Chương I: Lí luận chung về đầu tư phát triển, doanh nghiệp nhà nước và vấn đề đầu tư đổi mới công nghệ 3
I. Khái niệm đầu tư phát triển. 3
II. Khái niệm về doanh nghiệp và doanh nghiệp Nhà nước. 4
1. Doanh nghiệp. 4
2. Phân loại doanh nghiệp. 4
3. Doanh nghiệp Nhà nước(DNNN). 5
4. Tính chủ đạo của các doanh nghiệp Nhà nước ttong nền kinh tế nước ta. 5
III. Công nghệ và vấn đề đầu tư đổi mới công nghệ. 7
1. Khái niệm về công nghệ. 7
2. Các bộ phận cấu thành của công nghệ. 8
3. Đầu tư đổi mới công nghệ. 10
4. Lựa chọn công nghệ để đổi mới. 12
5.Đổi mới công nghệ và hiệu quả 14
6.Những yêu cầu đặt ra trong quá trình đổi mới công nghệ. 17
7. Các tiêu thức đánh giá hiệu quả kinh tế của đầu tư đổi mới công nghệ. 20
Chương II:Tình hình công nghệ và đầu tư đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp nhà nước 24
I. Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước. 24
1. Kết quả bước đầu. 24
2.Những tồn tại của các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay. 25
II. Thực trạng công nghệ trong các doanh nghiệp nhà nước. 27
III. Thực trạng công nghệ và đầu tư đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp Nhà nước trong một số nghành. 29
1. Nghành cơ khí. 29
2. Các doanh nghiệp nghành điện. 31
3. Các doanh nghiệp nghành xi măng. 31
4.Các doanh nghiệp nghành dệt, may. 31
5. Các doanh nghiệp chế biến nông sản. 33
6.Các doanh nghiệp nghành điện tử 35
7. Các doanh nghiệp bưu chính viễn thông 35
III.ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ TÌNH HÌNH ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY. 36
1. Những kết quả đạt được: 36
2. Những tồn tại cần tiếp tục xem xét giải quyết. 39
Chương III: Một số giải pháp nhằm thúc đẩy và nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp Nhà Nước 43
1. Những quan điểm chi phối quá trình lựa chọn và đổi mới công nghệ. 43
2. Những giải pháp từ phía Nhà nước. 43
3. Các giải pháp từ phía các doanh nghiệp Nhà nước. 45
Kết luận 47
Danh mục tàI liệu tham khảo. 48
Mục lục 49
50 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1296 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp Nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ền thống (nguyên vật liệu, nhiên liệu..) giảm đi, hàm lượng công nghệ tăng lên. Đây là một yêu cầu rất quan trọng nhằm mục tiêu tăng năng lực cạnh tranh cũng như khẳng định sự tồn tại của doanh nghiệp.
Thí dụ trong các doanh nghiệp cửa các nước phát triển, đầu tư phi vật chất (đầu tư cho nghiên cứu và triển khai, đào tạo, tin học,viễn thông tiếp thị ...) tăng nhanh và là loại đầu tư cho trí tuệ, hiện đã chiếm tới khoảng 40%vốn cố định. Tại Mỹ đã tổng kết đóng góp cửa yếu tố cơ bản vào tăng thu nhập quốc dân với tỷ lệ: đầu tư ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ đóng góp 71,4%, trong đó áp dụng các sáng chế 37,1%, tăng chất lượng lao động 28,5%, hiệu quả của cải tiến hệ thống tổ chức quản lý 5,8%. Những năm gần đây, chính vì phát triển các nghành sử dụng ít nguyên liệu -nhiên liệu hơn, nên mặc dù giai đoạn từ tháng 2-1999 đến đầu năm 2000 giá dầu thô tăng gấp 3 lần từ trước đến nay từ mức 10USD/thùng tăng đến 30 USD /thùng, giá hàng tiêu dùng thế giới nhìn chung vẫn không tăng vọt do thị trường sản phẩm phụ thuộc vào dầu lửa đã giảm hơn 40% so với 25 năm trước đây.
