằm ổn định cuộc sống cho bản thân và gia đình họ, khi đối tượng tham gia BHXH gặp rủi ro. Thực chất là trợ cấp cho 9 chế độ mà tổ chức này đã nêu lên trong công ước 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ:Chăm sóc y tế,Trợ cấp ốm đau ,Trợ cấp thất nghiệp ,trợ cấp tuổi già, trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, trợ cấp gia đình cấp sinh đẻ, trợ cấp khi tàn phế, trợ cấp cho người còn sống ( trợ cấp mất người nuôi dưỡng) .9 chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH . Tuỳ điều kiện kinh tế xã hội mà mỗi nước tham gia công ước Giơnevơ thực hiện khuyến nghị đó ở mức độ khác nhau, nhưng ít nhất phải thực hiện được ba chế độ. Trong đó, ít nhất phải có một trong năm chế độ: (3), (4), (5), (8), (9). Mỗi chế độ trong hệ thống trên khi xây dựng đều dựa trên những cơ sở kinh tế xã hội tài chính, thu nhập, tiền lương .v.v…Đồng thời tuỳ từng chế độ khi xây dựng còn phải tính đến các yếu tố sinh học; tuổi thọ bình quân của quốc gia, nhu cầu dinh dưỡng; xác suất tử vong…Tuy nhiên, cơ sở để xác định điều kiện hưởng BHXH phải tính đến một loạt các yếu tố liên quan đến toàn bộ hệ thống các chế độ cũng như từng chế độ BHXH cụ thể. Chẳng hạn khi xác định điều kiện hưởng trợ cấp BHXH tuổi già phải dựa vào cơ sở sinh học là tuổi đời và giới tính, của người lao động là chủ yếu. Bởi vì tuổi già để hưởng trợ cấp hưu trí của mỗi giới, mỗi vùng, mỗi quốc gia có những khác biệt nhất định.
II. Cơ chế quản lý quỹ BHXH
1. Một số nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và quản lý quỹ BHXH
- Tài chính BHXH là một quỹ tồn tại và hoạt động độc lập, cơ chế thu, chi của quỹ phải luôn bảo đảm cân đối, phải bảo toàn và phát triển quỹ để bảo đảm quyền lợi cho người tham gia BHXH. Vì thế, tổ chức quản lý điều hành quỹ BHXH phải được tổ chức độc lập thống nhất trong phạm vi cả nước trên cơ sở pháp luật của Nhà nước đã ban hành và chịu sự kiểm tra, giám sát, quản lý của Nhà nước về chấp hành pháp luật BHXH đối với các bên tham gia BHXH. Tổ chức BHXH Việt Nam có hoạt động độc lập thì mới có điều kiện theo dõi, kiểm tra, giám sát công việc thu, chi của quỹ, tăng cường công tác quản lý quỹ và mới có điều kiện để quản lý, sử dụng vốn nhàn rỗi trong cơ chế thị trường có lợi nhất, không ngừng tinh giảm biên chế gọn nhẹ, giảm chi phí quản lý hành chính, nghiệp vụ hoạt động BHXH. Để bảo vệ quyền lợi cho người lao động, Nhà nước cần phải luật pháp hoá việc đầu tư vốn nhàn rỗi của quỹ BHXH, tạo điều kiện tự chủ và tự chịu trách nhiệm của tổ chức BHXH về kết quả đầu tư bảo toàn và phát triển vốn nhàn rỗi của quỹ BHXH, phù hợp với cơ chế thị trường.
Việc quản lý điều hành tăng trưởng quỹ phải đảm bảo nguyên tắc bảo toàn được vốn, không làm vốn bị tổn thất, còn phải làm cho vốn sinh lợi. Việc đầu tư vốn nhàn rỗi của quỹ BHXH phải đảm bảo các yêu cầu sau:
+ Bảo đảm chắc chắn, an toàn tuyệt đối, có khả năng thanh khoản cao.
+ Phải có lãi.
+ Phải đáp ứng nhu cầu thanh toán thường xuyên việc chi trả các chế độ BHXH phát sinh.
