LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I 2
LÝ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONGTIẾN TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ 2
I. ĐÀO TẠO PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC 2
1. Khái niệm: 3
2. Phân loại : 4
III. CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG TRONG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ 5
1. Sự chuyển dịch khách quan của cơ cấu lao động: 5
2.Xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động: 6
2.1.Mô hình chuyển dịch cơ cấu lao động trên thế giới: 6
2.2. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở việt nam: 9
3. Yêu cầu về đào tạo nguồn nhân lực trong tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế: 10
CHƯƠNG II 13
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ Ở VIỆT NAM 13
I. Đánh giá Thực trạng đào tạo nguồn nhân lực Việt nam 13
1. Quy mô đào tạo: 14
1.1. Công nhân kỹ thuật: 14
1.2.Cán bộ chuyên môn: 15
2. Cơ cấu đào tạo: 18
3. Chất lượng đào tạo: 22
3.1. Công nhân kỹ thuật: 22
3.2. Cán bộ chuyên môn: 23
III. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ Ở VIỆT NAM 26
CHƯƠNG III 30
GIẢI PHÁP CHO ĐÀO TẠO PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC 30
TRONG TIẾN TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ Ở VIỆT NAM 30
I. QUAN ĐIỂM VỀ MỤC TIÊU PHÁT
39 trang |
Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 778 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đào tạo phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam trong tiền trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lao động phải có tính sáng tạo, có khả năng xử lý vấn đề, có khả năng phân tích, tinh thần đồng đội, rồi khả năng ăn nói, diễn đạt Tức là phải có một trình độ, năng lực ở mức khá trở lên.
Đấy là xét chung cho nguồn nhân lực, còn cụ thể, quá trình chuyển dịch lên nền kinh tế công nghiệp của nước ta, như đã phân tích ở mô hình lý thuyết trên, sẽ đòi hỏi một nguồn nhân lực có cơ cấu theo mô hình “hình tháp nhân lực công nghiệp truyền thống” và trình độ đào tạo đại học đại chúng.
Tức là phải có tỷ lệ độ tuổi đại học trên 15%. Như vậy, cần phải mở rộng quy mô đào tạo đại học để tăng nhanh hơn nữa số lượng sinh viên, phục vụ cho nhu cầu của nền kinh tế. Mặt khác, cơ cấu trong “hình tháp nhân lực công nghiệp truyền thống”, như ở các nước phát triển trước kia đúc rút ra là khoảng: 1 đại học\ 4 trung cấp chuyên nghiệp\ 10 công nhân kỹ thuật, vậy ta cần phải có nhiều hơn nữa lượng công nhân kỹ thuật và trung cấp chuyên nghiệp, đặc biệt là công nhân kỹ thuật.
Mặt khác, sự chuyển dịch lên nền kinh tế tri thức lại đòi hỏi nguồn nhân lực phải có một trình độ cao hơn nữa, trình độ đại học phổ cập và cơ cấu nhân lực theo mô hình “ hình tháp nhân lực tri thức”.
Tuy nhiên, nền kinh tế nước ta mới chỉ ở điểm khởi đầu của quá trình chuyển dịch này, nên đòi hỏi trên về nguồn nhân lực mới chỉ nằm trong một số ngành dịch vụ và công nghệ cao như viễn thông, ngân hàng, tài chính, công nghệ thông tin
Tóm lại, để đáp ứng những đòi hỏi trên về nguồn nhân lực cuả nền kinh tế, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực của ta cần phải đặt ra những phương hướng như sau:
Trước tiên là phải mở rộng quy mô và nâng cao trình độ đào tạo trên phạm vi toàn nền kinh tế, nhằm nâng cao mặt bằng chung của nguồn nhân lực.
Trong đó, chú trọng vấn đề về quy mô chất lượng đào tạo công nhân kỹ thuật và đào tạo đại học, để nhanh chóng cung cấp đủ lượng công nhân và cán bộ chuyên môn có trình độ phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, góp phần sớm thực hiện được mục tiêu trở thành một nước công nghiệp.
