MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: 2
QUAN HỆ GIỮA DÂN SỐ VÀ PHÁT TRIỂN 2
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DÂN SỐ VÀ PHÁT TRIỂN 2
1. Các vấn đề cơ bản của dân số 2
2. Các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển 2
II. HỘI NGHỊ QUỐC TẾ VỀ DÂN SỐ VÀ PHÁT TRIỂN Ở CAIRO – AI CẬP NĂM 1994 3
III. QUAN HỆ GIỮA DÂN SỐ VÀ PHÁT TRIỂN 5
1. Dân số và kinh tế 5
2. Dân số và xã hội 10
3. Dân số với tài nguyên và môi trường 16
CHƯƠNG II: 19
VIỆT NAM – VỚI CHÍNH SÁCH ĐẦU TƯ CHO DÂN SỐ 19
PHỤC VỤ SỰ PHÁT TRIỂN 19
I. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA VỀ QUAN HỆ GIỮA DÂN SỐ VÀ PHÁT TRIỂN 20
II. CÁC CHÍNH SÁCH ĐẦU TƯ CHO DÂN SỐ CỦA VIỆT NAM 21
1. Chính sách kinh tế 21
2. Các chính sách xã hội 24
3. Chính sách đối với tài nguyên - môi trường 32
Tài liệu tham khảo 36
KẾT LUẬN 37
39 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2024 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư cho dân số là đầu tư cho phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đặt vào vị trí thứ yếu trong mọi hoạt động của xã hội.
2.3.2. Phụ nữ và nam giới với vấn đề dân số và sức khỏe sinh sản
Việt nam cũng như nhiều nước trên thế giới đã coi công tác dân số kế hoạch hóa gia đình là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển đất nước, là một trong những vấn đề kinh tế xã hội hàng đầu cần được sự quan tâm ủng hộ và hợp tác của từng người, từng gia đình và toàn xã hội. Trong đó chủ thể quan trọng nhất và có tính quyết định thuộc về mỗi một người nam và nữ trong xã hội.
Các chương trình dân số có thể hiểu là quyền của nam giới và phụ nữ được thông tin và có thể tiếp cận với những biện pháp tránh thai an toàn, hiệu quả và phù hợp với khả năng kinh tế; quyền được chăm sóc y tế để đảm bảo cho người phụ nữ được an toàn trong quá trình mang thai và sinh nở.
Cần phải có cách nhìn nhận khác trong việc xác định vai trò của người nam giới. Vì nếu các chương trình kế hoạch hóa gia đình chỉ tập trung vào đối tượng là nữ giới thì vô hình dung nam giới được đặt bên ngoài và trách nhiệm hoàn toàn thuộc về người phụ nữ, như vậy các biện pháp kế hoạch hóa gia đình sẽ không mang lại hiệu quả như mong đợi.
Những suy nghĩ lệch lạc về giới của xã hội cũng góp phần tăng sức ép tâm lý của người phụ nữ về trách nhiệm của mình. Lo nghĩ làm sao thực hiện tốt được các “chức năng truyền thống” của người phụ nữ trở thành gánh nặng trong cuộc đời của rất nhiều phụ nữ. Một chương trình dân số chỉ tập trung vào phụ nữ, thiếu những chính sách hỗ trợ và dư luận tích cực nhằm khuyến khích, động viên nam giới tham gia sẽ càng làm tăng sự bất bình đẳng về giới và hạn chế hiệu quả khi thực hiện.
Trong quá trình thực hiện các chương trình, chính sách liên quan đến bình đẳng giới cần quán triệt các hiểu rằng: bình đẳng giới không có nghĩa là cần phải thực hiện một sự ngang nhau của nam giới và nữ giới trong mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội theo phương châm phụ nữ có thể và có quyền làm tất cả những gì mà nam giới có thể và có quyền làm. Bình đẳng giới là tạo ra những điều kiện, cơ hội ngang nhau để mọi người (cả nam – nữ) thể hiện được khả năng của mình mà không làm triệt tiêu những sự khác biệt tự nhiên giữa hai giới. Bình đẳng giới mang lại hạnh phúc cho mỗi người, mỗi gia đình và toàn xã hội.
