Đề tài Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng công ty Xây dựng Thăng Long

Trang

Lời nói đầu 5

Chương I: Lý luận chung về đầu tư và cạnh tranh 7

 I/ Đầu tư và đầu tư phát triển trong doanh nghiệp 7

1. Đầu tư 7

1.1. Khái niệm đầu tư 7

1.2. Đặc điểm của hoạt động đầu tư 7

2. Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp 8

2.1.Khái niệm 8

2.2. Vai trò của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp 8

2.3. Vốn và nguồn vốn trong doanh nghiệp 9

2.4. Nội dung đầu tư phát triển trong doanh nghiệp 11

2.4.1. Đầu tư Xây dựng cơ bản 11

2.4.2. Đầu tư phát triển khoa học công nghệ 12

2.4.3. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực 13

2.4.4. Đầu tư phát triển marketing 15

2.4.5. Đầu tư vào hàng dự trữ 17

2.4.6. Đầu tư vào tài sản vô hình 17

2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp 18

2.5.1. Lợi nhuận kỳ vọng trong tương lai 18

2.5.2. Lãi suất tiền vay 18

2.5.3. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư 19

2.5.4. Chiến lược sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp 19

2.5.5. Dự đoán của hãng về tình trạng nền kinh tế trong tương lai 20

2.6. Kết quả và hiệu quả đầu tư trong doanh nghiệp 20

 

II/ Cơ sở lý luận về cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế

thị trường 22

1. Quan niệm về cạnh tranh và khả năng cạnh tranh 22

2. Các loại hình cạnh tranh 23

3. Các nhân tố tác động đến cạnh tranh 25

3.1. Sự đe doạ của các đối thủ tiềm ẩn 25

3.2. Nguy cơ từ những sản phẩm thay thế 26

3.3. Quyền lực của người mua 27

3.4. Quyền lực của nhà cung ứng 27

3.5. Cạnh tranh giữa các hãng trong ngành 28

4. Sự cần thiết phải đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh

nghiệp 28

III/ Mối quan hệ giữa đầu tư và năng lực cạnh tranh của một

doanh nghiệp 30

 

Chương II: Tình hình đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của

Tổng công ty Xây dựng Thăng Long trong thời gian qua 32

I/ Giới thiệu chung về Tổng công ty 32

1. Quá trình hình thành và phát triển 32

2. Chức năng nhiệm vụ 34

3. Khái quát tình hình sản xuất kinh doanh 34

II/ Đánh giá năng lực cạnh tranh của Tổng công ty Xây dựng

Thăng Long trong thời gian qua 36

III/ Tình hình đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng công ty

Xây dựng Thăng Long 39

1. Vốn và cơ cấu vốn của Tổng công ty 39

 

 

