NHỮNG TỪ VIẾT TẮT 2
MỞ ĐẦU 3
Chương I 6
LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÀO TẠO THEO NHU CẦU 6
1. Khái niệm về đào tạo theo nhu cầu 7
2. Phân loại đào tạo theo nhu cầu 7
3. Vai trò và đặc điểm của đào tạo theo nhu cầu 8
4. Phân loại nhu cầu đào tạo 9
5. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc đào tạo theo nhu cầu của các trường 10
6. Kinh nghiệm 11
Chương II 18
THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO THEO NHU CẦU Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 18
1. Những hạn chế của quá trình đào tạo theo nhu cầu 21
2. Những thành tựu đạt được từ đào tạo theo nhu cầu 29
Chương III 33
GIẢI PHÁP CHO ĐÀO TẠO THEO NHU CẦU Ở NƯỚC TA 33
1. Giải pháp 33
2. Lộ trình thực hiện từ 2007 đến 2010 39
KẾT LUẬN 40
TÀI LIỆU THAM KHẢO 42
42 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 2720 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đào tạo theo nhu cầu xã hội - Những định hướng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ả các trường công lập vào năm 2005.
Đồng thời, chính phủ Nhật Bản cũng đang xúc tiến mở các khoá tiếng Anh trên khắp cả nước và tăng cường mời các thầy giáo tiếng Anh bản xứ vào dạy học tại các trường Nhật Bản ngay từ tiểu học, phấn đấu tạo cho mọi công dân đều có thể sử dụng thành thạo tiếng Anh vào công việc chuyên môn của mình khi đến tuổi trưởng thành trong tương lai không xa. Về lâu dài, tiếng Anh sẽ dần được coi là ngôn ngữ chính thức thứ hai sau tiếng Nhật.
Cùng với việc cải cách hệ thống giáo dục và đào tạo, Nhật Bản cũng tiến hành đổi mới hệ thống quản lý xí nghiệp theo hướng chuyển từ chế độ coi trọng thâm niên và kinh nghiệm công tác, coi trọng tính tập thể và phục tùng cấp trên sang chế độ coi trọng hơn năng lực và thành tích cá nhân, đề cao tính độc lập và sáng tạo của công nhân, khuyến khích mọi người hăng hái học tập để nâng cao trình độ hơn là ỷ lại vào thâm niên phục vụ công ty và kinh nghiệm "sống lâu lên lão làng".
Ở châu Âu, các doanh nghiệp thường kết hợp chặt chẽ với ngành giáo dục để tạo thuận lợi cho các sinh viên từ nhà trường đến làm việc ở các doanh nghiệp. Để phổ cập Internet trong dân chúng, Hội nghị thượng đỉnh EU tại Lisbon, Bồ Đào Nha (23/3/2000) nhất trí quyết định tăng cường đầu tư đào tạo nhân tài, thúc đẩy cải cách kinh tế xã hội, để EU thích ứng hơn nữa với "xã hội tin học dựa trên cơ sở tri thức và đổi mới". Các nước này đã đặt mục tiêu, trong vòng 10 năm tới, đuổi kịp nền kinh tế Internet Mỹ, xây dựng châu Âu thành khu "khu vực kinh tế có sức sống mạnh nhất, có sức cạnh tranh nhất thế giới", với một số biện pháp cụ thể như hoàn tất khung pháp lý cho thương mại điện tử, tất cả các trường học đều có thể truy cập Internet; năm 2002, kết nối mạng với tốc độ cao cho tất cả các trường đại học, thư viện và viện nghiên cứu.
Còn ở Trung Quốc thì trong nhiều năm qua, Đảng và chính phủ Trung Quốc đã coi việc hỗ trợ, thu hút và sử dụng nhân tài là một nhiệm vụ chiến lược quốc gia, trong đó giáo dục được coi là khâu quan trọng nhất. Trung Quốc đã tiến hành cải cách và đổi mới mạnh mẽ quá trình phát triển giáo dục và hướng giáo dục theo nhu cầu của hiện đại hoá, của thế giới và của tương lai, có nhiều biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục, khuyến khích tinh thần sáng tạo và khả năng thực tiễn. Ngoài việc cải cách và phát triển giáo dục phổ thông, Trung Quốc còn đặc biệt chú ý đến việc phát triển giáo dục đại học và coi đó là một biện pháp quan trọng để đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao. Cụ thể, Trung Quốc đã đưa ra Dự án 21 nhằm nâng cấp 100 trường đại học của mình trong một số lĩnh vực trọng điểm như cơ khí, phát triển nông thôn và công nghệ thông tin lên ngang tầm thế giới. Đồng thời, ngoài việc nâng cao chất lượng đào tạo trong nước, Trung Quốc còn có chính sách khuyến khích thanh niên đi du học và nghiên cứu ở nước ngoài để sau đó trở về xây dựng đất nước.