Vấn đề đặt ra là muốn đạt được cân bằng về giới trong lĩnh vực dân số nhằm mục đích phát triển, phải cải thiện mối quan hệ giữa phụ nữ và nam giới về những vấn đề kế hoạch hóa gia đình, sức khỏe sinh sản, chăm sóc, giáo dục con cái, về sự hiểu biết cũng như trách nhiệm chung của họ để phụ nữ và nam giới là những người cộng tác bình đẳng trong mọi hoạt động chung và trong đời sống riêng tư.
3. Dân số với tài nguyên và môi trường
Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội cần quan tâm giải quyết mối quan hệ giữa dân số với môi trường. Bản tuyên bố Amxtecdam năm 1989 đã khẳng định “Dân số, môi trường và tài nguyên là một thể liên kết khăng khít”, và nhấn mạnh sự cần thiết phải đảm bảo “Mối liên hệ bền vững giữa số lượng người, nguồn tài nguyên, sự phát triển”. Số dân tăng lên thì nhu cầu cơ bản cho đời sống lấy từ môi trường cũng tăng lên, đi cùng với nó là quá trình khai thác tài nguyên thiên nhiên bừa bãi, không có sự bảo tồn và tái tạo sẽ dẫn đến hệ quả không thể tránh được là môi trường tự nhiên bị suy thoái, các nguồn tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt.
Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và tự nhiên.
Môi trường được phân chia thành: môi trường sinh thái và môi trường tự nhiên.
Tài nguyên bao gồm tất cả các nguồn nguyên liệu, năng lượng, thông tin có trên trái đất và trong không gian vũ trụ có liên quan, mà con người có thể sử dụng phục vụ cuộc sống và sự phát triển của mình.
Tài nguyên bao gồm tài nguyên tái tạo được và tài nguyên không tái tạo được.
Quy mô dân số gia tăng sẽ dẫn đến nhu cầu sản xuất và tiêu dùng tăng lên, đe dọa làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Các nước có tỷ lệ tăng dân số cao sẽ gây thêm sức ép đối với khai thác đất đai và môi trường tự nhiên. Có thể dùng công thức sau để minh họa:
Q = P * A và I = P * A * T
Trong đó: - Q là quy mô khai thác (sử dụng) tài nguyên
- P là quy mô dân số
- A là bình quân sử dụng tài nguyên theo đầu người
- I là quy mô ô nhiễm môi trường
- T là hệ số ô nhiễm công nghiệp
Như vậy, quy mô sử dụng tài nguyên và quy mô ô nhiễm môi trường tỷ lệ thuận với quy mô dân số, mức độ sử dụng tài nguyên theo đầu người và hệ số ô nhiễm công nghiệp. Ở nhóm các nước đang phát triển và chậm phát triển, sự gia tăng quy mô dân số là nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường. Trong khi đó ở các nước phát triển, sản xuất công nghiệp là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường.
Việc phân bố dân cư ở thành thị và nông thôn cũng có tác dộng quan trọng đến môi trường. Cùng với quá trình đô thị hóa ồ ạt đã đặt ra những thách thức về môi trường đối với các thành phố về vấn đề vệ sinh, ô nhiễm môi trường sống, nhu cầu nước sạch, giao thông vận tải, rác thải...
Tăng trưởng sẽ biến mất do dân số tăng nhanh không kiểm soát nổi. Thực chất của mối quan hệ này đòi hỏi các chính sách phải đưa ra được các biện pháp thiết thực để hạn chế việc tăng dân số, bảo vệ tài nguyên môi trường. Những biến động dân số trong tương lai, đặc biệt là xu hướng gia tăng dân số vẫn còn nhanh trong thế kỷ 21 thì hệ lụy đến môi trường sống và tài nguyên là rất lớn. Theo dự báo dân số của thế giới vào năm 2100 sẽ là 10,185 tỷ người, kéo theo đó là hàng loạt những nhu cầu thiết yếu gia tăng, trong khi đó khă năng tải của các nguồn tài nguyên thiên nhiên là có hạn.
Đối với nước ta, dân số sinh sống chủ yếu ở nông thôn, vì vậy cần phải có chính sách quản lý mức sinh để dân số ở nông thôn phù hợp với sức nuôi của đất, nông dân có thể dựa vào đất đai để sống. Áp lực dân số của nước ta đang gây ra sự căng thẳng không kham nổi cho sức chịu đựng của môi trường cả nước, do vậy sẽ khó thực hiện một kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường có hiệu quả để nâng cao chất lượng dân số nếu mức tăng dân số không giảm xuống một tỷ lệ thích đáng. Vì vậy tính cấp bách của vấn đề là cần thiết phải có chính sách hướng vào mục tiêu nghiên cứu mối quan hệ giữa dân số với môi trường, tài nguyên nhằm quả lý tài nguyên và bảo vệ môi trường có hiệu quả.