Vì thế, các hình thức đầu tư phải linh hoạt, đa dạng nhưng phải chặt chẽ theo những nguyên tắc và yêu cầu nêu trên. Thực hiện tốt việc đầu tư vốn nhàn rỗi, quỹ BHXH không chỉ có tác dụng bảo toàn và phát triển vốn mà còn bảo đảm quyền lợi cho người lao động trên thực tế. Tổ chức quản lý quỹ đầu tư tăng trưởng vốn nhàn rỗi của quỹ BHXH phải tuân theo nguyên tắc hạch toàn kinh doanh.
- Phải bảo đảm quyền lợi của người lao động tương ứng với nghĩa vụ đóng góp của họ. Trong nền kinh tế thị trường, người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng hưởng chế độ BHXH. Song người lao động muốn được hưởng quyền lợi về BHXH thì họ phải có nghĩa vụ đóng góp BHXH theo các phương thức thích hợp (bắt buộc hay tự nguyện, ít chế độ hay nhiều chế độ BHXH...) thường xuyên đều đặn trong những tháng, năm còn tuổi lao động. Quyền lợi được hưởng phải phù hợp với mức đóng góp và thời gian đóng góp BHXH của từng người lao động theo quy định của pháp luật. Vì thế, để tạo nguồn tài chính ổn định cho quỹ BHXH, ngoài sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động Nhà nước cũng phải đóng góp vào quỹ BHXH. Trong trường hợp Nhà nước thay đổi chính sách kinh tế - xã hội làm mất cân đối quỹ, hoặc do các rủi ro bất khả kháng, Nhà nước phải có trách nhiệm trợ giúp quỹ BHXH để đảm bảo chi trả có các đối tượng hưởng chế độ BHXH. Số tiền đóng góp phảo được tính trên cơ sở số tiền lương hoặc thu nhập và được hạch toán vào giá thành sản phẩm. Do vậy, những đơn vị sử dụng lao động trốn tránh nghĩa vụ đóng góp BHXH, phải xử lý thật nghiêm túc. Vì họ trốn tránh nghĩa vụ đóng BHXH không những xâm phạm đến quyền lợi BHXH của người lao động, mà còn gây ra bất bình đẳng với các đơn vị sử dụng lao động thực hiện nghiêm túc đóng BHXH.
Thực hiện nguyên tắc này sẽ xoá bỏ được bao cấp trong chế độ BHXH, tạo ra sự bình đẳng giữa người lao động trong các thành phần kinh tế, tạo ra khả năng cân đối thu, chi quỹ BHXH, xoá bỏ được sự thiếu trách nhiệm của các doanh nghiệp nâng lương bừa bãi cho người lao động trước khi về hưu để được hưởng trợ cấp hưu trí cao hơn.
- Hoạt động BHXH không mang tính chất kinh doanh mà mang tính chất của quỹ tương hỗ bảo hiểm. Mục đích hoạt động của quỹ BHXH trước hết nhằm bảo vệ quyền lợi cho người lao động khi gặp rủi ro BHXH, sau nữa bảo đảm an toàn cho xã hội và nền kinh tế. Hoạt động BHXH chủ yếu dựa trên nguyên tắc “lấy số đông bù số ít” mang tính chất cộng đồng, tính chất xã hội giữa những người lao động, trừ chế độ bảo hiểm hưu trí và tử tuất là dựa chủ yếu trên nguyên tắc hoàn trả trực tiếp. Các khoản đóng góp vào quỹ BHXH phụ thuộc vào mức độ sử dụng chi trả của các chế độ BHXH, nếu quỹ không đủ bù đắp thì phải nâng mức đóng góp hoặc hạ thấp mức chi trợ cấp BHXH để bảo đảm quỹ luôn luôn cân đối giữa thu và chi. Nguyên tắc cơ bản quản lý quỹ BHXH là phải cân đối thu với chi, chính vì vậy đòi hỏi cơ quan quản lý quỹ BHXH phải tổ chức công tác kế toán, kiểm tra sử dụng một cách chặt chẽ, đúng pháp luật, sử dụng tiền nhàn rỗi đầu tư sinh lợi có hiệu quả, quỹ được bảo toàn và phát triển để có điều kiện bảo đảm quyền lợi cho người lao động hoặc giảm được sự tài trợ của Nhà nước.
