ĐỂ CƯƠNG CHI TIẾT
TÊN ĐỀ TÀI: ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO Ở VIỆT NAM
LỜI MỞ ĐẦU 9
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung 11
1. Những vấn đề lý luận về đầu tư phát triển. 11
1.1. Khả năng về đầu tư và đầu tư phát triển. 11
1.2. Vai trò của đầu tư phát triển. 11
2. Những vấn đề lý luận về đầu tư phát triển giáo dục - đào tạo. 13
2.1. Đầu tư phát triển giáo dục - đào tạo. 13
2.2. Vai trò của đầu tư phát triển giáo dục - đào tạo. 14
Chương 2: Thực trạng đầu tư phát triển giáo dục - đào tạo ở Việt Nam 16
1. Khái quát về tìnhhình phát triển giáo dục - đào tạo ở Việt Nam. 16
1.1. Tổng quan về giáo dục - đào tạo ở Việt Nam. 16
1.2. Sự cần thiết phải tăng cường đầu tư phát triển giáo dục - đào tạo. 20
2. Thực trạng đầu tư phát triển giáo dục - đào tạo ở Việt Nam 21
2.1. Giáo dục và đào tạo Việt Nam từ 2002-2004 21
2.1.1. Giáo dục mầm non. 23
2.1.2. Giáo dục phổ thông. 24
2.1.3. Giáo dục trung học chuyên nghiệp. 24
2.1.4. Giáo dục Cao đẳng và Đại học: 25
2.1.5. Giáo dục không chính quy. 25
2.2. Nguồn vốn đầu tư phát triển giáo dục - đào tạo. 26
2.2.1. Đầu tư của ngân sách Nhà nước cho giáo dục - đào tạo. 27
2.2.2. Đầu tư – Giáo dục - Đào tạo từ nguồn thu học phí. 29
2.2.3. Đầu tư – Giáo dục - Đào tạo từ các nguồn khác. 30
3. Kết quả đạt được trong đầu tư phát triển Giáo dục - Đào tạo ở Việt Nam. 31
3.1. Giáo dục mầm non và phổ thông. 31
3.1.1. Về cơ sở vật chất: 31
3.1.2. Về đội ngũ giáo viên: 32
3.2. Giáo dục - Đào tạo đại học, cao đẳng. 34
4. Những tồn tại trong đầu tư và phát triển Giáo dục - Đào tạo. 35
4.1. Tồn tại trong đầu tư của ngân sách nhà nước cho Giáo dục - Đào tạo. 35
4.2. Sự mất cân đối trong đầu tư. 38
4.3. Vốn đầu tư chưa hợp lý. 39
Chương 3: Phương hướng và một số giải pháp nhằm tăng cường đầu tư phát triển Giáo dục và Đào tạo ở Vệt Nam. 40
1. Phương hướng phát triển Giáo dục Đào tạo ở Việt Nam. 40
2.1. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư ngân sách nhà nước cho Giáo dục - Đào tạo. 41
2.2. Giải pháp khác. 42
KẾT LUẬN 42
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 44
37 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1960 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư phát triển giáo dục - đào tạo ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c) ở mức trung bình, tức là ngang bằng với Thái Lan và Philippines nhưng ở bậc trung học thì Việt Nam lại ở mức thấp hơn so với các nước này. Đặc biệt ở bậc đại học thì Việt Nam ở vị trí cuối cùng.
Số lao động kỹ thuật ở Việt Nam chiếm 12% năm 1995, trong số 40.2 triệu người chỉ có 4.7 triệu là lao động có kỹ thuật.
Cùng với sự biến động của số lượng học sinh, sinh viên thì số lượng giáo viên ở các cấp có sự biến đổi theo:
Bảng 2: Số lượng giáo viên ở các cấp
Đơn vị: 1000 người
92 - 93
93 - 94
94 - 95
95 - 96
96 - 97
97 - 98
98 -99
99 - 00
Mẫu giáo
69.3
66.3
69.3
75
84.4
92.9
93.7
96.3
PT
426.6
446.4
467.4
492.7
521
565.6
604.5
614.8
THCN
10
9.7
9.6
9.4
9.3
9.8
10
Dạy nghề
6.141
6.238
6.196
6.055
6.643
6.425
6.193
CĐ
&ĐH
21
21.2
21.7
22.8
23.5
24.1
26.1
Nguồn: Xử lý số liệu thống kê năm 1999.
Bảng 3: Số trường học qua các năm.
Nguồn: Xử lý số liệu trong Niên giám thống kê năm 1998.
91 - 92
92 - 93
93 - 94
94 - 95
95 - 96
96 - 97
97 - 98
98 - 99
PT
17189
17980
19164
20086
21754
22664
23286
THCN
268
271
272
265
266
239
239
247
Dạy nghề
275
185
198
182
203
239
246
CĐ & ĐH
106
108
109
109
109
109
110
123
Số lượng các trường tăng liên tục qua các năm (trừ THCN và dậy nghề) thể hiện sự quan tâm của Việt Nam đối với tầm quan trọng của giáo dục.
Việt Nam quản lý giáo dục theo từng cấp học khác nhau, cụ thể:
Chính phủ quản lý các trường ĐH, CĐ, THCN.
Tỉnh, thành phố quản lý giáo dục trung học.
Quận, huyện quản lý giáo dục tiểu học.