Đồng thời phải chú trọng đào tạo một đội ngũ công nhân kỹ thuật và cán bộ chuyên môn có trình độ thật sự cao trong các ngành công nghiệp tiềm năng và mũi nhọn, các ngành dịch vụ và công nghệ cao, các trung tâm kinh tế lớn, các vùng, khu, cụm, điểm công nghiệp
Về cơ cấu đào tạo, cần phải mở rộng quy mô đào tạo các ngành nghề công nghiệp và dịch vụ, đặc biệt là các ngành công nghiệp chủ chốt mà trình độ lao động mang tính quyết định
Và đặc biệt cần chú ý trong chính nội tại vấn đề, là phải mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ quản lý, giáo viên, giảng viên để tăng quy mô và chất lượng đào tạo nguồn nhân lực. Đây chính là hướng đi gốc rễ, lâu dài và đúng đắn nhất cho nền giáo dục, đào tạo nước ta.
CHƯƠNG II
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ Ở VIỆT NAM
I. Đánh giá Thực trạng đào tạo nguồn nhân lực Việt nam
Quan điểm về vai trò của giáo dục, đào tạo nước ta là rất đúng đắn, nó đựơc khẳng định ngay từ cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của đảng ta: “Giáo dục, đào tạo phải được xem là quốc sách hàng đầu”. Quan điểm này luôn được khẳng định và nhấn mạnh trong các văn kiện của đảng tại các kỳ đại hội VII, VIII và IX. Điều này cho thấy sự nhất quán trong việc khẳng định vai trò của giáo dục, đào tạo, coi giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu , là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, đầu tư cho giáo dục, đào tạo chính là đầu tư cho sự phát triển.
Chính quan điểm đúng đắn về giáo dục đào tạo này đã làm cho nền giáo dục, đào tạo nước ta không ngừng phát triển, tạo ra một nguồn nhân lực có trình độ phục vụ cho sự phát triển kinh tế, xã hội của nước ta trong thời gian qua.
Cụ thể hoá quan điểm trên, trong thời gian qua, nước ta đã liên tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách giáo dục đào tạo theo hướng ưu tiên và tạo môi trường thuận lợi cho giáo dục đào tạo phát triển. Các chính sách tập trung vào những vấn đề như chiến lược phát triển, quy hoạch, kế hoạch, đảm bảo công bằng trong giáo dục đào tạo, đổi mới chương trình, nâng cao chất lượng, cải cách hành chính quản lý
Đặc biệt, luật giáo dục được ban hành vào cuối năm 1998, đã đánh dấu một mốc quan trọng trong việc xây dựng môi trường pháp lý và đổi mới cơ chế quản lý trong hoạt động giáo dục đào tạo ở nước ta. Theo đó, các chức năng quản lý đã được phân rõ, công cụ quản lý cũng được xây dựng và hoàn thiện trên cơ sở của pháp luật. Công tác thanh tra, kiểm tra cũng được chú trọng, những điều này đã đóng góp không nhỏ vào việc nâng cao hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực.
Chính sự quan tâm đúng đắn của đảng, nhà nước và toàn xã hội, đã làm cho quy mô và chất lượng đào tạo nguồn nhân lực nước ta không ngừng tăng lên. Điều này thể hiện trong sự phát triển của nguồn nhân lực nước ta trong thời gian qua.
1. Quy mô đào tạo:
1.1. Công nhân kỹ thuật:
Sau nhiều năm suy giảm, quy mô đào tạo công nhân kỹ thuật những năm gần đây đã được mở rộng và phát triển trở lại. Hiện nay, cả nước đã có 226 trường dậy nghề, trong đó 199 trường công lập và 27 trường ngoài công lập, tăng 1.75 lần so với năm 1998.
Các hệ đào tạo ngắn hạn cũng phát triển mạnh với nhiều loại hình, tính đến nay, cả nước đã có 320 trung tâm dậy nghề, 150 trung tâm dịch vụ việc làm và trên 300 trung tâm giáo dục kỹ thuật tổng hợp, hướng nghiệp.
Biểu 1: Số lượng trường đào tạo công nhân kỹ thuật.
Năm
1997
2000
2003
Số trường
129
159
218
Về chương trình giảng dậy, đã biên soạn và ban hành 50 chương trình dậy nghề ngắn hạn, lưu động và đang triển khai biên soạn 76 chương trình dậy nghề dài hạn.