Xét về mặt cơ cấu nguyên liệu - năng lượng truyền thống so với nguyên liệu mới, đổi mới công nghệ phải nhằm tăng dần tỷ lệ sử dụng các công nghệ truyền thống đang dần phải thay đổi mục tiêu của mình do sự giới hạn của nguồn tài nguyên (người ta dự đoán rằng, khoảng năm 2040-2045, nguồn tài nguyên thiên nhiên sẽ bị cạn kiệt và chấm dứt nền văn minh công nghiệp dầu mỏ). Thực tể hiện nay cho thấy, cuộc cách mạng công nghệ lần thứ 3 đang định hình với những đặc trưng mới về chất như: có tính tự động cao, là sự kết hợp giữa công nghệ điện tử, công nghệ tin học, công nghệ có tính tự động hoá cao, công nghệ vũ trụ và đáy đại dương cùng các công nghệ chế biến chiều sâu không có phế liệu, sử dụng nguyên liệu nguyên liệu mới có khả năng tái sinh không gây ô nhiễm môi trường... Đầu tư đổi mới thị trường công nghệ chính là nhằm đấp ứng những yêu cầu đó.
Xét về tính chất đổi mới công nghệ phải nhằm mục tiêu làm cho danh mục, chủng loại chất lượng mẫu mã, công dụng và giá cả của sản phẩm đó được đổi mới hoạc cải tiến theo chiều hướng đa dạng hơn, tinh xảo hơn, tiết kiệm năng lượng và rẻ hơn, tiến tới tạo ra nhiều sản phẩm và dịch vụ hoàn toàn mới.
6.2. Đổi mới công nghệ phải gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế xã hội, chiến lược phát triển của doanh nghiệp.
Chiến lược phát triển kinh tế và chiến lược công nghệ quốc gia đóng vai trò quan trọng trong định hướng phát triển công nghệ trong từng doanh nghiệp một mặt có được những ưa điểm và hỗ trợ nhất định (về vốn, về thông tin ...) của Chính phủ, mặt khắc đảm bảo cho doanh nghiệp có được hướng đi đúng, tiết kiệm nguồn lực, tránh được những rửi ro không đáng có.
6.3. Đổi mới công nghệ phải nhằm mục tiêu từng bước bắt kịp trình độ công nghệ so với các nước trong khu vực và trên thế giới, tiến tới chủ động sáng tạo công nghệ theo mô hình Nghiên cứu (R)_ Triển khai (D). Tại Việt Nam hiện nay, hệ thống máy móc thiết bị lạc hậu từ 2 đến 5 thế hệ, mức tiêu hao nhiên liệu cao gấp 1,5 đến 2 lần , năng suất lao động công nghiệp chỉ đạt 30% so với thế giới. Một lao động nông nghiệp chỉ nuôi được 3 người trong khi đó ở Mỹ là 30 người, các loại vật liệu mới chỉ chiếm 5% tổng số các loại vật liệu, hệ số cơ giới hoá trong công nghiệp chỉ bằng 50% so với thế giới, nghành công nghiệp maý lạc hậu từ 50-100 năm so với các nước phát triển cao.Vì vậy ở những năm đầu, con đường duy nhất là tiếp thu công nghệ hiện đại, thông qua chuyển giao công nghệ. Bên cạnh đó tích cực chuẩn bị các điều kiện vật chất kỹ thuật con người ...để tiến tới thực hiện nghiên cứu sáng tạo công nghệ mới cho chính chúng ta.
6.4.Đổi mới công nghệ phát triển phải gắn liền với phát triển kinh tế xã hội một cách bền vững.
Một mục tiêu quan trọng của đổi mới công nghệ là thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế thường xuyên và ở mức cao. Tuy nhiên, đạt được điều đó thôi chưa đủ, đổi mới công nghệ còn phaỉ nhằm nâng cao trình độ trí tuệ của người lao động làm cho họ thích nghi và làm chủ máy móc thiết bị công nghệ mới, đồng thời có khả nãng sáng tạo hơn trong hệ thống sản xuất kinh doanh.
7. Các tiêu thức đánh giá hiệu quả kinh tế của đầu tư đổi mới công nghệ.
Mục đích của mỗi doanh nghiệp khi tiến hành đầu tư đổi mới công nghệ là để sản xuất ra những hàng hoá, dịch vụ có chất lượng cao hơn, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, tăng doanh thu, lợi nhuận...Để thực hiện được mục tiêu này thì doanh nghiệp cần lựa chọn những công nghệ, thiết bị tốt, nhưng phải đặt trong mối quan hệ với những ràng buộc về điều kiện tài chính, trình độ kĩ thuật và quản lí hiện có của doanh nghiệp.
Để đánh giá hiệu qủa kinh tế của việc đầu tư đổi mới công nghệ, người ta có nhiều chỉ tiêu xem xét. Một số chỉ tiêu cơ bản thường được sử dụng là:
- Chỉ tiêu giá trị hiện tại ròng (NPV) của phương án công nghệ: theo chỉ tiêu này, nếu phương án có giá trị hiện tại ròng không âm thì được coi là có hiệu quả.