Trên đây là những bài học kinh nghiệm trong việc thực hiện đào tào theo nhu cầu xã hội ở một số nước trên thế giới. Tuy nhiên không phải mọi bài học đó đều có thể áp dụng vào Việt Nam một cách thành công. Vì vậy trong quá trình học hỏi chúng ta phải xác định rõ những bài học nào phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của đất nước ta để vận dụng một cách tốt nhất, tránh tình trạng sao chép một cách máy móc.
Chương II
THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO THEO NHU CẦU Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
Đào tạo theo nhu cầu là mục tiêu của đổi mới giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ đắc lực cho quá trình CNH – HĐH đất nước. Nó không chỉ là trách nhiệm của nhà trường; của Bộ, ngành trung ương, địa phương mà còn là trách nhiệm của toàn xã hội. Trong mối quan hệ đa chiều này nhà nước đóng vai trò điều phối dẫn đường thúc đẩy các mối quan hệ giữa nhà trường và nhà tuyển dụng, các ngành kinh tế mà đại diện là các doanh nghiệp làm cho cung cầu xích lại gần nhau vì lợi ích chung.
Sở dĩ vấn đề đào tạo theo nhu cầu hiện đang nổi lên nhu một vấn đề có ý nghĩa thời sự cũng chính là xuất phát từ nhu cầu của thị trường lao động. Cụ thể là:
- Sự hình thành những ngành nghề mới đặt ra những yêu cầu mới đối với lực lượng lao động, đòi hỏi người lao động phải được đào tạo, đào tạo lại hoặc thường xuyên bồi dưỡng theo những chương trình được cá biệt.
- Do điều kiện sản xuất kinh doanh, do môi trường hoạt động của các loại lao động, các doanh nghiệp và cá nhân người lao động có những nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng rất riêng biệt, thường đòi hỏi phải có những chương trình được thiết kế riêng. Đối với cá nhân người lao động, các yếu tố chủ quan và kỳ vọng phát triển cá nhân cũng đòi hỏI được đáp ứng bằng những chương trình đào tạo, bồI dưỡng riêng biệt.
- Thị trường lao động ngày càng hoàn thiện và có quy mô rộng hơn. Nó không chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc gia, mà đã vươn ra phạm vi quốc tế. Cùng với sự phát triển của thị trường này, sức ép đối với người lao động cũng tăng lên, đòi hỏi họ phải không ngừng được đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng khi chuẩn bị cho bước phát triển tiếp hoặc khi chuyển sang công việc khác
- Sự luân chuyển ngày càng nhanh và với quy mô ngày càng rộng làm nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng trở nên ngày càng lớn. Xuất phát từ trình độ, kinh nghiệm và kỹ năng khác nhau, sự chuyển đổi kiến thức, kỹ năng của các cá nhân, nhóm người lao động khác nhau sẽ khác nhau, khiến các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cũng phải đa dạng để có thể đáp ứng để có thể đáp ứng được những yêu cầu này.
- Bản thân người lao động có những điều kiện, đặc điểm riêng khiến cho họ có những trình độ chuyên môn, tay nghề khá khác nhau dù có cùng một điểm xuất phát giống nhau về đào tạo cơ bản, về môi trường và điều kiện làm việc Do đó, nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng của mỗi người sẽ ngày càng khác biệt.