doc96 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1040 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng công ty Xây dựng Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
,94% so với năm 2000. Như vậy, vốn đầu tư có xu hướng càng ngày càng giảm dần với tốc độ khác nhau. Sự giảm sút về vốn nguyên nhân không phải do Tổng công ty không chú trọng công tác đầu tư trong những năm gần đây mà nguyên nhân chính là do Tổng công ty đã tập trung một nguồn vốn rất lớn đầu tư trong giai đoạn 2000- 2001. Vì vậy, trong thời gian qua, Tổng công ty tiếp tục triển khai thực hiện và hoàn thành các dự án của giai đoạn 2000- 2001 và chỉ bổ sung thêm một số dự án cần thiết có khối lượng vốn nhỏ. Về qui mô dự án: cũng có sự tăng giảm không đồng đều qua các năm. Giai đoạn 2000- 2001, qui mô dự án bình quân là 5.551,9 triệu đồng. Giai đoạn 2002- 2004, qui mô dự án là 6.122,75 triệu đồng tăng 10,28% so với giai đoạn 2000- 2001. Khi qui mô dự án tăng lên sẽ tạo điều kiện cho Tổng công ty mua sắm máy móc thiết bị hiện đại và xây dựng cơ sở vật chất nâng cao năng lực cạnh tranh. Về cơ cấu vốn: Vốn đầu tư của Tổng công ty được huy động chủ yếu từ các nguồn: vốn Ngân sách Nhà nước, vốn tự có và khấu hao cơ bản, vốn nước ngoài, tín dụng ưu đãi, vốn vay thương mại và nguồn vốn vay khác trong đó vốn vay thương mại chiếm tỷ trọng lớn nhất. Nguồn vốn Ngân sách Nhà nước: Tổng mức vốn ngân sách Nhà nước giai đoạn 2000- 2004 là 44.595,7 triệu đồng, chiếm tỷ trọng nhỏ nhất trong tổng mức vốn đầu tư của Tổng công ty ( 6,46%). Điều này cho thấy Tổng công ty đã tích cực chủ động trong việc huy động các nguồn vốn khác. Nguồn vốn Ngân sách có xu hướng giảm dần qua các năm. Năm 2000, vốn Ngân sách là 10.141,7 triệu đồng chiếm 8,155% tổng mức vốn đầu tư. Năm 2001, vốn Ngân sách giảm xuống còn 9.870 triệu đồng, giảm 2,68% so với năm 2000. Năm 2002, vốn Ngân sách là 8.920 triệu đồng giảm 9.62% so với năm 2001 và giảm 12,05% so với năm 2001. Năm 2003, vốn Ngân sách là 8.540 triệu đồng giảm 4,26% so với năm 2002 và giảm 15,79% so với năm 2000. Năm 2004, vốn Ngân sách thấp nhất từ trước đến nay chỉ có 7.124 triệu đồng, giảm 16,58% so với năm 2003 và giảm 29,75% so với năm 2000. Sự giảm sút vốn Ngân sách là một dấu hiệu tích cực cho thấy sự linh hoạt, sáng tạo của các doanh nghiệp Nhà nước nói chung và Tổng công ty nói riêng trong nền kinh tế thị trường. Trong thời kỳ bao cấp, các doanh nghiệp thường có tính thụ động, trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước vì vậy, vốn Ngân sách thường chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng mức vốn đầu tư của hầu hết các doanh nghiệp. Nhưng từ khi chuyển sang kinh tế thị trường với những qui luật cạnh tranh khắc nghiệt buộc các doanh nghiệp phải chủ động hơn trong sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn ngân sách Nhà nước có xu hướng giảm dần và không còn đóng vai trò quyết định mà chỉ có vai trò định hướng, hỗ trợ phát triển. Tuy nguồn vốn Ngân sách Nhà nước chiếm tỷ trọng nhỏ song nó vẫn đóng một vai trò rất quan trọng để định hướng và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động. Nguồn vốn vay ngân hàng: Tổng vốn vay ngân hàng trong giai đoạn này lên tới 219.309,5 triệu đồng, chiếm tỷ trọng cao nhất 31,77% tổng mức vốn đầu tư của Tổng công ty. Nguồn vốn này biến động cùng với sự biến động của tổng mức vốn đầu tư. Năm 2000, vốn vay thương mại là 40.162 triệu đồng chiếm 32,29% tổng mức vốn đầu tư. Năm 2001, khối lượng vốn là 80.211,5 triệu đồng tăng gần gấp đôi so với năm 2000. Nhưng từ năm 2002, vốn tín dụng thương mại có xu hướng giảm xuống. Đến năm 2004, khối lượng vốn chỉ còn 13.141 triệu đồng giảm 34,87% so với năm 