Chỉ tiêu tỷ số lợi ích/ chi phí( B/ C): Phương án công nghệ được chấp nhận khi tỷ số này không nhỏ hơn 1.
Chỉ tiêu hệ số hoàn vốn nội bộ(IRR): giá trị này phải thoả mãn điều kiện lớn hơn chi phí cơ hội của vốn đầu tư.
Chỉ tiêu thời gian hoàn vốn(T): phương án công nghệ có thời gian thu hồi vốn càng nhỏ càng tốt.
7.1.Giá trị hiện tại ròng của phương án công nghệ(NPV).
Giá trị hiện tại ròng chính là giá trị cộng dồn của dòng lợi ích thu được trong thời hạn công nghệ hoạt động đã được tính qui đổi về mặt bằng thời gian hiện tại theo một mức lãi suất chiết khấu lựa chọn. NPV chính là hiệu số của giá trị hiện tại của dòng thu nhập trừ đi giá trị hiện tại của dòng chi phí theo lãi suất chiết khấu lựa chọn.
NPV được tính theo công thức sau:
Trong đó:
NPV là giá trị hiện tại ròng của phương án công nghệ.
Bi là lợi ích thu được từ công nghệ ở năm thứ i.
Ci là chi phí năm thứ i của phương án công nghệ; r là tỉ suất chiết khấu, cho phép đánh giá chi phí cơ hội của việc sử dụng vốn vào phương án công nghệ mới.
n- thời hạn công nghệ hoạt động.
Theo phương pháp này, nếu phương án có giá trị hiện tại ròng không âm thì được coi là có hiệu quả và được chấp nhận. Nếu NPV nhỏ hơn 0 thì phương án không được chấp nhận.
7.2. Tỷ số lợi ích/ chi phí(B/C).
Tỷ số lợi ích/ chi phí được tính theo công thức sau:
Tỷ số lợi ích/ chi phí chính là tỷ lệ giữa tổng lợi ích qui về hiện tại và tổng chi phí qui về hiện tại. Phương án công nghệ có hiệu qủa khi tỷ số này không nhỏ hơn 1. Chỉ tiêu này cho thấy mức thu nhập ứng với một đồng chi phí.
Nhược điểm của chỉ tiêu này là không cho ta biết được lãi ròng của phương án. Do đó có thể xảy ra trường hợp một dự án nhỏ, giá công nghệ rẻ tiền thì tỷ lệ B/C lớn nhưng thực tế thì lãi không cao.
7.3. Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ(IRR).
IRR chính là mức lãi suất mà nếu dùng nó làm tỷ suất chiết khấu để tính chuyển các khoản thu, chi của phương án công nghệ về mặt bằng thời gian hiện tại thì tổng thu sẽ cân bằng với tổng chi.
IRR được xác định theo công thức sau:
Nếu IRR>= r(tỷ suất chiết khấu) thì phương án công nghệ chấp nhận được. Khi đó, phương án cho phép nhận được tỷ lệ lợi tức về vốn cao hơn chi phí cơ hội của vốn.
7.4.Thời gian thu hồi vốn(T).
Đây chính là thời gian cần thiết để thu hồi số vốn đầu tư đã bỏ ra cho phương án công nghệ bằng các khoản lợi nhuận thuần và khấu hao thu hồi hàng năm.
Nếu không tính đến yếu tố giá trị thời gian của tiền, thời gian thu hồi vốn được xác định như sau:
Giá trị của T phải thoả mãn:
Trong đó:
T: thời gian thu hồi vốn(năm).
(W+D)i: lợi nhuận thuần và khấu hao năm thứ i.
Iv0: vốn đầu tư ban đầu.
Nếu tính đến yếu tố thời gian của tiền, thời gian thu hồi vốn được xác định như sau:
Trong đó: (W+D)iPV là lợi nhuận và khấu hao năm thứ i quy về hiện tại.
Chỉ tiêu này không cho biết phần thu nhập sau khi hoàn vốn. Nếu chỉ dựa vào chỉ tiêu này thì có thể chọn lầm phương án có thời gian thu hồi vốn nhanh nhưng tổng thu nhập cả đời phương án lại thấp. Chỉ tiêu này cần được sử dụng kết hợp với các chỉ tiêu khác.
Chương II:Tình hình công nghệ và đầu tư đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp nhà nước
I. Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước.