- Việc đổi mới, hoàn thiện cơ chế tạo và sử dụng quỹ BHXH phải trên cơ sở thực trạng phát triển kinh tế - xã hội và cơ chế quản lý kinh tế - xã hội của đất nước. Phải tiến hành đồng bộ với việc đổi mới, hoàn thiện cách chính sách, cơ chế quản lý kinh tế - xã hội có liên quan như chính sách lao động và việc làm, chính sách thu nhập, tiền lương, tiền công, chăm sóc y tế, kế hoạch hoá gia đình và các chính sách kinh tế - xã hội khác. Bởi vì, chính sách cơ chế quản lý kinh tế - xã hội của đất nước, nó phải phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, phù hợp với mức độ phát triển của từng loại lao động (ít hay nhiều chế độ BHXH). Đặc biệt lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, lao động tự do, có như vậy BHXH mới tồn tại và phát triển vững chắc, phù hợp với sự phát triển của các thành phần kinh tế của đất nước. Mặt khác, Nhà nước chỉ bảo trợ quỹ BHXH khi Nhà nước có những thay đổi các chính sách kinh tế xã hội làm mất cân đối thu, chi quỹ BHXH hoặc do các rủi ro bất khả kháng làm mất cân đối thu, chi quỹ BHXH.
Trên đây là một số nguyên tắc cơ bản cần phải quán triệt trong tổ chức và quản lý quỹ BHXH làm cơ sở cho việc cải tiến, hoàn thiện các chế độ, chính sách BHXH ở nước ta trong thời gian tới.
2. Cơ chế quản lý quỹ BHXH ở nước ta
. Giai đoạn trước 1995
Quỹ BHXH hoạt động dưới sự quản lý của Bộ Lao động – Thương binh & Xã hội và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, đây chính là 2 cơ quan trực tiếp quản lý BHXH. Cơ chế quản lý quỹ BHXH do 2 ngành đảm nhiệm được thống nhất theo ngành dọc từ Trung ương đến điạ phương theo 3 cấp:
Cấp Trung ương : Bộ Lao động - Thương binh & Xã hội; Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
Cấp tỉnh : Sở Lao động - Thương binh & Xã hội; Liên hiệp Công đoàn tỉnh, thành phố.
Cấp huyện : Phòng Lao động - Thương binh & Xã hội; Các Công đoàn cơ sở.
Cơ quan thứ hai cùng phối hợp quản lý quỹ BHXH là cơ quan Tài chính các cấp. Cơ quan này có vai trò rất quan trọng trong hoạt động của quỹ BHXH. Vì cơ quan Tài chính có nhiệm vụ cung cấp đầy đủ và kịp thời nguồn kinh phí để 2 ngành là Bộ Lao động thương binh và xã hội và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam phân phối chi trả cho các đối tượng được hưởng. Cơ quan Tài chính cũng được chia ra làm 3 cấp tương ứng là:
Cấp Trung ương : Bộ Tài chính
Cấp Tỉnh : Sở Tài chính
Cấp Huyện : Phòng Tài chính
Ngoài 2 ngành có liên quan chính đến hoạt động của quỹ BHXH chúng ta còn thấy vai trò rất quan trọng của các cấp chính quyền địa phương. Đó là UBND tỉnh, huyện và xã. Ngành Lao động - Thương binh & Xã hội và Công đoàn Việt Nam muốn quản lý tốt các đối tượng được hưởng BHXH thì phải thông qua UBND ở từng địa phương.
Tất cả các cơ quan nêu trên đều có vai trò nhất định trong công tác quản lý quỹ BHXH. Các cơ quan này cùng phối hợp hoạt động với nhau nhằm thực hiện mục tiêu chung là quản lý quỹ BHXH có hiệu quả nhất đem lại lợi ích cho người lao động.