Những trình bày trên đây là sự khái quát về mặt lý luận để làm rõ mối quan hệ giữa dân số và phát triển. Từ bản chất của mối quan hệ này chúng ta thấy rằng muốn đạt được mục tiêu phát triển và phát triển bền vững thì cần thiết phải đặt vấn đề đầu tư cho dân số là nhiệm vụ hàng đầu và quan trọng. Vì dân số là cơ sở hình thành tự nhiên của nguồn nhân lực – một nguồn lực quyết định mọi sự phát triển của mỗi một quốc gia.
CHƯƠNG II:
VIỆT NAM – VỚI CHÍNH SÁCH ĐẦU TƯ CHO DÂN SỐ
PHỤC VỤ SỰ PHÁT TRIỂN
Đặc điểm của dân số Việt Nam có thể tóm tắt qua những điểm cơ bản sau:
Quy mô dân số lớn: theo điều tra dân số và nhà ở ngày 1 tháng 4 năm 2009 thì dân số Việt Nam là trên 85 triệu người, đứng thứ 3 khu vực Đông Nam Á và thứ 13 trên thế giới. Những dự báo mới nhất của Tổng cục thống kê cho thấy vào năm 2024 dân số Việt Nam có thể đạt con số từ 95,13 triệu ng ( phương án thấp nhất) đến 104,28 triệu ng (phương án cao nhất).
Gia tăng dân số nhanh: trung bình mỗi năm nước ta có thêm khoảng trên 1 triệu trẻ em, tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên luôn ở mức cao.
Cơ cấu dân số của nước ta thuộc cơ cấu dân số trẻ, số người trong độ tuổi lao động lớn. Cơ cấu dân số trẻ vừa tạo ra nguồn nhân lực dồi dào vừa tạo áp lực đối với vấn đề giải quyết việc làm của nền kinh tế.
Dân số Việt Nam có sự phân bố không đều giữa thành thị và nông thôn, giữa các thành phố lớn và các vùng lân cận, giữa đồng bằng và miền núi...Khu vực nông thôn chiếm khoảng trên 75% dân số, khu vực thành thị là gần 25% dân số.
Với những đặc điểm về dân số nêu trên thì Việt Nam luôn là một trong những quốc gia có dân số đông và ép sức ép của dân số đối với sự phát triển kinh tế – xã hội, bảo vệ tài nguyên môi trường là rất lớn. Việt Nam đã thực hiện nhiều mục tiêu kinh tế để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng tổng sản phẩm xã hội, giải quyết việc làm cho người dân. Đồng thời, với sự nỗ lực trong việc tham gia các hội nghị quốc tế, ký kết các hiệp định song phương, đa phương với các quốc gia nhằm hợp tác tích cực về vấn đề dân số. Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng kể về giảm mức sinh, tiến tới ổn định quy mô dân số và nâng cao chất lượng dân số.
Từ sự phân tích sâu sắc mối quan hệ giữa dân số với các lĩnh vực kinh tế, xã hội, tài nguyên – môi trường đã giúp chúng ta đi đến một kết luận rằng: bất kỳ quốc gia nào mong muốn đạt đạt mục tiêu phát triển bền vững thì cần phải có chiến lược đầu tư cho dân số một cách phù hợp. Việt Nam cũng không nằm ngoài kết luận đó. Chính phủ Việt Nam đã tích cực đưa ra những chính sách dân số cụ thể nhằm giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa dân số và phát triển. Kiểm soát được sự gia tăng dân số cũng đồng nghĩa với việc Chính phủ sẽ có cơ sở để đề ra các chính sách hợp lý nhất. Việc đầu tư cho dân số được thể hiện trong những chính sách cụ thể mà chúng ta sẽ tìm hiểu dưới đây.