1. Kết quả bước đầu.
Trong những năm đổi mới các doanh nghiệp nhà nước đã có những tiến bộ quan trọng, điều này thể hiện ở một số kết quả sau:
-Doanh nghiệp nhà nước đã được tổ chức , sắp xếp lại thông qua việc cổ phần hoá, thành lập các tổng công ty 90 và 91 . Đó là tiến bộ quan trọng trong việc cơ cấu lại và tổ chức lại DNNN theo hướng trung vào những ngành , lĩnh vực và địa bàn quan trọng, tăng qui mô và thúc đẩy sản xuất kinh doanh có hiệu qủa.
- Hoạt động liên doanh liên kết giữa các DNNN với các thành viên kinh tế khác , nhất là với nước ngoài phát triển mạnh mẽ. Qua đó nâng cao năng lực công nghệ, tiếp thu kỹ năng quản lý tiên tiến, tăng mức đóng góp cho ngân sách nhà nước và tạo nhiều việc làm cho người lao động.
- Công nghệ, phương pháp sản xuất kinh doanh và quản lý của một số doanh nghiệp ngày một hiện đại, quy mô hơn.
- Các doanh nghiệp công ích của nhà nước hoạt động có kết quả tốt hơn đáp ứng được nhu cầu với quy mô ngày càng tăng, chất lượng cao và kịp thời hơn cho sản xuất kinh doanh.
- Tốc độ tăng trưởng chung của DNNN nhanh hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. Tỷ trọng trong GDP và tích luỹ của DNNN cao nhất trong các thành phần kinh tế và đang chi phối sự phát triển của các thành phần kinh tế khác theo mục tiêu kinh tế xã hội mà Đảng và Nhà nước xác định.
-Số lượng DNNN hoạt động có hiệu quả tăng nhiều , hiệu quả sử dụng vốn cao hơn, nộp ngân sách Nhà nước chiếm tỷ trọng cao nhất so với các thành phần kinh tế khác.
- Những tiến bộ trên có thể minh hoạ bằng những số liệu sau :
Theo báo cáo của ban đổi mới quản lý doanh nghiệp Trung ương số lượng DNNN đã giảm 1200 (1990) xuống còn 5280 doanh nghiệp (đầu năm 2000 ) đã cổ phần hoá được 306 doanh nghiệp với tổng số vốn gần 1000 tỷ đồng, thành lập 17 tổng công ty 91 và 76 tổng công ty 90. Thời kì 91- 95, tốc độ tăng trưởng của DNNN bình quân là 11,7%, bằng 1,5 lần tốc độ tăng trưởng kinh tế (8,2% ) và gần gấp đôi tốc độ tăng trưởng của khu vực kinh tế ngoai quốc doanh.
_ Tỷ trọng của khu vực kinh tế Nhà nước trong GDP tăng từ 33.3% năm 91 lên 40,07% năm 96 ; 41,23% năm 98 .
Tỷ lệ nộp ngân sách Nhà nước trên vốn Nhà nước năm 93 là 14,7%, năm 98 là 27,89%. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn Nhà nước năm 93 là 6,8%, năm 98 là 12,31%. Năm 99, các DNNN làm ra 40,2% GDP, trên 50% giá trị xuất khẩu, đóng góp 39,25% ngân sách nhà nước. DNNN đang sử dụng khoảng 15% lực lượng lao động trong các ngành nghề phi nông nghiệp. Doanh nghiệp Nhà nước đã có những tiến bộ về chất trong hoạt động, về cơ bản đã xoá bỏ cơ chế sản xuất theo chỉ tiêu pháp lệnh trên giao,vai trò tổ chức kinh doanh tự chủ tài chính được xác lập mở rộng doanh nghiệp được giao vốn, tự chịu trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn ..., Nhà nước từng bước quản lý doạnh nghiệp bằng pháp luật, môi trường và hành lang pháp lý cho hoạt động của doanh nghiệp được rõ ràng hơn.
2.Những tồn tại của các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay.
Trong việc phát huy vai trò chủ đạo của DNNN còn những mặt tồn tại chưa thưc sự làm đòn bẩy nhanh tăng trưởng kinh tế bền vững, ổn định chưa giải quyết được những vấn đề cơ bản về mặt xã hội đang đặt ra ,vai trò mở đường, hướng dẫn các thành phần kinh tế khác và vai trò đối tác chính của doanh nghiệp trong liên doanh còn yếu chưa tạo đủ vật chất để đảm bảo vững chắc những cân đối lớn của nền kinh tế và để doanh nghiệp thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô, tình trạng lãng phí, tham nhũng trong các DNNN còn phổ biến .