Hiện nay, do tính chất của thị trường lao động, do những yêu cầu kiến thức và kỹ năng tổng hợp đối với sinh viên tốt nghiệp mới ra trường, thậm chí cả do yêu cầu về hiệu quả kinh tế - tài chính đối với quá trình đào tạo, sức ép đòi hỏi phải đào tạo kiến thức phổ thông trên quy mô đại trà cũng còn khá nặng nề. Riêng ở Việt Nam, trong nhiều năm, do nhận thức “đào tạo để hình thành con người toàn diện”, nên thường có xu hướng đào tạo đại trà cho nhiều học sinh. Lượng kiến thức và kỹ năng cũng được cung cấp cho học sinh theo hướng mở rộng ra nhiều lĩnh vực ngày càng chiếm ưu thế hơn so với đào tạo chuyên sâu các kiến thức, kỹ năng thuộc chuyên ngành hẹp. Chính vì thế, trong các cơ sở đào tạo hiện nay, việc cá biệt hóa đào tạo trong các trường học nếu có được thực hiện cũng luôn được gắn với việc đào tạo chung trên diện rộng, có vị trí thứ yếu hơn so với đào tạo đại trà theo kiểu “trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”. Điều này làm cho sinh viên khi ra trường có thể làm việc trong nhiều ngành nghề khác với ngành nghề được coi là chuyên ngành của mình, nhưng hầu hết đều chỉ phát huy tác dụng được sau khi đã được bổ túc nghiệp vụ, tập huấn thêm về các kỹ năng, kiến thức chuyên ngành đặc trưng. Theo Bộ Giáo dục Đào tạo, khảo sát về việc làm của sinh viên (năm 2006) sau khi tốt nghiệp các chương trình đào tạo cho thấy chỉ 50% sinh viên có việc làm khi tốt nghiệp, trong đó chỉ 30% là làm đúng ngành nghề đào tạo. Điều này cho thấy một thực trạng khá phổ biến hiện nay là đào tạo không đáp ứng nhu cầu xã hội, sinh viên ra trường không đáp ứng các yêu cầu cơ bản của nghề nghiệp ở trình độ tương ứng từ đó gây lãng phí lớn cho bản thân người học, nhà trường và xã hội.
Điều này cũng dẫn đến thực trạng là ở nước ta lao động phổ thông thì quá thừa trong khi đó lao động chất lượng cao còn rất thiếu do không đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng buộc họ trong nước phải tìm kiếm nguồn lao động này từ bên ngoài. Tôi xin đơn cử một ví dụ sau:
Đầu tháng 3 năm 2007, Công ty Thực phẩm Vilad (thuộc FG Group) tức tốc đăng thông báo tuyển dụng các chức danh giám đốc và trợ lý giám đốc nhãn hàng để phục vụ nhu cầu kinh doanh. Chỉ một tuần sau, với hy vọng có chỗ làm triển vọng và khả năng thăng tiến, số người nộp hồ sơ dự tuyển ở bộ phận nhân sự của hãng đã lên tới 700 người, trong đó ứng viên người nước ngoài chiếm 10% và đặc biệt có đến 40% là số sinh viên khối ngành kinh tế mới tốt nghiệp. Sau khi đọc kỹ hồ sơ, săm soi từng chi tiết bảng thành tích “bạch” theo kiểu “vào từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng đối tượng”, rốt cuộc công ty cũng lựa ra 50 người có nhiều ưu điểm hơn cả để mời đến phỏng vấn. Và kết cục dù nhu cầu nhân lực còn rất cao, Vilad cũng chỉ “gật” được 2 người đã từng có kinh nghiệm làm giám đốc nhãn hàng của 2 công ty lớn của nước ngoài tại Việt Nam và số lượng nhân lực thiếu còn lại phải tuyển dụng bằng cách thuê người nước ngoài làm.
Tình trạng này hiện nay khá phổ biến ở các công ty khi có nhu cầu tuyển dụng. Như vậy công việc dành cho người lao động là rất lớn song chính người lao động đã bỏ mất cơ hội của mình. Sở dĩ lao động nước ta luôn gặp khó khăn trong vấn đề tìm việc làm phù hợp với những gì đã học và phù hợp vớI nhu cầu của nhà tuyển dụng chính là xuất phát từ hệ thống giáo dục của nước ta còn nhiều bất cập mà mà yếu tố chính là do giáo dục nước ta chủ yếu đào tạo cái mình có chứ không quan tâm đến cái thị trường cần. Hay nói cách khác cung và cầu lao động ở nước ta còn quá vênh.