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA VỀ QUAN HỆ GIỮA DÂN SỐ VÀ PHÁT TRIỂN
Từ đầu thập niên 1960 đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc hoạch định và thực thi chính sách dân số quốc gia, nhằm giảm mức sinh, mức chết, nâng cao chất lượng dân số và phân bố dân số hợp lý. Chính sách dân sô hướng tới giảm sinh ở nước ta ra đời cách đây gần 40 năm được đánh dấu bằng Quyết định 216/CP ngày 26/12/1961 của Hội đồng Chính phủ. Tại thời điểm này dân số nước ta mới khoảng 30 đến 31 triệu người, chưa bằng nửa số dân hiện nay và trên thế giới nhiều Chính phủ chưa quan tâm đến vấn để dân số. Điều đó chứng tỏ nhà nước đã sớm ý thức được tầm quan trọng của việc kiểm soát mức sinh và hơn nữa, có tầm nhìn chiến lược đối với công tác này khi xác định mục tiêu của sinh đẻ có hướng dẫn không chỉ đơn thuần là để hạn chế quy mô dân số mà mục đích tối cao của nó là: “ Vì sức khỏe của người mẹ, vì hạnh phúc và sự hòa thuận của gia đình, để cho việc nuôi dạy con cái được tốt...”
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành trung ương Đảng khóa VII (1993) nhận định: “ Sự gia tăng dân số quá nhanh là một trong những nguyên nhân quan trọng cản trở tốc độ phát triển kinh tế xã hội, gây khó khăn lớn cho việc cải thiện đời sống, hạn chế điều kiện phát triển về mặt trí tuệ, văn hóa và thể lực của giống nòi. Nếu xu hướng này cứ tiếp tục diễn ra thì trong tương lai đất nước ta sẽ đứng trước những khó khăn rất lớn, thậm chí những nguy cơ về nhiều mặt”.
Mục tiêu phát triển con người được khẳng định như là mục tiêu tổng quát của chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình: “Thực hiện gia đình ít con, khỏe mạnh, tạo điều kiện để có cuộc sống ấm no hạnh phúc”.
Nghị quyết đã nêu lên quan điểm về mối quan hệ giữa dân số và phát triển, vị trí của công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình: “Công tác dân sô KHHGĐ là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước, là một trong những vấn đề kinh tế xã hội hàng đầu của nước ta, là một yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và toàn xã hội”.
Như vậy, “Sinh đẻ có hướng dẫn”, “ Sinh đẻ có kế hoạch” hay “Kế hoạch hóa gia đình” đều là những yếu tố cơ bản để vươn tới mục tiêu cao hơn mang lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho mỗi gia đình và toàn xã hội. Hay nói cách khác, giải quyết tốt vấn đề dân số là một trong những giải pháp cơ bản để đạt tới sự phát triển bền vững. Đó là quan điểm xuyên suốt và nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong những thập kỷ qua.
Mặt khác, trong những năm qua Đảng và Nhà nước cũng đã ban hành và thực thi nhiều chính sách nhằm phát triển kinh tế, giáo dục, chăm sóc sức khỏe nhân dân, đặc biệt là đối với bà mẹ, trẻ em, nâng cao địa vị người phụ nữ... Tạo điều kiện thích hợp cho việc thực hiện thành công chính sách và chương trình dân số Quốc gia.
II. CÁC CHÍNH SÁCH ĐẦU TƯ CHO DÂN SỐ CỦA VIỆT NAM
1. Chính sách kinh tế
Kinh tế phát triển là cơ sở là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của đất nước, góp phần quan trọng vào việc tăng thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân và góp phần thực hiện tốt các chính sách xã hội của nhà nước.
Đặc điểm cảu nền kinh tế Việt Nam là có điểm xuất phát thấp và gặp nhiều khó khăn trong quá trình phát triển. Vì vậy, mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm trong mọi giai đoạn phát triển đất nước. Tuy nhiên trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX cũng đã nêu rõ quan điểm: “Phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”. Như vậy, các kết quả đạt được trong lĩnh vực kinh tế đều phải nhằm vào phục vụ các chính sách xã hội và vì mục tiêu cao nhất là phát triển con người.
Chủ trương đổi mới nền kinh tế đất nước là một chủ trương quan trọng góp phần tạo nên những chuyển biến căn bản của nền kinh tế nước ta. Chủ trương này đã được cụ thể hóa thành các mục tiêu, giải pháp trong các chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của nước ta giai đoạn 1991 – 2000 và chiến lược 2001 – 2010. Trong đó xác định đổi mới kinh tế là đổi mới toàn diện bao gồm: cơ cấu kinh tế, nội dung kinh tế, phương pháp quản lý kinh tế...