Những tồn tại trên chưa đươc khắc phục vì DNNN còn có những yếu kém sau :
2.1. Số lượng DNNN còn quá lớn và dàn trải: Tuy số lượng các doanh nghiệp đã giảm đáng kể song thực tế cho thấy số lượng như vậy vẫn còn nhiều. Các DNNN chồng chéo lên nhau theo cơ quan quản lý ngành nghề. Trong số các DNNN hiện nay thì có đến 25% doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng VN, trong số đó 50% có số vốn dưới 500 triệu VNĐ, thậm chí có tỉnh, thành phố có doanh nghiệp có vốn dưới 100 triệu VNĐ.
2.2. Tốc độ tăng trưởng và hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNNN chưa cao và đang có nguy cơ giảm dần. Tốc độ tăng trưởng bình quân năm của DNNN từ trên 11% năm 1991-1995 nay giảm xuống còn 8-9% năm 1998 -1999. Hiệu quả sử dụng vốn giảm, năm 1995 một đồng vốn tạo ra 3,46 đồng doanh thu và 0,19 đồng lợi nhuận. Tỷ lệ tương ứng của năm 1998 là 2,9 đồng doanh thu và 0,19 đồng lợi nhuận. Cá biệt, ngành công nghiệp 1 đồng vốn chỉ làm ra 0,02 đồng lợi nhuận. Số DNNN thua lỗ, hoà vốn còn lớn, nhất là các DNNN địa phương, tỷ lệ doanh nghiệp có nợ khó đòi, không có khả năng trả nợ ngày càng nhiều, một số doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
2.3. Mặt hàng đơn điệu, cơ cấu sản xuất hàng hoá không hợp lý năng suất chất lượng hàng hoá thấp, số doanh nghiệp vi phạm pháp luật tăng .
2.4. Liên doanh với các nhà đầu tư nước ngoài bị thua thiệt lớn, một số doanh nghiêp Nhà nước thậm chí bị mất vốn .
2.5. Sự yếu kém của đội ngũ cán bộ lãnh đạo trongdoanh nghiệp .
Trong các doanh nghiệp hiện nay một bộ phận không nhỏ cán bộ bị thoái hoá biến chất, vi phạm cơ chế quản lý gây thất thoát tài sản, tiền vốn của nhà nước, một số cán bộ lớn tuổi bảo thủ thiếu năng động nhưng vẫn giữ những chức vụ quản lý trong DNNN. Ngoài ra còn có một số cán bộ quản lý thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu kiến thức về kinh tế thị trường và kinh doanh, chưa được đào tạo lại nên điều hành sản xuất kinh doanh kém hiệu quả ...
Số lượng công nhân trong các doanh nghiệp tuy lớn nhưng trình độ văn hoá và trình độ kĩ thuật còn thấp, đặc biêt thiếu công nhân lành nghề ,một số bộ phận thiếu trách nhiệm, do đó năng suất lao động không cao .
2.6 Chính sách đầu tư đổi mới công nghệ, hiện đại hoá trang thiết bị chưa được sự quan tâm đúng mức .
Trình độ công nghệ thiết bị của các doanh nghiệp VN nói chung và DNNN nói riêng hiện nay về cơ bản là rất thấp so với khu vực và thế giới. Đây cũng là một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng sản xuất kém hiệu quả, sức cạnh tranh kém hiệu quả của các DNNN. Thực trạng vấn đề này sẽ được trình bày chi tiết ở phần sau.
II. Thực trạng công nghệ trong các doanh nghiệp nhà nước.
Từ khi đất nước đổi mới nền kinh tế chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trugn sang cơ chế thị trường, các DNNN đã có nhiều tiến bộ, tích cực trong đổi mới toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, thích nghi và khẳng định thị phần của mình trong cạnh tranh. Theo đánh giá chung thì từ khi đổi mới cơ chế đến nay, dưới áp lực của cạnh tranh thị phần của các doanh nghiệp nói chung và các DNNN nói riêng, đặc biệt là các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài đã có đổi mới đáng ghi nhận, góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng của sản xuất, sự cạnh tranh trụ vững với các sản phẩm của các doanh nghiệp nước ngoài ở một số lĩnh vực như quạt điện, bóng đèn , sản phẩm may mặc, thực phẩm... Công nghệ được đổi mới đã góp 20- 30% tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp, thậm chí trong một số DNNN, tỷ lệ cao hơn từ 50-60 % trong các ngành như bưu chính viễn thông, năng lượng, điện tử tin học...