Sơ đồ cấp phát kinh phí
Bộ LĐTBXH và tổng LĐLĐVN
Phòng LĐTBXH và Công
đoàn cơ sở
Sở LĐTBXH và Liên hiệp công đoàn tỉnh
Đối tượng
Bộ Tài chính
Sở Tài chính
Phòng Tài chính
. Giai đoạn từ 1995 - đến nay
Để triển khai thực hiện chế độ, chính sách BHXH trong thời kỳ đổi mới, ngày 16/2/1995 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 19/CP về việc thành lập tổ chức BHXH Việt Nam trên cơ sở thống nhất và tổ chức BHXH ở Trung ương và địa phương thuộc hệ thống Lao động - Thương binh & Xã hội và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam quản lý, để giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, quản lý quỹ BHXH và thực hiện các chính sách, chế độ BHXH theo pháp luật của Nhà nước. Và bắt đầu từ 1/10/1995, hệ thống tổ chức bộ máy của BHXH Việt Nam từ Trung ương đến địa phương đã chính thức đi vào hoạt động.
BHXH Việt Nam đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ , chịu sự quản lý Nhà nước của Bộ Lao động – Thương binh & Xã hội , các cơ quan Nhà nước về lĩnh vực có liên quan và sự giám sát của Tổ chức Công đoàn.
Hệ thống BHXH Việt Nam hiện nay gồm :
- Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam, là cơ quan quản lý cao nhất của BHXH Việt Nam. Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam thực hiện một số nhiệm vụ chủ yếu sau: Chỉ đạo và giám sát, kiểm tra việc thu, chi, quản lý quỹ BHXH; quyết định các biện pháp để bảo tồn giá trị và tăng trưởng quỹ BHXH; thẩm tra quyết toán và thông qua dự toán hàng năm; kiến nghị với Chính phủ và các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan bổ sung sửa đổi các chính sách, chế độ BHXH; giải quyết các khiếu nại của người tham gia BHXH; đề xuất việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Tổng Giám đốc, các Phó Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam. Các thành viên Hội đồng quản lý là đại diện có thẩm quyền của Bộ Bộ Lao động – Thương binh & Xã hội, Bộ Tài chính, và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Uỷ viên Hội đồng quản lý là Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam. Các thành viên này do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm và miễn nhiệm theo đề nghị của Bộ Trưởng, Trưởng ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ.
- BHXH Việt Nam, là cơ quan điều hành trực tiếp cao nhất của hệ thống BHXH Việt Nam, do Tổng giám đốc trực tiếp điều hành và các Phó Tổng Giám đốc giúp việc.
- Cơ chế quản lý quỹ BHXH Việt Nam được tổ chức thành hệ thống ngành dọc từ trung ương đến địa phương theo 3 cấp:
+ Ở Trung ương là cơ quan BHXH Việt Nam
+ Ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là các BHXH tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi tắt là BHXH tỉnh).
+ Ở các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh là các BHXH quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi tắt là BHXH huyện).
Tuy nhiên, để BHXH Việt Nam hoạt động có hiệu quả thì ngành BHXH còn phải kết hợp với Bộ Tài chính, Chính quyền, UBND các cấp và mạng lưới các ban chi trả BHXH ở các địa phương.
*Quỹ BHXH Việt Nam được hình thành từ các nguồn sau:
- Nguồn sử dụng lao động đóng bằng 15% tổng quỹ lương của những người tham gia BHXH trong đơn vị.
- Người lao động đóng bằng 5% tiền lương hàng tháng của mình.
- Ngân sách Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm để bảo đảm thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động.
- Các nguồn thu khác.
Quỹ BHXH được quản lý thống nhất theo chế độ tài chính của Nhà nước, hạch toán độc lập với Ngân sách Nhà nước và được Nhà nước bảo hộ quỹ BHXH được sử dụng để chi cho 5 chế độ mà điều lệ BHXH đã qui định. Đồng thời được sử dụng để chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH ở các cấp, các ngành. Phần nhàn rỗi được phép đầu tư để bảo tồn giá trị và tăng trưởng quĩ theo qui định của Chính phủ.