Cùng với sự tăng lên của số lượng các cơ sở đào tạo, số lương học viên cũng tăng lên rất nhanh trong thời gian qua. Năm học 2003 – 2004 đã có hơn 164000 học viên dài hạn và 949100 học viên ngắn hạn trong khi năm học 1997 – 1998 chỉ có 60000 học viên dài hạn.
Biểu 2: Số lượng học viên đang học trong các trường đào tạo nghề.
Năm học
1997-1998
1999-2000
2000-2001
2002-2003
2003-2004
Học viên
60000
100000
126000
146000
164000
Qua biểu này ta có thể thấy số lượng học viên học nghề đã tăng rất nhanh và đều đặn trong giai đoạn vừa qua, năm học 2003-2004, số lượng học viên đã tăng gần gấp 3 lần so với năm học 1997-1998. Có được kết quả này, là do sự quan tâm đúng mực đối với công tác đào tạo nghề trong những năm qua, nhà nước và nhân dân đã tham gia đầu tư mở rộng quy mô đào tạo. Và cũng là do yêu cầu của nền kinh tế đòi hỏi một số lượng lớn công nhân kỹ thuật cho quá trình chuyển dịch lên nền kinh tế công nghiệp của mình.
Tuy nhiên, quy mô đào tạo nghề hiện nay vẫn còn chưa đáp ứng đủ nhu cầu của nền kinh tế. Tình trạng thiếu công nhân kỹ thuật là rất phổ biến, đặc biệt là công nhân kỹ thuật có trình độ tay nghề cao.
1.2.Cán bộ chuyên môn:
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống cơ sỏ hạ tầng quốc gia, số lượng các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp cũng đã tăng lên nhanh chóng. Hiện nay, cả nước có 87 trường đại học, 127 trường cao đẳng, 245 trường trung cấp chuyên nghiệp. Số cơ sở sau đại học là 147, trong đó 95 cơ sở được đào tạo tiến sĩ. Các quan hệ hợp tác đào tạo với các nước , các tổ chức quốc tế cũng không ngừng tăng lên
Ngoài ra, các hình thức đào tạo cũng phát triển mạnh mẽ và đa dạng, hình thức đào tạo không chính quy đã có tại hầu hết các địa phương trên cả nước, thu hút được nhiều học viên tham gia học tập. Năm học 2003 – 2004, chúng ta đã có 57 trung tâm giáo dục từ xa cấp tỉnh, 494 trung tâm giáo dục từ xa cấp quận huyện và rất nhiều các trung tâm tin học ngoại ngữ đã được mở ra phục vụ nhu cầu học tập của xã hội. đặc biệt là đã có 11 trường đại học thực hiện hình thức giáo dục từ xa và đã thu hút được rất nhiều học viên tham gia.
Về cơ sở trang thiết bị trang thiết bị cũng đã được cải thiện, các trường đã cố gắng nâng cấp thư viện, phòng thí nghiệm, các cơ sở thực hành, mua sắm các trang thiết bị hiện đại và nối mạng internet Tuy vậy, xét mặt bằng chung, cơ sở trang thiết bị của ta vẫn còn thiếu thốn và lạc hậu chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của việc nghiên cứu, học tập và giảng dậy.
Đội ngũ giảng viên đã tăng, song vẫn còn thiếu ở hầu hết các trường. Đặc biệt là trong hệ cao đẳng và đại học, có khoảng 40000 giảng viên, trong khi đó số lượng sinh viên là trên 1 triệu, tỷ lệ sinh viên trên một giảng viên bình quân là 25,8. Với vai trò quan trọng hiện nay, đào tạo cũng đã thu hút được nhiều học sinh tham gia thi tuyển vào nghề, tỷ lệ tuyển mới hàng năm là lớn nhất, khoảng 24,7%, tiếp sau đó là khối kinh tế với 20% và khối khoa học cơ bản 18,9%. Với tỷ lệ cao này, chúng ta hy vọng tương lai gần sẽ đáp ứng được đủ lượng giáo viên cho nền giáo dục nước nhà.
Cùng với sự tăng lên của của các chủ thể đào tạo, số học viên cũng đã không ngừng tăng lên. Trong năm năm qua số sinh viên đại học, cao đẳng tăng bình quân 6,4%, học viên cao học tăng 51,9%, nghiên cứu sinh tăng 61,1%. Riêng trong năm học 2003 – 2004, chúng ta đã có 292120 học viên trung cấp chuyên nghiệp, 1045382 học viên cao đẳng, đại học (năm 1991 là khoảng 120000), 33000 học viên cao học và nghiên cứu sinh.