Sự đổi mới công nghệ này không chỉ về máy móc, thiết bị ( phần cứng ) mà còn cả về phương pháp tổ chức, quản lý sản xuất , kỹ năng, trình độ nghề nghiệp của người lao động.
Bên cạnh những kết quả tích cực đạt được trong việc đôỉ mới công nghệ ở một số ngành, doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước công nghệ vẫn ở trình độ thấp so với khu vực và quốc tế. Hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ cho đến nay chưa phải là rộng khắp và có chiều sâu, năng lực cạnh tranh dựa trên công nghệ của các DNNN còn yếu.
Có nhiều doanh nghiệp được tiếp quản từ chế độ cũ , doanh nghiệp được xây dựng từ những năm 1950 -1960 , trong thời kỳ bao cấp máy móc thiết bị đã bị khấu hao hết. Trong số những năm đổi mới, công nghệ thiết bị, máy móc trong sản xuất kinh doanh đã được hiện đại hơn tuy nhiều nước sản xuất, thiếu đồng bộ nên khi hư hỏng thì thiếu phụ tình thay thế, nếu sửa chữa hiện đại gặp nhiều khó khăn. Theo số liệu của tổng cục thống kê đã có tới 51 % tài sản cố định sử dụng từ 18 năm trở lên, trong đó 3,2 % sử dụng trên 30 năm, chỉ có 5 % mua mới từ năm 1990 . Qua nhiều lần đánh giá lại giá trị còn lại của tài sản cố định chỉ còn 60% so với nguyên giá, thiết bị lạc hậu từ 2-3 thế hệ ( 10- 20 năm) có một số ngành lạc hậu từ 3-5 thế hệ như đường sắt, đóng tàu . Các DNNN địa phương còn lạc hậu hơn: có đến trên 70% lao động thủ công... Thực trạng này cho thấy rằng hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ trong thời gian qua chưa đem lại những thay đổi đáng kể về trình độ công nghệ trong các DNNN.
Tuy nhiên điều đặc biệt cần lưu ý là những năm gần đây, trong khi tình trạng mặt bằng công nghệcủa nền kinh kế còn quá thấp như một nguy cơ, thì ở một số DNNN vẫn còn tiếp tục chuyển giao những công nghệ lạc hậu ( do thiếu hiểu biết , thiếu thông tin, trục lợi...) nhiều khi được coi là " rác thải công nghiệp " làm cho trình độ công nghệ vốn đã lạc hậu nay càng lạc hậu hơn. Thực trạng này nếu không được chấn chỉnh thì sự tụt hậu nhanh của DNNN trong những năm tới là điều không thể tránh khỏi.
Trình độ công nghệ trong các doanh nghiệp VN trong đó có DNNN cũng được các chuyên gia nước ngoài đánh giá tương tự như tình hình thực tế. Một cuộc thăm dò ý kiến của 24 công ty Nhật hoạt động ở 10 nước ASEAN về môi trường kinh doanh của các nước này cho thấy trình độ công nghệ ở các doanh nghiệp VN là 1,9 ( thang điểm 5 ) , chỉ trên 3 nước chậm phát triển nhất khu vực là Myama(1,8), Lào(1,5), Campuchia (1,3 ).
III. Thực trạng công nghệ và đầu tư đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp Nhà nước trong một số nghành.
1. Nghành cơ khí.
Nghành cơ khí là nghành chủ chốt của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhưng đã lạc hậu từ 50 đến 100 năm so với các nước phát triển, 30 đến 50 năm so với các nước trung bình trên thế giới. Từ năm 1955- 1985, trong vòng 30 năm, nghành cơ khí đầu tư khoảng 500 triệu USD cho tài sản cố định, đến nay đánh giá lại còn khoảng 250-300 triệu USD(không kể vốn của các xí nghiệp liên doanh với nước ngoài). Bình quân giá trị tài sản cố định của một DNNN nghành cơ khí vào khoảng 0,61 triệu USD là quá nhỏ bé.
Hiện trạng của một số công nghệ cơ bản như sau:
Công nghệ đúc còn lạc hậu, phổ biến đúc bằng khuôn cát, mẫu gỗ trên nền cát cố định... Các công nghệ đúc khuôn kim loại, đúc khuôn tháo vỏ mỏng, đúc mẫu chảy, đúc áp lực tuy đã được sử dụng nhưng quy mô còn nhỏ. Công nghệ rèn chủ yếu vẫn là rèn tự do trên máy búa, công nghệ rèn khuôn hở có được áp dụng nhưng quy mô nhỏ. Công nghệ hàn hiện nay đang được sử dụng trong nghành chế tạo máy chủ yếu vẫn là hàn hồ quang, thủ công với các máy hàn cũ, lạc hậu. Công nghệ cắt gọt thì phần lớn máy công cụ là máy vạn năng thông dụng, có độ chính xác gia công thấp. Công nghệ chế tạo khuôn, cối, dụng cụ cắt đòi hỏi các vật liệu đặc biệt có cơ, lí tính cao, chịu mài mòn, chịu nhiệt, chịu axit chịu mặn chỉ mới bắt đầu được nghiên cứu và ứng dụng...