Một điều đáng buồn nữa là theo điều tra trong quý II/2007, nhu cầu lao động của 45/56 ngành nghề tăng cao đáng kể, tập trung vào những ngành nghề đòi hỏi chuyên môn và trình độ cao. Trong khi đó, theo khảo sát, nếu nguồn cung tăng khoảng 30%, thì nhu cầu nguồn lao động lại tăng đến 142% so với quý trước. Theo kết quả khảo sát của Ngân hàng Thế giới (năm 2007)thì tại Việt Nam, khoảng 60% lao động trẻ tốt nghiệp từ các trường dạy nghề và trường cao đẳng cần được đào tạo lại ngay sau khi tuyển dụng. Một số doanh nghiệp phần mềm cần đào tạo lại ít nhất 1 năm cho khoảng 80%-90% sinh viên tốt nghiệp vừa được tuyển dụng
TS Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp VN lý giải: “Bán cái khách hàng cần, thay vì bán cái mình có” là câu châm ngôn tưởng như đơn giản nhưng không phải dễ thực hiện. Bản chất của nó là các đơn vị đào tạo phải xuất phát từ phân tích nhu cầu của khách hàng trước khi bắt tay vào “sản xuất”. Và chất lượng của “sản phẩm” cũng do khách hàng đánh giá và quyết định! Thiết kế nội dung đào tạo hiện nay vẫn đang gặp nhiều trở ngại do thiếu tư duy “định hướng khách hàng” và do đó, chất lượng đào tạo cũng đương nhiên chưa đáp ứng tốt yêu cầu của khách hàng.
1. Những hạn chế của quá trình đào tạo theo nhu cầu
a) Từ phía nhà trường và người học
Thứ nhất: Nhận thức của các trường cũng như của người dân về đạo tạo theo nhu cầu xã hội còn hạn chế. Nhiều trường đã đánh đồng quan điểm đào tạo theo nhu cầu là đào tạo những ngày đang “nóng”. Đây chỉ là giảI pháp tạm thờI cho nhu cầu hiện tạI chứ không phảI là cốt lõi của vấn đề đào tạo theo nhu cầu. kết quả là nếu như những năm trước, các thí sinh chen chúc đua tranh “nhất y, nhì dược, tạm được bách khoa” rồi lại “nhất kinh, nhì thương,” thì nay ưu tiên số 1 được chuyển qua các ngành “thị trường chứng khoán”, “đầu tư chứng khoán”. Và “sàn” tuyển sinh năm nay dưới áp lực của “sàn chứng khoán” đã chuyển hướng qua “nguyện vọng cổ phiếu” với mong muốn đáp ứng nhu cầu xã hội. Khi dân tình nô nức “lên sàn” thì các cơ sở đào tạo cũng vội vã trưng biển, dán thông báo đào tạo “cấp tốc” để sau 8 tuần học là có thể đầu tư chứng khoán có lãi!
Và dưới sức “nóng” này, trong những chương trình tư vấn tuyển sinh vừa qua, các trường ĐH, CĐ bỗng giật mình lo ngại một mùa hướng nghiệp mất cân đối khi số học sinh hỏi về ngành chứng khoán nhiều hơn các ngành học khác. Còn nhớ 5-7 năm về trước, một số trường kinh tế với quan điểm “đi tắt, đón đầu” đã cho mở các chuyên ngành đào tạo chứng khoán, song ngay lập tức bị xếp vào hạng “kém hấp dẫn” và phải “khớp lệnh đóng” vì không có hoặc có rất ít người học.
Nhưng giờ gió đã chuyển hướng, thổi phấp phới cái tam giác màu xanh trên “sàn giao dịch”. Và các trường – không có một sách lược nhất quán từ nhiều năm trước – đã “thức thời” mở ngay chuyên ngành này dù giảng viên vừa thiếu lại vừa yếu. Thế nhưng liệu cảnh đua chen thi vào ngành chứng khoán có kịp bổ khuyết nguồn nhân lực đang bị hụt hẫng? PGS-TS Trần Hoàng Ngân, Trưởng khoa Ngân hàng Trường ĐH Kinh tế TPHCM cho rằng chỉ trong 3 năm nữa, các công ty chứng khoán sẽ đủ nhân lực, nhu cầu sẽ chững lại. Bây giờ là “sốt” nhưng sau đó rất có thể xuất hiện tình trạng “thừa ảo” nhân lực.