Ngoài ra, cón có khoảng 38500 lưu học sinh đang học tập tại hơn 30 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó hơn 70% là du học tự túc.
Với hình thức đào tạo không chính quy, hàng năm có khoảng 700000 người theo học các chương trình bồi dưỡng tin học, ngoại ngữ và giáo dục từ xa. Đặc biệt là hiện đã có 108300 người theo học hệ đại học từ xa.
Quy mô đào tạo cán bộ chuyên môn đã tăng lên nhanh chóng, nhưng như thế vẫn chưa đủ để đáp ứng cho đòi hỏi của nền kinh tế. Như đã phân tích trong phần lý luận, để trở thành một nước công nghiệp thì trình độ đào tạo đại học phải đạt mức độ đào tạo phổ cập, tương ứng với tỷ lệ độ tuổi đại học là trên 15%, trong khi đó tỷ lệ này của nước ta mới chỉ vào khoảng 8%, còn quá thấp
Như vậy, tuy rằng quy mô đào tạo cán bộ chuyên môn nước ta vẫn còn nhỏ bé, chưa đáp ứng đủ nhu cầu học tập, thể hiện rõ trong việc chưa đáp ứng đủ lượng cán bộ chuyên môn cần thiết cho thị trường lao động, nhưng không thể phủ định rằng quy mô đào tạo đã tăng lên đáng kể trong những năm qua.
Biểu 3: Quy mô đào tạo cán bộ chuyên môn trong một số năm học.
Năm học
Số lượng học viên
ĐH
CĐ
TCCN
Tổng
2000-2001
721505
186723
200225
1108453
2001-2002
763256
210863
194831
1168950
2002-2003
805123
215544
292120
1312787
Năm học
Số trường
Số giáo viên
ĐH
CĐ
TCCN
Tổng
ĐH
CĐ
TCCN
Tổng
2000-2001
74
104
253
431
24362
7843
10189
42394
2001-2002
77
114
252
443
25546
10392
9327
45265
2002-2003
81
121
245
447
27393
11215
10247
48855
Như vậy, quy mô đào tạo nguồn nhân lực nước ta đã không ngừng tăng lên trong những năm qua, cả trong đào tạo cán bộ chuyên môn, lẫn đào tạo công nhân kỹ thuật.
Tuy nhiên, với quy mô như vậy vẫn chưa đáp ứng đủ cho đòi hỏi của nền kinh tế nước ta. Chúng ta mới có khoảng 8844000 (năm 2003) lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, chỉ chiếm 20,99% tổng lực lượng lao động và chỉ tăng 1,5% so với năm 2002. Số lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật còn rất thấp, đặc biệt một bộ phận lớn thanh niên trong độ tuổi 18 – 23, bước vào thị trường lao động mà chưa qua đào tạo nghề nghiệp (chiếm tới 80%).
Nguyên nhân của tình trạng này, một phần là do nền kinh tế nước ta xuất phát điểm thấp nên khả năng đầu tư cho đào tạo còn nhiều hạn chế. Mặt khác, việc huy động và khuyến khích đầu tư còn kém hiệu quả, đặc biệt là từ khu vực tư nhân,đây là khu vực rất tiềm năng. Việc sử dụng vốn đầu tư cũng chưa hiệu quả, chủ yếu là kiểu đầu tư giàn trải, bình quân do đó chưa đạt hiệu quả.
2. Cơ cấu đào tạo:
Tuy đã cố gắng chuyển dịch cơ cấu đào tạo cho phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế, tập trung đào tạo cho các ngành, nghề mà thị trường lao động đang đòi hỏi cao, nhưng cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực nước ta vẫn còn rất nhiều bất cập.
Cơ cấu nhân lực theo tỷ lệ ĐH/ TCCN/ CNKT tuy đã thay đổi, nhưng còn rất chậm: 1/ 1,68/ 2,3 (năm 1989), 1/ 1,6/ 3,6 (năm 1995) và 1/ 1,68/ 4,8 (năm 2000).