Cơ khí xe đạp là một ví dụ khá điển hình cho thực trạng nêu trên của các DNNN nghành cơ khí.
Nghành cơ khí sản xuất xe đạp ở Việt Nam hình thành từ những năm 46- 50. Sau năm 1954, ở miền Bắc, cơ khí xe đạp phát triển nhanh, đặc biệt vào những năm 60- 70. Sau năm 1975, cơ khí xe đạp càng phát triển. Thiết bị sản xuất xe đạp của các doanh nghiệp được nhập từ nhiều nguồn: Liên Xô, Đông Âu và Trung Quốc... Ngoài một số dây chuyền phụ tùng của Pháp, Nhật Bản mới được trang bị, còn lại, tất cả các thiết bị, dây chuyền đều được sản xuất từ những năm 50- 60. Trên các thiết bị cũ, lạc hậu, sản phẩm không theo một tiêu chuẩn thống nhất, ít khả năng lắp lẫn. Hao phí gia công lớn: Ví dụ tỷ lệ trọng lượng thô/ tinh của sản xuất đùi, đĩa là 2/ 1, của mayơ là 1,5/1... Trong một vài năm gần đây, các doanh nghiệp sản xuất xe đạp đã có nhiều cải tiến về mẫu mã, kiểu dáng xe, tuy nhiên, chất lượng xe đạp do các doanh nghiệp này sản xuất còn chưa cao nên rất khó cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại của Trung Quốc, Nhật...
Trong thời gian qua, một số DNNN nghành cơ khí đã có những bước tiến lớn trong việc đổi mới công nghệ. Nhà máy chế tạo máy công cụ số 1 cùng với viện máy và dụng cụ công nghiệp đã bắt đầu hiện đại hoá một số máy công cụ có giá trị cao như máy doa W 250, máy tiện dụng SKJ, máy tiện nằm SUT 160. Nhà máy chế tạo bơm Hải Dương đã đầu tư nhập thiết bị phân tích nhanh thành phần nấu luyện thép trung tần của Mỹ... Tuy nhiên, xét trong phạm vi toàn nghành, mức độ đổi mới công nghệ còn thấp. Hiện nay, bình quân tài sản của một doanh nghiệp cơ khí không vượt quá 1 triệu USD, đầu tư hàng năm cho nghành cơ khí còn thấp, lại phân tán . Trong giai đoạn 1991- 1995 các doạnh nghiệp nhà nước nghành cơ khí chỉ đầu tư 180 tỉ VNĐ, những năm gần đây, vốn đầu tư có lớn hơn song vẫn chưa tương xứng với yêu cầu đặt ra. Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào nghành cơ khí cũng khó khăn, tuy nhiên, hơn 50% tổng vốn đầu tư nước ngoài vào nghành này lại thuộc lĩnh vực lắp ráp ô tô, xe máy cùng những mặt hàng tiêu dùng cơ khí khác, đầu tư cho sản xuất tư liệu sản xuất rất thấp.
Theo dự báo của Bộ công nghiệp thì nhu cầu sản phẩm cơ khí bình quân từ năm 2001- 2010 sẽ là 11 tỷ USD/ năm, Để đáp ứng nhu cầu đó, cùng với việc nhập khẩu, các doanh nghiệp cơ khí phải nâng cao năng lực sản xuất, đầu tư mạnh vào đổi mới thiết bị, công nghệ để sản xuất ra những sản phẩm cơ khí có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đi liền với mục tiêu là chính sách kinh tế, việc tổ chức quy hoạch phát triển phải được xác định một cách hợp lí.
2. Các doanh nghiệp nghành điện.
Tại nước ta, nghành điện là một nghành kinh tế do Nhà nước độc quyền. Các nhà máy thuỷ điện đều đạt trình độ khá về công nghệ, nhưng các nhà máy nhiệt điện thì lạc hậu, hiệu suất sử dụng nhiệt thấp(dưới 30%), trong khi hiệu suất nhiệt bình quân của các nhà máy nhiệt điện ở Hàn Quốc năm 1993 là 38%, nhà máy nhiệt điện sử dụng khí hoá lỏng theo chu trình hỗn hợp của Hàn Quốc đạt hiệu suất 50%. Tỷ lệ tổn thất điện năng ở Việt Nam hiện nay là trên 20 %, ở Hàn Quốc chỉ khoảng 6%.