Và điều này cũng từng xảy ra đối với các ngành “nóng” một thời như quản trị kinh doanh, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học dẫn đến kết cục bão hòa thị trường nhân lực. Theo đuổi ngành công nghệ sinh học trên cơ sở kỹ thuật hạt nhân, TS Lê Xuân Thám cho rằng, cái sự “làng nhàng” của cử nhân lãnh vực sinh học hiện giờ là bởi có độ vênh giữa kiến thức thu nhận và thực tiễn phải cập nhật khi mà chúng ta chỉ lo phần “ngọn” với sự nhồi nhét, chồng chất thông tin trong khi phần “gốc” là khả năng tiếp cận, ứng dụng trong cuộc sống lại gần như không có. Đó cũng chính là cách lấy lượng đè chất và hậu quả là nguồn nhân lực thừa thì vẫn thừa mà thiếu vẫn hoàn thiếu: Nhân lực chất lượng cao thì thiếu trong khi dạng “bình dân” lại quá dư thừa.
Hiện nay còn tồn tại một xu hướng nữa làm mất cân bằng giữa thầy và thợ đó là tình trạng sính bằng ĐH, nhà nhà, người người đua nhau cho con đi học ĐH để mong con mình đổi đời. Người ta rất sợ làm nghề vì lương thợ trung cấp quá thấp (trong khi đó nước ngoài trả lương thợ có tay nghề nhiều khi cao hơn lương ĐH chỉ biết lý thuyết và nghiên cứu
Vì vậy ít người nghèo thích vào học trường nghề, mà chỉ muốn đi thẳng lên ĐH. Trong khi đó, phát triển kinh tế địa phương rất cần nguồn nhân lực có tay nghề, kỹ năng hiện đại trong sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp, các loại dịch vụ và chuẩn bị lao động xuất khẩu.
Trong thời đại WTO, nhu cầu nguồn nhân lực tay nghề này quan trọng gấp nhiều lần hơn nguồn lao động lý thuyết hàn lâm từ các ĐH mà phải mất ít nhất 4 năm mới đào tạo được một ít phần trăm lao động ở mỗi địa phương. Do đó, chúng ta nên nhanh chóng điều chỉnh hành vi của con người để hướng con người đến với nhu cầu thực tế của nền kinh tế chứ không phải hư danh.
Thứ hai: Nguồn nhân lực sau đào tạo tuy có dồi dào song chất lượng còn cách xa so với nhu cầu của các doanh nghiệp
Sinh viên của chúng ta mặc dù phải học rất nhiều thứ nhưng ít được thực hành nên khi đi làm “đụng” đến công việc đều phải “học” lại cái lẽ ra phải được chuẩn bị từ trong trường ĐH. Nghĩa là, khi hỏi vấn đề gì thì tất cả đều trả lời rất chuẩn bằng những khái niệm và định nghĩa có sẵn trong giáo trình. Và đều dừng lại ở mức đó. Thêm nữa là họ rất rụt rè khi phải phát biểu, trình bày kế hoạch. Thêm nữa là khi đi thi tuyển trong túi hồ sơ của ai cũng có 2-3 chứng chỉ về trình độ vi tính và bằng C tiếng Anh nhưng sau khi kiểm tra thì số “tạm tuyển” chỉ đạt chưa tới 10%! Còn về các kỹ năng như soạn thảo văn bản, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tổ chức không gian làm việc, kỹ năng viết báo cáo, kỹ năng đàm phán và thuyết phục thì lại rất kém và chỉ có mỗi cái tạm được là sức khỏe tốt.
Còn riêng khoản “sinh ngữ” thì “hết nói”. Ngay như ông giám đốc Công ty Saigontourist cũng phải than vãn có tới 70% số sinh viên tốt nghiệp khoa ngoại ngữ chỉ được cái giỏi nói tiếng Việt. Theo kết quả một cuộc điều tra của Trung tâm Khảo thí và Đánh giá chất lượng đào tạo thuộc ĐHQG TPHCM thì - mặt bằng trình độ sinh viên bắt đầu năm thứ 3 chỉ mới đạt trong khoảng 360 - 370 điểm TOEFL hoặc 3,5 điểm IELTS - đây là số điểm ở trình độ rất thấp so với thế giới. Và ở mức “sơ khởi” này, sinh viên chưa thể tham gia vào các cuộc trao đổi ý kiến mà chỉ tiếp nhận thông tin đơn giản.