*Tình hình duy trì và tăng trưởng quỹ BHXH:
Tình hình duy trì quỹ BHXH:
Công tác thu nộp BHXH là điều kiện tiên quyết cho việc hình thành và tăng trưởng quỹ BHXH. Vì vậy ngay từ khi mới thành lập, trên cơ sở những văn bản hướng dẫn hoạt động BHXH và danh sách các đơn vị sử dụng lao động nhận bàn giao từ cơ quan Lao động – Thương binh và xã hội, Tài chính, Liên đoàn Lao động. BHXH các tỉnh, thành phố đã tập trung nắm tình hình hoạt động và sử dụng lao động của các đơn vị có trong danh sách được bàn giao, cũng như các đơn vị ngoài danh sách bàn giao nhưng trong diện phải tham gia BHXH theo quy định của pháp luật. Nhờ có sự cố gắng trên toàn ngành BHXH Việt Nam đã đat được những thành tích nhất định, khẳng định được vị trí của mình, khẳng định được sự tồn tại và phát triển thông qua các hoạt động của ngành:
Điển hình trong 2 năm 1008 và 2009: Số thu BHXH năm 2009 là 39.873,6 tỷ đồng (trong đó: 37.011,4 tỷ đồng thu BHXH bắt buộc; 65,6 tỷ đồng thu BHXH tự nguyện; 2.796,6 tỷ đồng thu bảo hiểm thất nghiệp), tăng 29,6% tương ứng 9.052 tỷ đồng so với năm 2008.
Không tính kinh phí do Ngân sách nhà nước chuyển qua để BHXH chi trả cho người nghỉ hưu, nghỉ mất sức và tử tuất trước tháng 1/1995, theo báo cáo của Chính phủ, thu-chi quỹ BHXH năm 2008 và 2009 như sau:- Thu BHXH bắt buộc
TT
Chi tiết
Năm
Tổng Quỹ BHXH thu được (20% tiền lương)
(tỷ đồng)
Trong đó
Ghi chú
Quỹ hưu trí, tử tuất (16% tiền lương)
(tỷ đồng)
Quỹ ÔĐ, TS, TNLĐ, BNN (4% quỹ tiền lương)
(tỷ đồng)
1
Năm 2008
30.810
24.802
6.008
Tăng so với 2007
7.055 = 29,7%
5.743 = 30,1%
1.243 = 26,1%
2
Năm 2009
37.011
29.609
7.402
Ước thực hiện
Tăng so với 2008
6.201 = 20,1%
4.730 = 19%
1.471 = 24,8%
- Chi BHXH do Quỹ BHXH bảo đảm
TT
Chi tiết
Năm
Tổng chi Quỹ BHXH
(tỷ đồng)
Trong đó
Ghi chú
Quỹ hưu trí, tử tuất (16% tiền lương)
(tỷ đồng)
Quỹ ÔĐ, TS, TNLĐ, BNN (4% quỹ tiền lương)
(tỷ đồng)
1
Năm 2008
21.360
18.236
3.124
Tăng so với 2007
6.895 = 47,7%
5.992 = 48,9%
903 = 40,7%
2
Năm 2009
31.155
26.204
4.951
Ước thực hiện
Tăng so với 2008
9.795 = 45,9%
7.968 = 43,7%
1.827 = 58,5%
- Tiền lương bình quân đóng BHXH
TT
ĐỐI TƯỢNG
TIỀN LƯƠNG BÌNH QUÂN ĐÓNG BHXH
(Triệu đồng/người/tháng)
Năm 2008
Năm 2009
Chung tất cả các đối tượng
1,519
1,712
Trong đó:
1
Hành chính sự nghiệp, doanh nghiệp trong nước và các tổ chức, cá nhân trong nước
1,326
1,564
2
Lực lượng vũ trang: - Người hưởng lương
- Người hưởng phụ cấp
3,311
0,54
3,986
0,65
3
Doanh nghiệp FDI và Văn phòng, tổ chức nước ngoài
1,453
1,671
- Tiền lương hưu bình quân của các đối tượng (số liệu thống kê của BHXH Việt Nam)
Đối tượng
Năm 2008
Năm 2009
Tuổi nghỉ hưu bình quân
Số năm tham gia BHXH bình quân
Số đối tượng (người)
Lương hưu bình quân (trđ/người/ tháng)
Số đối tượng (người)
Lương hưu bình quân (trđ/người/tháng)
Chung các đối tượng nghỉ hưu
Trong đó :
1.660.259
1,908
1.730.412
2,002
52,76
30,74
Đối tượng do NSNN chi trả
954.388
1,838
937.246
1,926
51,82
30,04
Đối tượng do quỹ BHXH chi trả (trừ VPNN và FDI)
685.423
2,009
771.721
2,108
53,85
31,57
Đối tượng doanh nghiệp FDI và Văn phòng nước ngoài do quỹ BHXH chi trả
20.448
1,658
21.525
1,740
54,6
31,5
Qua giám sát và phân tích số liệu cho thấy tình hình duy trì của quỹ BHXH:
Thứ nhất, tổng quỹ thu BHXH bắt buộc năm sau đều cao hơn năm trước nhưng thấp hơn tốc độ điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu và tổng số đối tượng tăng thêm.