Theo như kinh nghiệm của các nước phát triển trước kia, thì cơ cấu nhân lực hợp lý cho nền kinh tế công nghiệp là khoảng: 1/ 4/ 10 (trong ngành dịch vụ).
Như vậy, để đáp ứng đủ yêu cầu về nhân lực cho quá trình tiến lên nền kinh tế công nghiệp của nước ta, thì so với lượng công nhân kỹ thuật hiện nay, chúng ta còn thiếu rất nhiều. Đặc biệt, quy mô đào tạo giữa cán bộ chuyên môn và công nhân kỹ thuật là chưa hợp lý, do đó, đã dẫn đến tình trạng thừa thầy thiếu thợ rất phổ biến hiện nay
Trong khi , đòi hỏi của nền kinh tế về công nhân kỹ thuật là rất lớn.
Biểu 4: Cơ cấu sử dụng lao động theo trình độ chuyên môn kỹ thuật của các loại hình doanh nghiệp (%).
Loại hình DN
LĐ phổ thông
CNKT, sơ cấp
Trung cấp
CĐ, ĐH trở lên
DN FDI
19.8
59.0
6.5
14.7
DNNN
25.7
49.1
11.7
13.5
DN tư nhân
39.2
44.5
8.2
8.1
VP đại diện NN
1.5
16.5
30.9
50.7
Cơ cấu đào tạo về ngành nghề cũng chưa thực sự hợp lý, chưa thực sự chú trọng vấn đề chuyển dịch cơ cấu lao động thông qua đào tạo, chưa chú trọng việc mở rộng quy mô đào tạo lao động trong ngành công nghiệp và ngành dịch vụ để phục vụ cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo xu hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp.
Biểu 5: Số trường trung cấp chuyên nghiệp phân theo ngành nghề
Năm học
Tổng số
Công nghiệp
Nông lâm ngư
Kinh tế, dịch vụ
Sư phạm
Khác
2000-2001
253
54
34
62
14
89
2001-2002
252
50
34
62
11
95
2002-2003
245
50
33
62
6
94
Biểu 6: Số sinh viên đang đào tạo trong các trường CĐ-ĐH phân theo ngành nghề.
Năm học
Tổng
Kỹ thuật
Công nghệ
KH cơ bản
Nông lâm ngư
Kinh tế
Pháp lý
Sư phạm
Khác
2000-2001
552461
118321
108061
26125
142220
135818
2001-2002
579197
128273
117150
31037
139388
139465
2002-2003
604396
134580
129926
34897
137087
142039
Như vậy cơ cấu đào tạo theo ngành nghề có chuyển biến theo xu hướng hiện đại, nhưng rất chậm qua các năm. Quy mô đào tạo trong ngành công nghiệp và dịch vụ có tăng nhưng rất chậm, chưa tạo được sự vượt trội so với các ngành nghề khác. Trong khi đòi hỏi của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế là cần rất nhiều lao động được đào tạo trong các ngành này, điều này thể hiện rất rõ trong nhu cầu về lao động của nước ta hiện nay.
Cơ cấu đào tạo theo vùng thì rất bất cập, chủ yếu các trường,các trung tâm, các lớp đào tạo tập trung tại các thành phố lớn, các trung tâm kinh tế. Các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa rất thiếu hoặc không có cơ sở đào tạo nào. lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật ở thành thị là 4588500, chiếm 45.04% tổng lực lượng lao động thành thị, trong khi ở nông thôn là 4255500, chiếm 13.32% lực lượng lao động ở nông thôn. việc tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn ở nông thôn thấp đã làm chậm tiến trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn của nước ta.
Việc cơ cấu đào tạo của ta chưa hợp lý, một mặt là do nhận thức chưa đúng đắn, chưa xác định được đòi hỏi thực tế của nền kinh tế, hay xây dựng kế hoạch đào tạo chưa hợp lý. Mặt khác, do chưa có đủ tiềm lực kinh tế để đầu tư cho đào tạo. Nhưng chính vấn đề đầu tư, nước ta đã tạo điều kiện cho tư nhân tham gia, nhưng thực sự chưa có những chính sách thông thoáng, thực sự tạo điều kiện cho tư nhân tham gia vào đầu tư cho đào tạo. Dó đó, các trường đào tạo chủ yếu vẫn là các trường công lập, số lượng các trường bán công và dân lập rất ít, đặc biệt là trong đào tạo cán bộ chuyên môn.