Đấy là nguồn nhân lực có được từ các trường ĐH, CĐ, TCCN; còn ở tầm lao động giản đơn tình thế không có gì là khả quan. Ví dụ như: Đầu năm 2007, các KCN – KCX thành phố cần tuyển 10.000 lao động phổ thông cho các ngành dệt – may, cơ khí, lắp ráp điện tử với mức lương khởi điểm 1 triệu đồng/người/tháng, song tìm đỏ mắt cũng mới kiếm ra 20% số lao động đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Với chất lượng cũng vậy, nguồn nhân lực Việt Nam khó có sức “bơi” được tới con tàu “WTO”
Trong một kỳ thi sát hạch CNTT của Hội đồng Sát hạch CNTT của các nước Châu Á ITPEC được tổ chức tại 7 nước Nhật Bản, Malaysia, Mông Cổ, Myanmar, Thái Lan, Philipins và Việt Nam mới đây cho thấy, cùng với độ khó của đề thi, tỷ lệ đạt của sinh viên các trường dạy nghề CNTT của Nhật Bản có thể đạt đến 70-80%, còn sinh viên các trường dạy nghề của Việt Nam chỉ có tỷ lệ đạt dưới mức 3%. Nguyên nhân của tình trạng trên là độ vênh còn quá lớn giữa hệ thống đào tạo và nhu cầu của ngành. Có thể thống kê một loạt những bất cập trong đào tạo, giáo dục CNTT hiện nay như: Phương thức, chương trình đào tạo chậm đổi mới, không phù hợp với yêu cầu, đặc thù ngành CNTT; Đào tạo chính quy có mức xã hội hoá thấp, không khai thông được nguồn lực đầu tư từ xã hội và tạo được động lực thúc đẩy sự đổi mới trong đào tạo... Tuy nhiên đây không phảI là những bất cập chỉ có trong đào tạo CNTT mà nó là bất cập chung của nền giáo dục nước ta hiện nay.
Thứ ba: Cơ sở đào tạo
Các nhà doanh nghiệp than thở trang thiết bị dạy học ở một số trường, một số phòng thí nghiệm vừa thiếu, vừa lạc hậu so với trình độ hiện tại. Họ nói: “Hàng ngày chúng tôi phải đọc hàng chục tờ báo, tạp chí tiếng Việt và tiếng nước ngoài, phải truy cập Internet để thu thập thông tin về tiến bộ kỹ thuật, những phát minh, sáng chế mới v.v... phải tổng hợp, phân tích các dữ liệu, chọn lọc để ứng dụng vào công việc.
Thế nhưng, ở nhiều trường, chúng tôi thấy có ngành sinh viên thực hành trên thiết bị được sản xuất cách đây 30 - 40 năm. Còn các loại dụng cụ, vật liệu dùng cho nghiên cứu, thực nghiệm cũng đều là những loại mà các nước tiên tiến đã bỏ từ lâu... Tài liệu nghiên cứu, tham khảo thì được biên dịch từ sách báo thế giới cũng từ nhiều năm trước, thiếu cập nhật, thông tin đã lỗi thời! Một số giáo trình, giáo án được soạn thảo và sử dụng từ nhiều năm, trong khi tiến bộ về khoa học kỹ thuật, khoa học quản lý biến đổi rất nhanh lại không được cập nhật, hiệu chỉnh, bổ sung hàng năm, thậm chí có loại cần phải nhanh hơn nữa. Đó là chưa kể, do kinh phí eo hẹp, ở nhiều trường, các thầy cô ít có điều kiện ra nước ngoài tham quan, trao đổi học tập để nắm những thông tin khoa học hiện đại”.