Thứ hai, tốc độ tăng thu quỹ BHXH tăng nhanh nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng chi quỹ BHXH (không kể phần kinh phí ngân sách nhà nước chuyển để chi cho người nghỉ hưu, nghỉ mất sức trước năm 1995): năm 2008 thu tăng 29,7% so với năm 2007 (30.810 tỉ đồng/23.755 tỉ đồng), trong khi chi tăng 47,7% (21.360 tỉ đồng/14.465 tỉ đồng); năm 2009: thu tăng 20,1% so với năm 2008 (37.011 tỉ đồng/30.810 tỉ đồng) trong khi chi lại tăng 45,9% so với năm 2008 (31.155 tỉ đồng/21.360 tỉ đồng).
Thứ ba, so sánh chi - thu quỹ hằng năm cho thấy, tốc độ chi quỹ tăng rất nhanh và xu hướng tất yếu sẽ dẫn đến phải lấy vào quỹ kết dư để bảo đảm cân đối thu-chi hằng năm, về lâu dài sẽ dẫn tới mất an toàn quỹ BHXH.
Cụ thể, năm 2007, chi chiếm 61% so với quỹ thu được trong năm (14.465 tỉ đồng/23.755 tỉ đồng), thì năm 2008 là 69% (21.360 tỉ đồng/30.810 tỉ đồng) và năm 2009 là 84% (31.155 tỉ đồng/37.009 tỉ đồng). Nếu chỉ so sánh chi - thu quỹ hưu trí, tử tuất thì chỉ số này còn cao hơn nữa và việc mất cân đối quỹ dài hạn ngày càng rõ hơn: năm 2007, chi chiếm 64% so với quỹ thu được (12.244 tỉ đồng/19.004 tỉ đồng) thì năm 2008 là 73% (18.236 tỉ đồng/24.879 tỉ đồng) và năm 2009 đã lên tới mức 88,5% (26.204 tỉ đồng/29.609 tỉ đồng).
Thứ tư, trong khi cân đối thu - chi quỹ hưu trí, tử tuất ngày càng thu hẹp thì quỹ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp vẫn kết dư khá lớn: năm 2008 kết dư 2.885 tỉ đồng (6.008 tỉ đồng - 3.123 tỉ đồng), năm 2009 số kết dư là 3.375 tỉ đồng (7.402 tỉ đồng - 4.027 tỉ đồng). Theo thống kê của BHXH Việt Nam, quỹ kết dư này, từ năm 1995 đến trước năm 2007 là 13.864 tỉ đồng được đưa vào tổng quỹ kết dư chung của BHXH. Riêng từ năm 2007 (Luật BHXH có hiệu lực) đến hết năm 2009 quỹ kết dư này tăng thêm là 8.810 tỉ đồng được hạch toán riêng. Tuy số kết dư lớn nhưng chưa có phương án sử dụng số kết dư này nhằm bảo đảm quyền lợi cho người lao động phù hợp với mục đích đóng của quỹ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp trong khi tình hình tai nạn lao động vẫn tăng cao và nghiêm trọng.