Biểu 7: Số trường CĐ-ĐH phân theo hình thức sở hữu.
Năm học
Tổng
Phân theo loại hình
Công lập
Bán công
Dân lập
2000-2001
178
156
5
17
2001-2002
191
168
5
18
2002-2003
202
179
6
17
Nguyên nhân chủ yếu của việc cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực nước ta còn rất bất hợp lý, là do chưa có điều kiện để đầu tư cho đào tạo tại những vùng còn khó khăn về cơ sở hạ tầng. Còn chưa tạo ra được sự thông thoáng, để tư nhân tham gia vào nền giáo dục đào tạo. Mặt khác nữa, đó là việc kế hoạch chương trình đào tạo còn chưa thực sự nghiên cứu kỹ nhu cầu của thị trường lao động hiện tại và trong xu hướng tương lai, nên cơ cấu đào tạo theo ngành nghề còn rất bất cập
3. Chất lượng đào tạo:
3.1. Công nhân kỹ thuật:
Do có sự quan tâm đúng mực cho vấn đề đào tạo công nhân kỹ thuật, những năm qua đầu tư cho dậy nghề đã được cải thiện. Trong đó các dự án hợp tác quốc tế (ODA và vốn vay) đầu tư cho dậy nghề vào khoảng 180 triệu USD. Các địa phương đầu tư 200 tỷ đồng và các doanh nghiệp đầu tư trên 400 tỷ đồng cho dậy nghề.
Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật và trang thiết bị cũng được đầu tư 450 tỷ đồng để nâng cấp phục vụ cho học tập và giảng dậy.
Đồng thời đã đào tạo, bồi dưỡng cho trên 5000 lượt giáo viên dậy nghề về công nghệ mới và nâng cao tay nghề để nâng cao được chất lượng giảng dậy. Tuy nhiên, tỷ lệ giáo viên dậy nghề đạt chuẩn còn ở mức thấp, chỉ vào khoảng 69%.
Về hệ thống quản lý, thì đã hình thành tổ chức quản lý đào tạo công nhân kỹ thuật từ trung ương đến địa phương. các cán bộ quản lý không ngừng được bồi dưỡng củng cố để nâng cao hiệu lực quản lý, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo.
Số lượng học viên tốt nghiềp của các trường dậy nghề đạt mức cao 96%. Tuy nhiên, chất lượng học viên còn khá hạn chế chưa đáp ứng được đòi hỏi của nền kinh tế, thể hiện rất rõ ở trình độ của công nhân, đặc biệt là khi so sánh với các nước phát triển. Kiến thức của công nhân ra trường chưa sát với thực tế, khả năng tiếp cận công nghệ mới là rất yếu kém
Như vậy, tuy chất lượng đào tạo công nhân kỹ thuật của nước ta đã không ngừng tăng lên, nhưng bằng đó vẵn chưa đủ để đáp ứng cho nhu cầu ngày càng cao của nền kinh tế hiện nay.
3.2. Cán bộ chuyên môn:
Với việc coi giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, hàng năm vốn đầu tư cho giáo dục đào tạo luôn được ưu tiên và tăng nhanh từ trung ương đến địa phương, từ khu vực nhà nước đến khu vực tư nhân. Năm 2004, chi ngân sách cho giáo dục đào tạo tăng 2,7 lần so năm 1998. Tỷ trọng chi cho đầu tư giáo dục trong tổng chi ngân sách năm 1998 là 3,2%, đến năm 2004 là 4,6%.
Đồng thời, các chính sách hỗ trợ ưu tiên, đổi mới, cải cách giáo dục đào tạo đã làm cho chất lượng giáo dục đào tạo nói chung và đào tạo cán bộ chuyên môn nói riêng được nâng lên đáng kể.
Hiệu quả quản lý, đánh giá, thanh kiểm tra đào tạo đã tốt hơn, hệ thống cơ sở trang thiết bị phục vụ học tập, giảng dậy đã được cải thiện. Đặc biệt là trình độ của đội ngũ giảng viên được nâng cao đáng kể, số lượng giảng viên cao đẳng, đại học có học vị, học hàm cao tăng nhanh.