Với những cơ sở vật chất giảng dạy như vậy đã làm cho ngườI học ít được tiếp cận với thành tựu khoa học mới nên khi đi làm tiếp cận với các công nghệ mớI họ luôn gặp nhiều khó khăn. Để việc cải tạo, mua trang thiết bị học và dạy mớI, các trường phải có một nguồn lực tài chính rất dồi dào trong khi đó kinh phí do nhà nước cấp lại rất hạn chế, các khoản thu từ học phí còn quá ít nên các trướng có xu hướng đào tạo những ngành nghề vớI chi phí thấp, ít phải đầu tư máy móc, thiết bị, phòng thí nghiệm, nhà xưởng như Kinh tế, Kế toán, , Tin học văn phòng, Ngoại ngữ chiếm 40 đến 50% quy mô đào tạo toàn quốc. Còn những ngành kĩ thuật và công nghiệp đòi hỏi đầu tư với chi phí lớn về thiết bị, nhà xưởng như khoa học vật liệu, kĩ thuật cơ khí, kĩ thuật điện, kĩ thuật khai thác mỏ, dầu khí ít được mở thêm. Điều này làm giảm khả năng tìm việc làm của sinh viên sau khi ra trường, hạn chế khả năng sáng nghiệp, tăng tỷ lệ thất nghiệp do không đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động. Như vậy các trường mới chỉ tập trung đào tạo những gì mình có chứ chưa đào tạo theo nhu cầu
Thứ tư: Nội dung chương trình đào tạo hiện nay còn nặng về lý thuyết ít thực hành thậm chí không có vì không đủ điều kiện, chưa dựa trên kết quả khảo sát thị trường lao động, chưa phân tích nhu cầu đào tạo và tiêu chuẩn năng lực nghề nghiệp.
Chương trình đào tạo trong các trường ĐH của chúng ta hiện nay không khác mấy so với nội dung, chương trình của mấy chục năm trước. Điểm khác biệt căn bản chỉ ở chỗ đã có bổ sung, điều chỉnh chút ít chứ chưa phải là chương trình được xây dựng để thích hợp với những đòi hỏi của tình hình phát triển hiện nay. Bên cạnh đó thì việc xây dựng chương trình đào tạo, đánh giá chương trình đào tạo với sự tham gia của các nhà tuyển dụng và doanh nghiệp chưa được phổ biến nhân rộng. Nhiều cơ sở đào tạo vẫn thực hiện chương trình cũ thiếu gắn kết với nhu cầu xã hội. Ngoài ra các trường mới thành lập, các ngành mới mở chỉ là sao chép chương trình đào tạo của một số cơ sở nào đó đã có sẵn, ít khi được xây dựng thích ứng với đặc điểm của trường, của ngành, của địa phương và trên cơ sở khảo sát phân tích nhu cầu lao động.
Thêm vào đó thời gian giành cho các môn chuyên ngành còn quá ít dẫn đến tình trạng sinh viên sau khi ra trường cái gì cũng biết nhưng chẳng có gì là sâu sắc cả. Ví dụ như ngành Công nghệ thông tin Trường ĐH Công nghiệp TPHCM, thờI gian đào tạo đã bị mất phân nửa cho những môn học không liên quan đến chuyên ngành nên sinh viên không được đào tạo sâu, chỉ được học những kiến thức nền tảng.
Thứ năm: Đội ngũ giảng viên, giáo viên
Cho đến nay tiêu chuẩn về giảng viên, giáo viên chưa được xây dựng thành tiêu chuẩn quốc gia. Việc tuyển chọn, phân loại và đáng giá giảng viên giáo viên trong các cơ sở đào tạo mới chỉ dựa trên quy định của Luật giáo dục về khung trình độ, chưa có tiêu chuẩn năng lực cụ thể cho việc lựa chọn, đánh giá, trả lương cho giảng viên, giáo viên.
b) Từ phía Nhà nước
Thứ nhất: Trong nhiều năm qua, Nhà nước chưa có cơ quan dự báo cấp quốc gia về nhu cầu xã hội, chưa có mạng lưới các cơ quan thu thập thông tin, phân tích, đánh giá và dự báo nhu cầu xã hội về số lượng lao động, cơ cấu trình độ, ngành nghề đạo tạo từ các Bộ ngành Trung ương đến các địa phương. Dự báo nhu cầu xã hội phải được tiến hành ở từng đại phương, từ dưới lên trên và cho từng bộ ngành. Cơ quan dự báo nhu cầu xã hội phải thường xuyên cung cấp số liệu làm cơ sở cho các trường lập kế hoạch đào tạo và điều chỉnh chiến lược phát triển cho từng giai đoạn
Thứ hai: Sự chồng chéo của các cơ quan quản lý Nhà nước về giáo dục đã làm cản trở sự chủ động của cơ sở đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội do quán tính của nền hành chính quan liêu để lại. Như cầu đào tạo của doanh nghiệp xuất hiện và không ngừng thay đổi, nhưng sự đáp ứng của các cơ sở đào tạo, đặc biệt là các cơ sở công lập với các nhu cầu đó rất chậm chạp do phải mất thời gian thực hiện các thủ tục rườm rà.