2003 và chỉ bằng 1/3 so với năm 2000. Tuy giảm xuống song vốn vay ngân hàng vẫn giữ một vai trò quan trọng trong tổng mức vốn đầu tư. Việc chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng mức vốn đầu tư cho thấy vốn huy động cho đầu tư phát triển của Tổng công ty chủ yếu vẫn là vốn vay. Do vậy, hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty sẽ chịu ảnh hưởng nhiều của yếu tố lãi suất. Song đây là một nguồn vốn không thể thiếu được đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào. Nguồn vốn tự có : Nguồn vốn này được hình thành chủ yếu từ hai bộ phận là: Lợi nhuận giữ lại sau thuế và khấu hao cơ bản. Trong giai đoạn này, tổng mức vốn tự có đạt 166.486,17 triệu đồng chiếm 23,97% tổng mức vốn đầu tư, đứng thứ hai sau nguồn vốn tín dụng thương mại. Trong 2 năm 2000- 2001, nguồn vốn này có tốc độ tăng trưởng rất cao 129,08% nhưng lại giảm dần ở 3 năm sau. Đến năm 2004, nguồn vốn này chỉ đạt có 12.172,4 triệu đồng, giảm 37,91% so với năm 2003 và giảm 51,92% so với năm 2000. Sự giảm sút này không phải do kết quả sản xuất kinh doanh của Tổng công ty yếu kém mà do nhu cầu đầu tư giảm nên phần lợi nhuận trích ra để đầu tư cũng giảm theo. Đây là nguồn vốn quan trọng mà Tổng công ty cần phải khai thác triệt để hơn nữa trong thời gian tới vì nó giúp doanh nghiệp chủ động trong quyết định của mình, không bị lệ thuộc vào thế lực bên ngoài. Nguồn vốn nước ngoài: Trong điều kiện nguồn vốn hạn hẹp, để có thêm vốn đầu tư, Tổng công ty đã tích cực huy động vốn từ nước ngoài. Nguồn vốn nước ngoài của Tổng công ty chủ yếu bao gồm các nguồn ODA, FDI và vốn tham gia liên doanh, liên kết. Trong giai đoạn 2000- 2004, nguồn vốn này đạt 121.530,32 triệu đồng chiếm 17,61% tổng mức vốn đầu tư và có xu hướng tăng giảm không đồng đều qua các năm. Nếu như 2 năm đầu, vốn đầu tư bình quân đạt 32.891,31 triệu đồng và có tốc độ tăng trưởng rất cao 161,42% thì đến 3 năm sau, vốn bình quân giảm xuống còn 18.582,57 triệu đồng chỉ bằng 56,5% so với giai đoạn trước. Đây là nguồn vốn đóng vai trò quan trọng không thể thiếu được trong nền kinh tế thị trường. Nó không chỉ bổ sung thêm vốn mà qua đó, có thể tiếp thu những công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, tác phong làm việc năng động sáng tạo của đối tác nước ngoài. Vì vậy, trong thời gian tới, Tổng công ty cần phải chủ động hơn nữa trong việc thu hút các nguồn vốn nước ngoài. Vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước: Cùng với việc huy động các nguồn vốn khác,Tổng công ty đã tranh thủ sự trợ giúp từ phía Nhà nước dưới hình thức cho vay ưu đãi với mức lãi suất thấp và thời gian cho vay dài. Nguồn vốn này hiện đang có 63.120,72 triệu đồng chiếm 11,81% tổng mức vốn đầu tư và ngày càng có vai trò quan trọng đối với hoạt động đầu tư của Tổng công ty. Cũng giống như các nguồn vốn khác, nguồn vốn này tăng dần trong 2 năm 2000- 2001 và giảm dần ở 3 năm sau. Năm 2000, vốn tín dụng ưu đãi là 11.521,14 triệu đồng. Năm 2001, vốn tín dụng ưu đãi là 25.017,8 triệu đồng, tăng 117,15% so với năm 2000. Nhưng đến năm 2004, nguồn vốn này giảm xuống còn 6.215,28 triệu đồng, giảm 24,31% so với năm 2003 và giảm 46,05% so với năm 2000.Nguồn vốn này có ưu điểm là không phải mất một khoản chi phí lớn để chi trả tiền lãi mà thời gian cho vay lại kéo dài. Tuy nhiên nó vẫn còn chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng mức vốn đầu tư. Vì vậy, trong thời gian tới, Tổng công ty cần phải có kế hoạch huy động nguồn vốn này để hoạt động đầu tư được tiến hành hiệu quả hơn. Nguồn vốn vay khác: Trong giai đoạn 2000- 2004, Tổng công ty đã huy động được 76.186,59 triệu đồng vốn vay khác chiếm 11,038% tổng mức vốn đầu tư. Không giống