3. Các doanh nghiệp nghành xi măng.
Trong giai đoạn hiện nay, nhu cầu xây dựng cơ bản ở nước ta là rất lớn, do đó, nhu cầu sử dụng xi măng là rất cao. Trong những năm qua, nghành xi măng đã có những bước phát triển đáng kể về chất lượng, số lượng, đã có nhiều nhà máy xi măng được xây dựng mới cùng với việc tiếp thu những công nghệ mới. Các nhà máy xi măng Bút Sơn, Nghi Sơn, Chingfon, Hoàng Mai... được xây dựng mới đã góp phần giải quyết nhu cầu về xi măng ngày càng tăng của thị trường. Tuy nhiên, công nghệ sản xuất xi măng ở nước ta vẫn còn lạc hậu so với các nước tiên tiến trên thế giới. Ví dụ: xi măng Hoàng Thạch có mức tiêu thụ 1000-1200 kilo calo/ 1 kg clinke, năng suất lao động là 5000 tấn xi măng /người, năm...
4.Các doanh nghiệp nghành dệt, may.
Trước năm 1990, thiết bị dệt, may của các doanh nghiệp được nhập về từ nhiều nguồn, ban đầu là các máy đạp chân, rồi máy may của Liên Xô, Trung Quốc. Sau năm 1990, nghành may đã đầu tư mạnh mẽ thông qua việc tiếp nhận thiết bị và công nghệ mới, trở thành một nghành xuất khẩu quan trọng của nước ta. Công nghệ máy móc, ở các công đoạn chuẩn bị sản xuất, thiết kế, cắt, may, đóng gói tương đối khá.
Trong giai đoạn 1991-1995, Tổng công ty dệt may đã đầu tư 1485 tỷ VND để đổi mới máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ. Trong đó vốn nước ngoài là 419,38 tỷ đồng(28%), vốn vay trong nước chiếm 47%, các nguồn khác là 22%, vốn ngân sách là 3%.
Khoản mục
Đơn vị tính
Tổng số
Phía Bắc
Phía Nam
A.Tổng vốn đầu tư
-Tỷ VND
-Triệu USD
1485
135
827
75,2
658
59,8
Đầu tư cho dệt
1218
682
536
Đầu tư cho may
Tỷ VND
267
146
121
B. Các loại thiết bị
-Dây chuyền sợi
Cọc
121222
62014
59208
- Máy dệt vải
Cái
1087
538
549
-Máy dệt kim
Cái
366
150
216
-Khâu nhuộm
(năng lực)
Triệu mét
32
32
-
- Thiết bị may
Cái
19527
7992
11510
-Trong đó:
+ Các công ty dệt
+Các công ty may
Cái
Cái
5163
14384
1703
6289
3435
8075
Nguồn: Tổng công ty dệt may Việt Nam.
Việc đổi mới thiết bị trong nghành may có nhiều thuận lợi hơn so với nghành dệt. Lí do trước hết là thiết bị may rẻ tiền hơn, chỉ cần 1 triệu USD là có thể trang bị đủ một dây chuyền may xuất khẩu. Trong nghành may, tất cả các doanh nghiệp đều đổi mới 100% thiết bị, đầu tư mở rộng sản xuất, hình thành thêm nhiều cơ sở sản xuất dưới hình thức các xí nghiệp thành viên, xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp vệ tinh. Điển hình là các công ty may Việt Tiến, May 10, may Đức Giang, may Hải Dương ...
Đầu tư phát triển nghành may trở thành một nghành xuất khẩu quan trọng là một bước đi hợp lí, là một hướng mở rộng thị trường cho nghành dệt phát triển. Tình hình công nghệ và đổi mới công nghệ trong các DNNN nghành dệt may được đánh giá như sau:
- Về thiết bị: nghành dệt may trong vài năm trở lại đây đã có những bước chuyển mình về đổi mới công nghệ và thiết bị sản xuất, vượt qua giai đoạn khó khăn. Tỷ lệ thiết bị có trình độ trung bình đạt 45%, các doanh nghiệp có tỷ lệ thiết bị hiện đại cao là Công ty dệt len Vĩnh Thịnh(t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0168.doc