Thứ ba: Sự bất cập về cơ cầu hệ thống giáo dục, về thời gian đào tạo giữa cao đảng và TCCN, về khung trình độ như cao đẳng và cao đẳng nghề nghiệp, TCCN và trung cấp nghề, các loại trường lớp, học viện, văn bằng chứng chỉ tạo nên sự chồng chéo, trùng lặp trong đào là một trong những nguyên nhân của viậc thièu gắn kết giữa đào tạo và nhu cầu xã hội, gắn kết giữa đào tạo ban đầu và đào tạo thường xuyên, đào tạo nâng cao và đào tạo chuyên sâu.
Thứ tư: Việc tổ chức đánh giá chương trình đào tạo với sự tham gia của doanh nghiệp, cựu sinh viên, hội nghề nghiệp không được thực hiện thường xuyên để điều chỉnh chương trình. Hội đồng trường với chức năng nhiệm vụ được quy định trong Luật Giáo dục và Quyết định 153/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính Phủ về việc ban hành “Điều lệ trường Đại học” có tầm quan trọng để giúp nhà trường hoạch định chính sách đào tạo gắn với nhu cầu xã hội, nhưng vẫn chưa được sự hưởng ứng của các trường. Hiện nay mới chỉ có 3 trường là Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Đại học Thái Nguyên, Đại học Giao thong Vận tải đã thành lập hội đồng trường. Hai trường là trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Tp. HCM và trường Đại học Xây Dựng đang trong giai đoạn thẩm định hồ sơ đăng ký.
Thứ năm: Các loại hình như trung tâm hướng nghiệp, trung tâm trợ giúp và theo dõi việc làm, trung tâm quan hệ doanh nghiệp, trung tâm huấn luyện và bồi dưỡng giáo viên được thành lập nhằm phát triển năng lực chuyên môn tiếp cận với nhu cầu xã hội đang được nhiều trường thực hiện. Tuy nhiên đa số các trường chưa xây dựng được chiến lược và chưa tạo lập mối quan hệ với doanh nghiệp trong trao đổi thông tin, nắm bắt nhu cầu đào tạo vè số lượng theo trình độ đào tạo.
Thứ sáu: Kinh phí đầu tư cho giáo dục còn quá ít
Mặc dù hàng năm ngân sách cấp cho giáo dục có tăng lên (chiếm khoảng 15 – 16% ngân sách nhà nước) nhưng nó vẫn còn là rất nhỏ so vớI nhu cầu của ngành giáo dục nhất là khi khoa học ngày càng phát triển, trang thiết bị cho học và dạy của giáo viên, học sinh ngày càng hiện đại. Theo số liệu mớI đây nhất thì ngân sách đầu tư cho hệ thống giáo dục quốc dân được phân bổ như sau: 4,5% cho mầm non, 27% cho GD Tiểu học, 23,5% cho THCS, 11% cho THPT, 20 % cho CĐ-TCCN, còn lại chi tiêu cho GDĐH chỉ chiếm khoảng 16%. Nhìn vào định mức có thể thấy riêng hai bậc Tiểu học và THCS đã chiếm hơn 50% tổng ngân sách chi cho giáo dục, và nếu chúng ta nâng mức chi cho GD mầm non lên 15% hoặc nâng mức chi cho GDĐH lên 20% thì rõ ràng không còn tiền để chi cho các mục tiêu khác. Do đó bài toán chi phí cho giáo dục chỉ được giải quyết khi chúng ta đầu tư hợp lý và phát huy có hiệu quả nguồn lực xã hội hoá giáo dục.
Bên cạnh những mặt hạn chế kể trên thì thực tế của nước ta còn tồn tại khá nhiều những hạn chế khác xuất phát từ nhiều khía cạnh làm cho việc đào tạo theo nhu cầu xã hội của nước ta gặp nhiều khó khăn như: kinh phí cấp cho đào tạo còn hạn chế; số người ra khỏi thị trường lao động
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- N0134.doc