Biểu 8: Trình độ cán bộ giảng dậy cao đẳng, đại học.
Năm học
Tổng
Trong đó
Chia ra
GS
P.GS
TS
ThS
CĐ,ĐH
Khác
2000-2001
32205
314
1140
4563
8664
18505
473
2001-2002
35938
306
1171
4970
10161
20348
459
2002-2003
38608
324
1330
5476
11232
21239
661
Trong đó, số giảng viên được đánh giá có chuyên môn tốt chiếm 71% số tiến sĩ, 83% số thạc sĩ, 57% số cán bộ có trình độ đại học và 4% số cán bộ có trình độ cao đẳng. Về tinh thần trách nhiệm thì có 75% số tiến sĩ, 75% số thạc sĩ, 64% số cán bộ có trình độ đại học và 76% số cán bộ có trình độ cao đẳng đạt tiêu chuẩn.
Chất lượng trình độ học viên theo đó cũng đã được nâng cao, góp phần nâng cao năng lực, trình độ chung của nguồn nhân lực, yếu tố quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển nền kinh tế nước ta trong giai đoạn vừa qua.
Tuy nhiên, xét mặt bằng chung, chất lượng học viên của ta vẫn còn rất thấp, đa số học viên ra trường không có đủ trình độ để đáp ứng cho công việc thực tế, rất nhiều các học viên sau đại học có luận án chưa theo kịp với trình độ phát triển của khoa học, công nghệ, do đó, khônh thể áp dụng vào thực tế để phục vụ cho sự phát triển kinh tế, xã hội và khoa học, công nghệ. Đặc biệt, thể hiện rất rõ trong trình độ của số học viên ra trường hàng năm. Tỷ lệ học viên ra trường đạt bằng khá và bằng giỏi là rất thấp, nhất là bằng giỏi, chỉ đạt khoảng 3%. Đa số học viên ra trường chỉ đạt bằng trung bình, chiếm trên 60%. Do đó, một lượng lớn, học viên ra trường trong tình trạng thất nghiệp.
Chính bất cập này đã đặt ra một bài toán lớn về mối quan hệ giữa số lượng và chất lương đào tạo đại học ở nước ta. Có hai dòng ý kiến chính về vấn đề này, một là phải hạn chế quy mô để nâng cao chất lượng đào tạo, dòng ý kiến thứ hai lại cho rằng vẫn phải tăng quy mô đào tạo đại học nhưng phải đảm bảo phần nào đó chất lượng của đào tạo. Hiện nay, hai dòng ý kiến này vẫn đang song song tồn tại và đấu tranh với nhau, nhưng vẫn chưa đưa ra được mô hình đào tạo nào phù hợp để giải quyết được bài toán bất cập trên.
Tóm lại, chất lượng đào tạo nguồn nhân lực nước ta tuy đã có những bước tiến đáng kể, nhưng so với mặt bằng chung và so với đòi hỏi của nền kinh tế thì vẫn còn rất thấp chưa đáp ứng được. Có nhiều nguyên nhân làm cho chất lượng đào tạo của ta còn hạn chế. Nhưng chủ yếu là các nguyên nhân sau:
Do hệ thống chính sách, các mô hình đào tạo vẫn chưa thực sự tạo được khâu đột phá trong việc giải quyết mâu thuẫn trong đào tạo hiện nay giữa quy mô và chât lượng. Việc tổ chức thực hiện chính sách vẫn còn nhiều bất cập, công tác thanh kiểm tra trong đào tạo vẫn chưa thực sự sát sao
Hệ thống quản lý vẫn chưa thực sự hiệu quả, việc tổ chức còn ôm đồm, chồng chéo giữa các cấp , các chương trình. Các chính sách quản lý vẫn còn chưa ổn định, nhất quán, đặc biệt là trong đào tạo công nhân kỹ thuật, trong vòng 35 năm, công tác dậy nghề đã thay đổi năm lần tổ chức, cơ quan quản lý nhà nước. Giai đoạn 1969 – 1978 là Tổng cục đào tạo công nhân kỹ thuật thuộc bộ lao động. Giai đoạn 1978 – 1987 là Tổng cục dậy nghề trực thuộc chính phủ. Giai đoạn 1987 – 1990 là Vụ dậy nghề thuộc bộ đại học, trung cấp chuyên nghiệp và dậy nghề. Giai đoạn 1990 – 1998 là Vụ trung học chuyên nghiệp và dậy nghề thuộc bộ giáo dục đào tạo. Giai đoạn từ 1998 đến nay là Tổng cục dậy nghề thuộc bộ lao động thương binh và xã hội.