như các nguồn vốn nói trên, nguồn vốn này có xu hướng vận động khác hơn một chút cụ thể là: Trong 2 năm 2000- 2001, vốn đầu tư có xu hướng tăng lên với tốc độ tăng trưởng đạt 28,16% và bắt đầu giảm xuống từ năm 2002. Nhưng đến năm 2004, nguồn vốn này lại có xu hướng tăng lên. Năm 2004, vốn đầu tư là 10.048,32 triệu đồng tăng 140,65% so với năm 2003. Trong nguồn vốn này thì một phần là vốn vay của cán bộ công nhân viên trong Tổng công ty. Điều này thể hiện sự linh hoạt sáng tạo của Tổng công ty trong việc huy động vốn. Việc làm này vừa nhằm huy động nguồn vốn nhàn rỗi của cán bộ công nhân viên lại vừa nâng cao ý thức trách nhiệm của họ đối với công việc. Như vậy, vừa có thêm vốn để đầu tư lại vừa nâng cao được hiệu quả sản xuất kinh doanh. 2.Nội dung đầu tư Trước khi đi sâu vào từng nội dung đầu tư của Tổng công ty Xây dựng Thăng Long trong thời gian qua, chúng ta sẽ xem xét cơ cấu đầu tư của Tổng công ty đã hợp lý hay chưa qua bảng số liệu sau: Nguồn: Phòng Kế hoạch - Đầu tư Đơn vị: triệu đồng 6.Đầu tư khác 5.Xây dựng nhà xưởng 4.Nguồn nhân lực 3. Khoa học công nghệ 2.Sửa chữa thiết bị 1.Mua sắm thiết bị Trong đó: Tổng vốn đầu tư Năm Chỉ tiêu Bảng 3: Cơ cấu đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh giai đoạn 2000 - 2004 của Tổng công ty Xây dựng Thăng Long 1.100 6.803 450 360 7.821 107.827 124.361 Giá trị 2000 0,88 5,47 0,36 0,29 6,29 86,7 100 Tỷ lệ (%) 1.726 7.925 760 512 9.219 225.033 245.175 Giá trị 2001 0,7 3,23 0,31 0,21 3,76 91,78 100 Tỷ lệ (%) 2000 8. 144 1.120 1.030 12.273 162.951 187.518 Giá trị 2002 1,07 4,34 0,59 0,55 6,54 86,89 100 Tỷ lệ (%) 913 2.164 1.400 2.165 13.638 55.600 75.880 Giá trị 2003 1,2 2,85 1,84 2,85 17,97 73,27 100 Tỷ lệ (%) 251 1.526 2.751 1.253 13.795 31.920 57.277 Giá trị 2004 0,44 2,66 4,8 2,19 24,08 55,73 100 Tỷ lệ (%) 5.990 26.562 6.481 5.320 56.746 583.331 690.211 Giá trị Tổng 0,87 3,85 0,94 0,77 8,22 84,51 100 Tỷ lệ (%) Bảng 4: Xu hướng biến động của vốn đầu tư trong cơ cấu đầu tư của Tổng công ty Xây dựng Thăng Long Đơn vị: % Năm Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004 Tổng vốn đầu tư Tăng định gốc - 97,15 50,78 -38,98 -53,94 Tăng liên hoàn - 97,15 -23,52 -59,53 -24,52 Trong đó: 1. Mua sắm thiết bị 1.1. Tăng định gốc - 108,7 51,12 -48,43 -70,4 1.2. Tăng liên hoàn - 108,7 -27,6 -65,88 -42,59 2. Sửa chữa thiết bị 2.1. Tăng định gốc - 17,87 56,92 74,37 76,38 2.2. Tăng liên hoàn - 17,87 33,13 11,12 1,15 3. Nguồn nhân lực 3.1. Tăng định gốc - 68,89 148,89 211,11 511,33 3.2. Tăng liên hoàn - 68,89 47,37 25 96,5 4. Xây dựng nhà xưởng 4.1. Tăng định gốc - 16,49 19,71 -68,19 -77,57 4.2. Tăng liên hoàn - 16,49 2,76 -73,43 -29,48 5. Đầu tư khác 5.1. Tăng định gốc - 56,91 81,82 -17 77,18 5.2. Tăng liên hoàn - 56,91 15,87 -54,35 72,51 Nhìn vào bảng số liệu ta thấy: Vốn đầu tư mua sắm máy móc thiết bị luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng mức vốn đầu tư. Giai đoạn 2000- 2004, Tổng công ty đã tiến hành mua sắm 583.331 triệu đồng thiết bị tương đương với 84,51% tổng mức vốn đầu tư. Tỷ lệ này biến động không đồng đều qua các năm nhưng luôn đạt ở mức cao nhất. Năm 2002, tỷ lệ này là 86,87%. Năm 2001, tỷ lệ này cao nhất đạt 91,78%. Năm 2002, tỷ lệ này giảm xuống nhưng vẫn ở mức rất cao 86,89%. Năm 2003, vốn đầu tư mua sắm máy móc thiết bị chiếm 73,27% và năm 2004, chiếm 55,73% tổng mức vốn đầu tư. Bên cạnh việc đầu tư mua sắm máy móc thiết bị, Tổng công ty cũng tiến hành nhiều hoạt động đầu tư khác. Tuy nhiên, những hoạt động đầu tư này còn chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong tổng mức vốn đầu tư. Vốn đầu tư sửa chữa máy móc thiết bị chiếm 8,22% tổng mức vốn đầu tư. Vốn đầu tư phát triển khoa học