Hệ thống các chính sách phát triển kinh tế đã được xây dựng và triển khai trên thực tế như: chính sách thu hút đầu tư, chính sách phát triển các thành phần kinh tế, chính sách phát triển các ngành nghề, chính sách xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, chính sách kinh tế đối ngoại....
Hàng năm vốn đầu tư cho phát triển kinh tế chiếm trên 30% GDP, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển mạnh, cùng với đó là các chương trình phát triển nông nghiệp – nông thôn, công nghiệp dịch vụ, các chương trình và dự án trọng điểm kinh tế của nhà nước được thực thi đã góp phần giải phóng sức sản xuất, giải phóng sức lao động, tạo môi trường lành mạnh để nhân dân đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tạo và tự tạo việc làm cho người lao động.
Trong những năm qua từ việc thực hiện các chính sách phát triển kinh tế thì nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định như: tốc độ tăng trưởng kinh tế không ngừng tăng qua các năm từ 5,2% đầu năm 2000 đã tăng lên 8,2 % năm 2006 và 8,5 % năm 2007; thu nhập bình quân trên đầu người được nâng cao từ xấp xỉ 289 USD/ng năm 1999 lên 725 USD/ng năm 2006, 835 USD/ng năm 2007 và đến năm 2008 đạt 1030USD/ng. Đây là một nỗ lực rất lớn của nền kinh tế đưa nước ta lần đầu tiên ra khỏi danh sách các nước nghèo trên thế giới....
Trong điều kiện nền kinh tế thế giới có nhiều biến động đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh tế diễn ra trên phạm vi toàn cầu, thì nền kinh tế nước ta cũng chịu những tác động nặng nề tốc độ tăng trưởng giảm sút, lạm phát tăng cao, kéo theo đó là tình trạng thất nghiệp gia tăng đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn...Đảng và nhà nước ta đã có nhiều cố gắng trong việc đưa ra các chủ trương tăng cường các giải pháp hướng tới mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát, giải quyết việc làm cho người lao động và đảm bảo an sinh xã hội.
Mặc dù, thành tựu đạt được của nền kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước. Song trên thực tế chúng ta nhận thấy rằng các kết quả về mặt kinh tế đã hướng vào mục tiêu vì người lao động, có tác động mạnh mẽ đến các quá trình dân số, là một trong những tiền đề quan trọng giúp Chính phủ giải quyết các hậu quả của gia tăng dân số, suy thoái nguồn tài nguyên và sự xuống cấp của môi trường sống đang diễn ra nghiêm trọng ở nước ta.
Trong các chính sách phát triển kinh tế thì chính sách giải quyết việc làm là một chính sách quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến nhiều mặt như: thu nhập, mức sống của người lao động, các quá trình dân số như di dân và sự phân bố dân cư...giải quyết việc làm cho người lao động trong sự phát triển của thị trường lao động sẽ góp phần quan trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn lao động, tác động tích cực vào việc hình thành thể chế kinh tế thị trường, đồng thời tận dụng lợi thế để phát trỉển, tiến kịp khu vực và thế giới. Tuy nhiên, giải quyết vấn đề việc làm đang là một thách thức lớn đối với nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt trong thời kỳ mở cửa hội nhập hiện nay.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương, đường lối thiết thực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo nhiều việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị, tăng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn, góp phần tăng thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010 đã được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng nhấn mạnh: “Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân”. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X xác định rõ: “Phát triển thị trường lao động trong mọi khu vực kinh tế, tạo sự gắn kết cung - cầu lao động, phát huy tính tích cực của người lao động trong học nghề, tự tạo và tìm việc làm”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo và điều hành của Chính phủ, cùng với sự nỗ lực vươn lên của nhân dân, trong những năm qua, công tác giải quyết việc làm và phát triển thị trường lao động đã thu được nhiều kết quả khả quan: với việc đa dạng hóa ngành nghề trên phạm vi cả nước, hàng năm đã giải quyết việc làm cho từ 1,1 - 1,2 triệu lao động, tận dụng tối đa nguồn nhân lực cho sự phát triển đất nước, từng bước nâng cao và cải thiện đời sống của nhân dân; tạo và tự tạo việc làm cho từ 300 - 350 nghìn lao động trên năm; đến nay đã có 150 trung tâm giới thiệu việc làm; việc đẩy mạnh chính sách kinh tế đối ngoại, tăng cường hợp tác song phương và đa phương với các quốc gia trên thế giới trong đó có hợp tác về vấn đề lao động thì nước ta đã và đang thực hiện tốt hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, coi đây là một trong những kênh quan trọng để giải quyết việc làm (từ 70-80 nghìn lao động trên năm), xóa đói giảm nghèo cho người dân, đem lại cơ hội lớn cho việc tiếp thu khoa học kỹ thuật tiên tiến của nước ngoài...