Các yếu tố của đào tạo vẫn còn hạn chế, số lượng trường lớp, cơ sở đào tạo còn thiếu, trang thiết bị phục vụ cho học tập, nghiên cứu giảng dậy vẫn còn hạn chế cả về số lượng và chất lượng. Số lượng giáo viên còn thiếu rất lớn, chất lượng một số giáo viên chưa đáp ứng được nhu cầu mới của đào tạo.
Chương trình đào tạo còn chưa sát với thực tế, do chậm đổi mới, chưa gắn kết được với các doanh nghiệp, với thực tế sản xuất
III. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ Ở VIỆT NAM
Thực hiện chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm (2001-2010) mà Đại hội IX đã thông qua, với mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trong đó tập trung xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng quan trọng với công nghệ cao, sản xuất tư liệu sản xuất cần thiết để trang bị và trang bị lại kỹ thuật, công nghệ tiên tiến cho các ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển và xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
Trong 5 năm đầu thực hiện chiến lược phát triển 10 năm (2001-2010), nền kinh tế nước ta đã duy trì được khả năng tăng trưởng khá. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch đáng kể theo chiều hướng hiện đại, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ và giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta tăng khá và ổn định qua các năm, năm 2001 tăng 6,9%, cao hơn 0,2% so với năm 2000, năm 2002 tăng 7,04%, năm 2003 tăng 7,24%, năm 2004 tăng 7,7%, tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm (2001-2005) vào khoảng 7,5%.
Cơ cấu các ngành kinh tế đã từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát huy lợi thế so sánh trong từng ngành, từng vùng làm tăng hiệu quả và chất lượng phát triển kinh tế.
Tuỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp trong GDP đã giảm từ 27,2% năm 1995 xuống còn 25% năm 2000 và khoảng 20,5% năm 2005. Công nghiệp và xây dựng tăng từ 28,8% năm 1995 lên 36,7% năm 2000 và khoảng 41% năm 2005. Dịch vụ tuy phát triển mạnh mẽ nhưng vẫn còn nhiều yếu kém nhất là trong các ngành dịch vụ cao cấp, điều này đã làm cho tỷ trọng giảm từ 44% năm 1995 xuống còn 39,8% năm 2000 và khoảng 38,5% vào năm 2005.
Như vậy, tỷ trọng ngành nông nghiệp tuy đã giảm nhưng còn khá chậm. Trong đó, từ năm 2000 đến năm 2003, tỷ trọng nông nghiệp giảm 2,6%, lâm nghiệp giảm 0,9% và thuỷ sản có xu hướng tăng lên (3,5%), riêng năm 2004, tốc độ tăng trưởng của ngành này là 11,2% so năm 2003, do nuôi trồng thuỷ sản có tốc độ tăng cao và rất có tiềm năng phát triển trong những năm tới. Tuy nhiên, nông nghiệp vẫn là ngành chủ chốt chiếm tỷ trọng lớn nhất trong khu vực này, giá trị sản xuất năm 2004 toàn khu vực ước tính đạt 174 nghìn tỷ đồng, thì ngành nông nghiệp đã đạt 133 nghìn tỷ đồng, ngành thuỷ sản đạt 34 nghìn tỷ còn ngành lâm nghiệp chỉ đạt 6 nghìn tỷ đồng.
Cơ cấu nền kinh tế chuyển dịch theo chiều hướng tăng lên trong khu vực công nghiệp và xây dựng, do khu vực này liên tục tăng trưởng cao hơn mức tăng chung của cả nền kinh tế. Đặc biệt, phải kể đến ngành công nghiệp khai thác đã có những bước tăng trưởng rất mạnh, năm 2004 tăng 16,9% so với mức 8% của năm 2003, trong đó, chủ chốt vẫn là hai ngành khai thác dầu thô và khai thác than. Các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tuy có tốc độ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVV450.doc