công nghệ chiếm tỷ lệ thấp nhất 0,77%, vốn đầu tư phát triển nguồn nhân lực chiếm 0,94% tổng mức vốn đầu tư, vốn đầu tư xây dựng nhà xưởng chiếm 3,85% tổng mức vốn đầu tư và vốn đầu tư khác chiếm 0,87% tổng mức vốn đầu tư. Như vậy cơ cấu đầu tư hiện nay của Tổng công ty chưa được thoả đáng. Tổng công ty đã tập trung nhiều đầu tư mua sắm máy móc thiết bị mà chưa chú trọng đầu tư cho những hoạt động khác. Vốn đầu tư cho các hoạt động khác chiếm một tỷ trọng rất nhỏ có thể nói là không đáng kể trong tổng mức vốn đầu tư. Việc tập trung đầu tư cho máy móc thiết bị là việc làm đúng hướng song, Tổng công ty cần phải điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư sao cho khoảng cách giữa vốn đầu tư mua sắm máy móc thiết bị và các hoạt động khác giảm xuống. Trong giai đoạn này, vốn đầu tư phát triển khoa học công nghệ chiếm tỷ trọng nhỏ nhất 0,77% tổng mức vốn đầu tư là không hợp lý. Vì khoa học công nghệ là yếu tố then chốt quyết định tốc độ tăng trưởng của một doanh nghiệp nên trong thời gian tới, Tổng công ty phải tăng cường nhiều hơn nữa việc đầu tư phát triển khoa học công nghệ. Bên cạnh đó, nguồn nhân lực cũng đóng một vai trò quan trọng quyết định sự thành bại của một doanh nghiệp. Máy móc thiết bị có hiện đại đến đâu mà không có con người thì cũng không thể khai thác hết lợi thế của nó. Vì vậy, Tổng công ty cũng cần phải chú trọng hơn nữa việc đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Tổng công ty cần phải điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư theo hướng giảm tỷ trọng vốn đầu tư mua sắm máy móc thiết bị và tăng tỷ trọng vốn đầu tư cho các hoạt động khác nhằm tạo ra một cơ cấu đầu tư cân đối hơn. Song chúng ta cũng phải thừa nhận rằng, năm 2004 Tổng công ty đã bắt đầu nhận thấy cơ cấu đầu tư trước kia chưa hợp lý và bước đầu đã có những điều chỉnh nhất định. Tỷ trọng vốn đầu tư mua sắm máy móc thiết bị giảm từ 86,89% năm 2002 xuống còn 55,73% năm 2004. Trong khi đó tỷ trọng vốn đầu tư sửa chữa máy móc thiết bị tăng từ 6,29% năm 2000 lên 24,08% năm 2004; tỷ trọng vốn đầu tư phát triển khoa học công nghệ tăng từ 0,29% năm 2000 lên 2,19% năm 2004 và tỷ trọng vốn đầu tư phát triển nguồn nhân lực cũng tăng từ 0,36% năm 2000 lên 4,8% năm 2004. Trên đây là toàn bộ khái quát về cơ cấu đầu tư của Tổng công ty Xây dựng Thăng Long giai đoạn 2000- 2004. Để biết thêm chi tiết từng hoạt động đầu tư của Tổng công ty, chúng ta tiếp tục phân tích ở phần sau: 2.1. Đầu tư mua sắm máy móc thiết bị Trong những năm gần đây, đấu thầu đã trở thành phương thức chính để giao nhận thầu xây lắp ở nước ta và nó đã mang lại hiệu quả kinh tế vô cùng to lớn. Theo quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 đã được Chính phủ phê duyệt cho thấy thị trường xây dựng giao thông hứa hẹn một tiềm năng lớn, là cơ hội để các doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông nước ta mở rộng sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, các dự án quy mô lớn xây dựng các tuyến đường cao tốc từ Hà Nội, từ Tp Hồ Chí Minh đi các trọng điểm kinh tế, các địa phương không chỉ dừng lại ở mức khôi phục, nâng cấp mà tiến tới tiêu chuẩn hoá đường và cầu, đòi hỏi kỹ thuật cao, công nghệ xây dựng mới và hoàn thiện. ở các dự án lớn này, hình thức đấu thầu quốc tế được áp dụng phổ biến, với sự tham gia của các nhà thầu trong và ngoài nước. Thực tế cho thấy ở một số dự án như hầm xuyên Hải Vân, cảng Cái Lân, quốc lộ IA... các nhà thầu nước ngoài đã lấn sân thậm chí đánh bại nhiều Tổng công ty Xây dựng công trình giao thông của Việt Nam trong đấu thầu bởi một trong những lợi thế của họ là thiêt bị và công nghệ. Điều đó đặt ra thách thức đối với các Tổng công ty Xây dựng công