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì vấn đề lao động và việc làm ở nước ta hiện nay vẫn là vấn đề bức xúc, còn nhiều hạn chế cần khắc phục: các văn bản, chính sách về lao động việc làm ra đời nhưng việc ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện chưa đày đủ, chưa thực sự theo sát thực tiễn, hiệu quả thực hiện triển khai chính sách còn chậm; chất lượng việc làm chưa cao, tính ổn định, bền vững trong việc làm thấp, hiệu quả tạo việc làm còn chưa cao, chuyển dịch cơ cấu lao động chậm, lao động chủ yếu làm việc trong nông nghiệp chiếm 54,7%; thị trường lao động Việt Nam đã bước đầu hình thành và phát triển nhưng tập trung chủ yếu ở các tỉnh, thành phố lớn có nhiều các khu công nghiệp, khu chế xuất, ở 3 vùng kinh tế trọng điểm, còn ở các tỉnh khác mức độ còn sơ khai. Lao động phân bố không đều chủ yếu ở nông thôn, đồng bằng và thưa thớt ở miền núi. Hệ thống thông tin thị trường lao động chưa hoàn thiện, hệ thống giao dịch việc làm chưa mạnh, chủ yếu vẫn là hình thức trực tiếp giữa người lao động và người sử dụng lao động; các chính sách về tiền lương, tiền công, bảo hiểm, bảo hộ lao động chưa được đảm bảo nên chưa khuyến khích đựợc người lao động phát huy hết khả năng và chưa thực hiện được chức năng “kích cầu” để sản xuất phát triển; tồn tại cơ bản là chất lượng nguồn nhân lực, nhìn chung trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp, gần 70% lao động chưa qua đào tạo, một bộ phận lao động đã qua đào tạo hoặc được sử dụng không đúng ngành nghề hoặc phải đào tạo lại mới có thể làm việc trong các doanh nghiệp, chúng ta thiếu nghiêm trọng lao động kỹ thuật trình độ cao, lao động dịch vụ cao cấp (tài chính ngân hàng...). Mặt khác hầu hết người lao động của nước ta hiện nay còn mang thói quen, tập quán sản xuất nhỏ, thiếu năng động và sáng tạo, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp kém...Do đó, nguy cơ mất sức cạnh tranh trên thị trường là rất lớn, kể cả thị trường trong nước và tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế.
Những hạn chế và tồn tại nêu trên đã gây ra nhiều khó khăn trong giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động ở nước ta hiện nay. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu giải quyết việc làm trong tình hình hội nhập kinh tế quốc tế, cần thực hiên một hệ thống các giải pháp khác nhau tác động trực tiếp đến những mặt còn yếu kém. Trong đó, có giải pháp huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nước và quốc tế cho đầu tư phát triển, nhất là những vùng, ngành, lĩnh vực có khả năng thu hút nhiều lao động như: các vùng kinh tế động lực, trọng điểm ở cả 3 miền, khu vực dân doanh, trước hết là các doanh nghiệp vừa và nhỏ; kinh tế trang trại, hợp tác xã, các nghề tiểu thủ công nghiệp, làng nghề truyền thống...; khu vực dịch vụ nhất là các dịch vụ thu hút nhiều lao động, kết hợp khai thác tiềm năng, thế mạnh của đất nước và con người Việt Nam. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế và lao động nông thôn theo hướng CNH - HĐH để tạo thêm nhiều việc làm tại chỗ, góp phần giảm bớt áp lực về lao động di dân ra các thành phố kiếm việc làm.
2. Các chính sách xã hội
2.1. Chính sách về giáo dục – đào tạo
Phát triển Giáo dục – đào tạo sẽ nâng cao mặt bằng dân trí, yế
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đầu tư cho dân số là đầu tư cho phát triển.doc