Tăng trưởng quỹ BHXH:
Qũy BHXH sẽ có xu hướng tăng nhanh để ngăn chặn nguy cơ vỡ quỹ. Nếu như trong giai đoạn 2005-2009, mức đóng của người lao động vẫn giữ nguyên là 5% tiền lương, tiền công hàng tháng. Bắt đầu từ năm 2010, sẽ điều chỉnh mức đóng theo lộ trình cứ 2 năm tăng thêm 1% cho đến khi đạt 8% (vào năm 2016). Tương tự, mức đóng của người sử dụng lao động trước mắt vẫn giữ nguyên là 15%. Tuy nhiên, từ năm 2010, mức đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất sẽ điều chỉnh cứ 2 năm tăng thêm 1% cho đến khi đạt 18%.
Ngoài ra nhà nước cũng có nhều chính sách đảm bảo an toàn và tăng trưởng quỹ BHXH. Thực hiện Điều 96 và Điều 97 của Luật BHXH, Bảo hiểm xã hội Việt Nam thực hiện việc quản lý quỹ BHXH tập trung, thống nhất trên cơ sở sử dụng vốn tạm thời nhàn rỗi của quỹ BHXH. Quỹ BHXH tại một thời điểm thường có số tiền kết dư rất lớn, đây là cơ sở của những yêu cầu cần bảo toàn và phát triển quỹ. Như chúng ta đã biết thì quỹ thu trước, chi sau, đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế thị trường với những cơ hội cũng như những rủi ro có thể xảy ra bất cứ lúc nào nên việc bảo toàn và phát triển quỹ lại trở thành nhu cầu bức thiết. Nếu quỹ không chú trọng đến vấn đề đầu tư có thể sẽ đứng trước tình trạng bội chi hay nói cách khác là chi vượt quá thu. Nếu đầu tư tăng trưởng quỹ có hiệu quả thì đây là một nguồn thu bổ sung rất lớn cho quỹ để đảm bảo cân đối thu chi từ đó giảm gánh nặng cho NSNN. Để hoạt động đầu tư thực hiện đúng vai trò của nó thì phải đảm bảo những nguyên tắc như an toàn, tránh rủi ro, có lãi và trên hết là thực hiện được lợi ích xã hội.
Các hình thức đầu tư được phân bổ trong năm 2009 như sau: cho ngân sách Nhà nước vay 21,02%; mua trái phiếu Chính phủ 29,95%; mua công trái giáo dục 0,21% và cho các ngân hàng thương mại của Nhà nước vay 48,82%.
Năm 2008, số lãi đầu tư đã thu được gần 9 nghìn tỷ đồng với tỷ lệ lãi bình quân năm là 11,76%. Năm 2009, số lãi ước thu được khoảng 8,4 nghìn tỷ đồng với tỷ lệ lãi bình quân năm là 9,1% . Ước tính đến cuối năm 2009, tồn quỹ BHXH trên 95 nghìn tỷ đồng.
Nhìn chung, hoạt động đầu tư quỹ BHXH đảm bảo an toàn và có khả năng thu hồi được khi cần thiết. Tuy nhiên, hình thức đầu tư quỹ chủ yếu tập trung vào mua trái phiếu Chính phủ, cho ngân sách Nhà nước vay, cho các ngân hàng thương mại của Nhà nước vay.
III. ĐÁNH GIÁ CƠ CHẾ QUẢN LÝ QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Những kết quả đạt được.
1.1. Hình thành hệ thống pháp lí làm cơ sở cho cơ chế quản lí tài chính
BHXH:
Từ ngay sau 1995, Chính phủ đã ban hành hàng loạt các Nghị định về
BHXH quy định và hoàn thiện dần các quy chế quản lí cũng như hoạt động
của ngành nói chung và của tài chính BHXH nói riêng. Đây chính là nền
tảng, là định hướng quan trọng trong quá trình thực hiện chính sách BHXH.