trình giao thông Việt Nam muốn dự thầu và thắng thầu, khẳng định vị thế trong cạnh tranh, cần phải có các loại thiết bị thi công đặc chủng, đồng bộ, hiện đại và công nghệ tiên tiến. Vì vậy vấn đề đầu tư nâng cao năng lực thiết bị thi công, đổi mới công nghệ trở thành cấp bách của các Tổng công ty Xây dựng công trình giao thông hiện nay. Nhận thức được tầm quan trọng đó, Tổng công ty Xây dựng Thăng Long đã đầu tư rất nhiều cho công tác mua sắm máy móc thiết bị mới. Chính vì vậy, Tổng công ty đã đáp ứng đầy đủ những công trình giao thông có kỹ thuật phức tạp, yêu cầu cao về mỹ thuật, khẩn trương về tiến độ thi công, được tư vấn giám sát nước ngoài đánh giá cao. Từ số liệu bảng 3 và bảng 4 cho thấy: Khối lượng vốn đầu tư mua sắm máy móc thiết bị hàng năm rất lớn, chiếm tỷ trọng cao trong tổng mức vốn đầu tư và có xu hướng biến động không đồng đều qua các năm. Năm 2000, vốn đầu tư là 107.827 triệu đồng chiếm 86,7% tổng mức vốn đầu tư. Năm 2001 vốn đầu tư là 225.033 triệu đồng cao nhất từ trước đến nay, tăng 108,7% so với năm 2000. Nhưng đến năm 2002 trở đi thì vốn đầu tư bắt đầu giảm xuống còn 162.591 triệu đồng giảm 27,6% so với năm 2001 nhưng vẫn tăng 51,12% so với năm 2000. Năm 2003, vốn đầu tư là 55.600 triệu đồng giảm 65,88% so với năm 2002 và giảm 48,43% so với năm 2000. Vốn đầu tư tiếp tục giảm mạnh chỉ còn 31.920 triệu đồng vào năm 2004, giảm 42,59% so với năm 2003 và giảm 70,4% so với năm 2000.Vốn đầu tư mua sắm máy móc thiết bị giảm sút nguyên nhân không phải do Tổng công ty không còn chú trọng đầu tư đổi mới máy móc thiết bị. Nguyên nhân chính ở đây là do trong những năm trước đặc biệt là năm 2001, Tổng công ty đã giành một khối lượng vốn rất lớn mua sắm những máy móc thiết bị hiện đại. Vì vậy, trong những năm sau, Tổng công ty đang tiếp tục sản xuất kinh doanh trên những máy móc thiết bị đã được đầu tư ở giai đoạn trước, chỉ bổ sung thêm một số thiết bị cần thiết nên nguồn vốn đầu tư có chiều hướng giảm xuống. Tỷ trọng vốn đầu tư mua sắm máy móc thiết bị trong tổng mức vốn đầu tư cũng có xu hướng giảm dần. Năm 2001, vốn đầu tư mua sắm máy móc thiết bị chiếm tới 91,78% tổng mức vốn đầu tư thì đến năm 2004, tỷ trọng này giảm xuống còn 55,73%. Điều này thật dễ hiểu vì trước kia Tổng công ty đã tập trung rất nhiều vốn để mua sắm máy móc thiết bị mới làm cho cơ cấu đầu tư mất cân đối. Vì vậy, năm 2004 Tổng công ty đã thực hiện điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư theo hướng giảm tỷ trọng vốn đầu tư mua sắm máy móc thiết bị và tăng ty trọng vốn đầu tư cho các hoạt động khác lên. Để phục vụ kịp thời cho thi công một số dự án lớn, công nghệ mới, Tổng công ty Xây dựng Thăng Long đã đầu tư đồng bộ một số dây chuyền thiết bị với giá hơn 11 tỷ đồng cho thi công cầu dây văng ( như cẩu tháp, cẩu khối hộp 135 tấn, mũi lắp hẫng), cọc khoan nhồi... Đặc biệt từ một Tổng công ty chuyên xây dựng cầu, Tổng công ty đã đầu tư thiết bị, công nghệ và công nhân kỹ thuật thi công đường, đến nay đã có 6 công ty thi công đường, năm 2004 đạt trên 300 tỷ đồng sản lượng về làm đường, tạo việc làm cho hàng nghìn người Hoạt động đầu tư mua sắm máy móc thiết bị đã mang lại những thành tựu to lớn cho Tổng công ty trên nhiều mặt. Hiện nay, Tổng công ty đang có một hệ thống máy móc thiết bị hiện đại hơn so với các doanh nghiệp khác trong cùng ngành.Tổng công ty đã tạo dựng được một chỗ đứng vững chắc trong sự cạnh tranh gay gắt nhờ vào uy tín về chất lượng và kỹ thuật trên các công trình xây dựng. 2.2. Đầu tư sửa chữa máy móc thiết bị Bên cạnh việc đầu tư mua sắm máy móc thiết bị mới thì công tác sửa chữa, cải tạo và nâng cấp máy móc thiết bị cũ cũng được chú trọng. Ưu điểm của phương pháp này là