Hơn nữa trong quá trình hoạt động hệ thống pháp lí của BHXH Việt Nam
luôn được sửa đổi bổ xung cho phù hợp với sự thay đổi của điều kiện kinh
tế, xã hội. Hệ thống BHXH Việt Nam ngày càng phát triển với số người
tham gia BHXH tăng, năm 1995 mới có 2.275.998 người tham gia BHXH
thì tính cho đến cuối năm 2004 số người tham gia đã lên tới 6.344.508 người
(tăng gần 3 lần).Năm 2008,số người tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đạt trên 40,7 triệu người (tăng 7,4% so với năm 2007) với tổng số thu đạt trên 39.715 tỷ đồng, trong đó BHXH bắt buộc đạt 38.057 tỷ đồng; Chi BHXH, BHYT là: 44.662 tỷ đồng, trong đó chi từ ngân sách trên 23.718 tỷ đồng, chi từ quỹ BHXH 20.944 tỷ đồng. Như vậy là chính sách đổi mới là hoàn toàn phù hợp và
phát huy được hiệu quả hoạt động. Điều này thể hiện trong kết quả đạt được
trong mọi mặt, song trong khuôn khổ của đề tài chỉ xin đề cập đến khía cạnh
quản lí tài chính của BHXH Việt Nam.
1.2. Hình thành quỹ BHXH được quản lí tập trung và độc lập với NSNN.
Trước đây quỹ BHXH chỉ tồn tại trên danh nghĩa và hầu như không
có thu, nguồn chi trả cho các chính sách phụ thuộc vào NSNN. Hiện nay
BHXH đã hình thành nên quỹ BHXH, độc lập với NSNN. Thu BHXH từ hai
đối tượng là người lao động và người sử dụng lao động với quy định trích
nộp theo % lương của người lao động và quỹ lương của doanh nghiệp. Hoạt
động thu chi được thực hiện tương đối thuận lợi chi phí thấp mà hiệu quả
công việc cao. Việc phân cấp thu chi theo ba cấp, thu bằng chuyển khoản,
thực hiện chi trả thông qua đaị lí là rất phù hợp với điều kiện của Việt Nam
hiện nay. Mức chi BHXH dựa trên những căn cứ thực tế, mức lương tối
thiểu tính làm căn cứ đảm bảo được mức sống tối thiểu cho người lao động.
Tỉ lệ hưởng BHXH Việt Nam là tương đối cao so với các nước trên thế giới
thể hiện chức năng phân phối lại thu nhập của BHXH. Quỹ BHXH hiện nay
luôn tăng trưởng qua các năm, quỹ đang thay thế dần các khoản chi với tỉ
trọng chi từ quỹ BHXH tăng, giảm tỉ trọng chi từ NSNN. Việc ra đời và phát
triển quỹ BHXH Việt Nam là bước ngoặt lớn trong sự phát triểm của ngành
BHXH, đánh dấu sự chuyển biến về cơ chế quản lí.
1.3 . Công tác thu được phân cấp, tổ chức thu hợp lí an toàn qua hệ thống
tài khoản thu BHXH Việt Nam.
Cấp Trung ương, cấp khu vực, cấp cơ sở là ba phân cấp quản lí của hệ
thống BHXH Việt Nam dựa trên phân cấp hành chính. Trên cơ sở phân cấp
này hoạt động thu, chi của BHXH được triển khai rộng khắp cả nước. Việc
thực hiện thu chủ yếu là thông qua chuyển khoản từ tài khoản của doanh
nghiệp vào tài khoản thu BHXH lập tại Kho bạc Nhà nước, hay ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt nam. Hình thức thu nộp trên vừa
đảm bảo tính an toàn, chính xác lại giúp cho các doanh nghiệp và cơ quan
BHXH thực hiện dễ dàng. Kết quả là số thu của BHXH Việt Nam năm sau
luôn tăng hơn năm trước, giảm tình trạng nợ đóng, trốn đóng, chậm đóng.
Từ đó quỹ BHXH được ổn định, thực hiện theo đúng kế hoạch quản lí, bảo
tồn và tăng trưởng quỹ, đảm bảo được khả năng chi trả c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đánh giá về nguồn thu và cơ chế quản lý quỹ bảo hiểm xã hội hiện nay.doc