tận dụng được năng lực sản xuất cũ, không phải bỏ ra những khoản tiền lớn để mua sắm máy móc thiết bị mới. Tuy chi phí cho hoạt động này không lớn như việc mua sắm máy móc thiết bị mới, song nó cũng ngày càng được chú trọng hơn. Từ số liệu bảng 3 và bảng 4 cho thấy: Khác với vốn đầu tư mua sắm máy móc thiết bị mới, vốn đầu tư sửa chữa máy móc thiết bị có xu hướng tăng dần qua các năm. Năm 2000, vốn đầu tư là 7.821 triệu đồng chiếm 6.29% tổng mức vốn đầu tư. Năm 2001, vốn đầu tư là 9.219 triệu đồng tăng 17,87% so với năm 2000. Năm 2002, vốn đầu tư là 12.273 triệu đồng tăng 33,13% so với năm 2001 và tăng 56,92% so với năm 2000. Năm 2003, vốn đầu tư tiếp tục tăng lên 13.683 triệu đồng, tăng 11,12% so với năm 2002 và tăng 74,37% so với năm 2000. Năm 2004, vốn đầu tư đạt mức cao nhất là 13.795 triệu đồng tăng 1,15% so với năm 2003 và tăng 76,38% so với năm 2000. Tỷ trọng vốn đầu tư sửa chữa máy móc thiết bị trong tổng mức vốn đầu tư cũng ngày càng tăng lên. Nếu như năm 2000, vốn đầu tư sửa chữa máy móc thiết bị chỉ chiếm 6,29% tổng mức vốn đầu tư thì đến năm 2003, tỷ lệ này đã tăng lên là 17,97% và năm 2004 là 24,08%. Điều này cho thấy công tác cải tạo sửa chữa máy móc thiết bị cũ ngày càng được chú trọng vì nhờ đó mà Tổng công ty sẽ tiết kiệm được một khoản chi phí lớn do không phải mua máy móc thiết bị mới. 2.3. Đầu tư phát triển khoa học công nghệ Khoa học công nghệ đang thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, quan trọng hàng đầu. Lĩnh vực khoa học công nghệ nhất là công nghệ cao đã trở thành lợi thế cơ bản của mỗi doanh nghiệp. Nhận thức một cách đầy đủ về vai trò của khoa học công nghệ với sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp, trong những năm qua, Tổng công ty Xây dựng Thăng Long đã chú trọng đầu tư đổi mới khoa học công nghệ, từ việc nhập khẩu máy móc thiết bị mới , cải tạo nâng cấp máy móc thiết bị hiện có cho đến việc khuyến khích nghiên cứu phát triển khoa học công nghệ. Hoạt động đổi mới công nghệ tại Tổng công ty hiện đang diễn ra dưới 2 hình thức chủ yếu sau: Tự đầu tư để đổi mới công nghệ Thông qua liên doanh, liên kết với các công ty nước ngoài tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới. Trong những năm qua, Tổng công ty đã có nhiều cố gắng trong hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ. Do nguồn vốn hạn hẹp, nên quá trình đầu tư không chỉ bằng con đường nhập khẩu máy móc thiết bị mới mà còn cải tạo nâng cấp máy móc thiết bị hiện có. Mặt khác với đội ngũ lao động kỹ thuật cao, Tổng công ty đã nỗ lực tận dụng chất xám hiện có bằng việc phát động phong trào nghiên cứu khoa học công nghệ. Nhờ đó, không những cải thiện được công nghệ mà còn tiết kiệm hàng tỷ đồng cho doanh nghiệp, giải quyết những khó khăn về vốn. Tuy nhiên, từ số liệu bảng 3 và bảng 4 cho thấy: Khối lượng vốn đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học công nghệ của Tổng công vẫn còn ở mức khiêm tốn. Trong giai đoạn 2000-2004, tổng mức vốn đầu tư khoa học công nghệ là 5.320 triệu đồng chiếm 0,77% tổng mức vốn đầu tư. Năm 2000, vốn đầu tư cho khoa học công nghệ rất nhỏ có thể nói là không đáng kể chỉ đạt ở mức 360 triệu đồng. Năm 2001, vốn đầu tư là 512 triệu đồng, tăng 42,22% so với năm 2000. Năm 2002, vốn đầu tư là 1.030 triệu đồng 101,17% so với năm 2001 và tăng 501,38% so với năm 2000. Năm 2003, vốn đầu tư đạt ở mức cao nhất 2.165 triệu đồng tăng 110,19% so với năm 2002 và tăng 501,38% so với năm 2000. Năm 2004, vốn đầu tư lại giảm xuống còn 1.253 triệu đồng, giảm 42,12% so với năm 2003 nhưng vẫn tăng 248,05% so với năm 2000. Tuy có tốc độ tăng trưởng rất cao song vốn đầu tư phát triển khoa học công nghệ vẫn còn chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng mức vốn đầu tư. Vì vậy, trong thời gian tới, Tổng công ty cần phải tăng cường hơn nữa việc đầu tư phát triển khoa học công nghệ, làm cho khoa học công nghệ thực sự trở thành một nội dung chính thường xuyên trong hoạt động đầu tư của Tổng công ty. Tuy vốn đầu tư cho khoa học công nghệ chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng mức vốn đầu tư song, việc đầu tư khoa học công nghệ cũng đã mang lại những thành tựu nhất định cho Tổng công ty cụ thể là: Năm 2004, Tổng công ty đã ứng dụng thành công một số công nghệ mới về thi công cầu dây văng như: đúc và lắp khối hộp bê tông cầu Kiền, thi công trụ tháp, thi công cáp dây văng; chế tạo dầm Prebeam ( cốt cứng) ở dự án Nội Bài- Bắc Ninh; chế tạo dầm “ Super T” tại cầu Yên Lệnh; thi công dầm hộp đúc khẩu độ lớn, thi công cọc khoan nhồi qua hang castơ... Tổng công ty đã tham gia tích cực, góp phần vào thắng lợi của Hội nghị Khoa học công nghệ 5 năm ngành Giao thông Vận tải và đã được đánh giá cao. Bên cạnh đó, phong trào lao động sáng tạo, sáng kiến vẫn được duy trì tốt ở các Công ty, đã xét thưởng 112 sáng kiến, làm lợi hơn 10 tỷ đồng và đã thưởng 236 triệu đồng, 4 cá nhân đã được cấp Bằng Lao động sáng tạo của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam. Đáng kể trong đó là các sáng kiến thiết kế xe đúc hẫng thi công dầm hộp liên tục khẩu độ lớn, giải pháp hợp lý hoá hệ thống lọc bụi nước trạm trộn bê tông áp phan, thiết kế đà giáo, ván khuôn định hình chuyên dành cho thi công cầu. Song song với sự sáng tạo là sự tôn trọng nghiêm túc công tác quản lý chất lượng, đảm bảo đúng tiêu chuẩn kỹ thuật nhờ đó năm 2004 đã có 4 đơn vị được cấp chứng chỉ ISO 9001- 2002, đó là Cơ quan Tổng công ty, Công ty cầu 7, Công ty Cơ khí và Xây dựng và Công ty thí nghiệm và Xây dựng công trình. 2.4. Đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao, kỹ thuật ngày càng phức tạp, đồng thời phù hợp với các quy trình xây dựng giao thông tiên tiến, các thiết bị hiện đại, Tổng công ty Xây dựng Thăng Long rất coi trọng việc đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Công tác tuyển chọn và đưa công nhân đi nước ngoài của Trung tâm đào tạo cung ứng nhân lực cho quốc tế trong những năm qua được cấp quản lý đánh giá cao về chất lượng và có uy tín với đối tác. Cùng với sự phát triển sản xuất, đội ngũ những người lao động trong Tổng công ty đã tăng cả về số lượng lẫn chất lượng. Đến nay, Tổng công ty đã có một lực lượng lao động hùng hậu, trình độ tăng lên gấp nhiều lần so với những năm trước. Từ số liệu bảng 3 và bảng 4 cho thấy: Vốn đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực liên tục tăng lên qua các năm với tốc độ càng ngày càng lớn. Điều này chứng tỏ trong thời gian qua, Tổng công ty đã chú trọng quan tâm đến việc nâng cao trình độ tay nghề cho đội ngũ cán bộ công nhân viên. Năm 2000, vốn đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là 450 triệu đồng chiếm 0,36% tổng mức vốn đầu tư. Năm 2001 vốn đầu tư là 760 triệu đồng tăng 68,8% so với năm 2000. Và chi phí này tiếp tục tăng nhanh trong những năm tiếp theo. Năm 2002, vốn đầu tư phát triển nguồn nhân lực là 1.120 triệu đồng tăng 47,37% so với năm 2001 và tăng 148,89% so với năm 2000. Năm 2003, vốn đầu tư tiếp tục tăng nhanh đạt 1.400 triệu đồng, tăng 25% so với năm 2002 và tăng 211,11% so với năm 2000. Đặc biệt trong năm 2004, Tổng công ty đã dành một nguồn vốn rất lớn cho việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là 2751 triệu đồng tăng gần gấp đôi năm 2003 và gấp 6 lần so với năm 2000. Như vậy vốn đầu tư phát triển nguồn nh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docJ0029.doc
Tài liệu liên quan