Mặc dù có sự tăng lên về số lượng trường học các cấp qua các năm nhưng vẫn không đủ lớp cho học sinh; ở các tỉnh, huyện ngoại thành tình trạng học sinh phải học ca 3 vẫn tiếp diễn. ở cấp dạy nghề còn nằm trong tình trạng manh mún, thiếu tập trung, chưa có chương trình nào dành cho dạy nghề.
Về đào tạo sau đại học ở trong nước diễn ra như thế nào?
Quy mô đào tạo sau đại học ở trong nước không ngừng được mở rộng và phát triển:
Bảng 4: Thống kê cơ sở đào tạo sau đại học.
Nguồn: Tài chính giáo dục tháng 9 năm 2001.
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
TS
Cao học
509
1058
1730
3060
651
3444
5294
3041
4534
2747
TS
NCS
16
52
96
51
074
258
1113
1174
76
86
713
Trong giai đoạn 1990 - 1993, cả nước có 77 cơ sở đào tạo tiến sỹ, nhưng từ 1993 - 2001 số lượng cơ sở đào tạo tiến sỹ tăng gấp 1.5 lần (từ 77 lên 113 cơ sở). Số lượng cơ sở đào tạo thạc sỹ tăng rất nhanh: từ 12 cơ sở năm 1991 lên 93 cơ sở năm 2001. Tính đến hết tháng 5 - 2001, cả nước có 141 cơ sở đào tạo sau đại học. Tuy nhiên, số lượng các cơ sở đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ tăng mạnh vào năm 1996 sau đó chững lại (1997).
Bảng 5: Số lượng tuyển sinh sau đại học giai đoạn 1990 - 2000.
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
TS
Cao học
509
1058
1730
060
651
3444
5294
3041
4534
2747
TS
NCS
316
452
596
651
074
258
1113
1174
576
686
713
Nguồn: Tài chính giáo dục tháng 9/2001.
Trong 10 năm từ 1990 - 2000, số lượng tuyển sinh cao học đã tăng hơn 11 lần (từ 509 học viên năm 1991 lên 5747 học viên năm 2000). Tuyển sinh đào tạo tiến sỹ trong thập kỷ qua có nhiều biến động, khởi đầu bằng con số 316 nghiên cứu sinh được tuyển vào năm 1990 và tăng đạt kỷ lục 1258 nghiên cứu sinh năm 1995, sau đó từ 1996 - 2000 thì số lượng giảm dần.
1.2. Sự cần thiết phải tăng cường đầu tư phát triển giáo dục - đào tạo:
Nghị quyết Đảng lần thứ VIII chỉ rõ “cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”.
Giáo dục phải mang tính chất xã hội hoá, là sự nghiệp của toàn dân, của gia đình, các tổ chức... mọi người cần phải góp công sức, tiền của để phát triển giáo dục, quan tâm đến giáo dục. Từ đó hình thành nên môi trường thuận lợi cho giáo dục.
Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, Nhà nước cấp ngân sách cho giáo dục, cho phép vay vốn nước ngoài để đầu tư phát triển giáo dục, tranh thủ hỗ trợ của mọi nguồn lực trong và ngoài nước. Người đi học và người sử dụng lao động qua đào tạo phải đóng góp kinh phí.
Tạo nên quyền bình đẳng trước cơ hội được giáo dục của mọi người dân. Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục ở nông thôn, miền núi, có chú ý đến các đối tượng chính sách. Miễn học phí, cấp học bổng, cho vay vốn đối với sinh viên học giỏi. Tạo nên những loại trường nội trú thích hợp đối với các đối tượng chính sách.
Trong khi nguồn lực không dồi dào, lại phải mở rộng quy mô giáo dục, phát triển hệ thống giáo dục để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá nên phải chấp nhận tình trạng không đồng đều về chất lượng. Do đó vừa mở rộng đồng thời vừa củng cố một số cơ sở đào tạo, giáo dục chất lượng cao, đào tạo đa ngành.
2. Thực trạng đầu tư phát triển giáo dục - đào tạo ở Việt Nam
2.1. Giáo dục và đào tạo Việt Nam từ 2002-2004
Một là, đầu tư cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo phải chú ý tăng chi cho công tác giảng dạy và học tập khoản chi này có tác động trực tiếp đến chất lượng giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh – sinh viên. Hiện nay cơ sở vật chất kỹ thuật (đặc biệt là hệ thống thư viện; trang thiết bị của các phòng thực hành, thí nghiệm; sách giáo khoa, tài liệu tham khảo…) còn thiếu thốn. Vì vậy, đòi hỏi trong đầu tư ngân sách cho sự nghiệp này phải chú ý đến việc tăng cường cơ sở vật chất cho công tác giảng dạy và học tập tại các cơ sở đào tạo, nhất là những cơ sở đào tạo có chất lượng cao.
Hai là, có chế độ chính sách đãi ngộ đối với người làm công tác giảng dạy, đảm bảo tiền lương tương xứng với lao động của các Nhà giáo.
Quá trình sản xuất của Nhà trường với đầu vào là con người và đầu ra cũng là con người, đó là: “sản phẩm đặc biệt”, con người ở đầu vào với con người ở đầu ra khác nhau ỏ tri thức khoa học. Trong quá trình sản xuất đó, người lao động trực tiếp là các cán bộ giảng dạy, có thể nói họ là những lao động đặc biệt” Với tính đặc thù như vậy, việc đầu tư của ngân sách cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo cần phải chú ý:
Tạo điều kiện cho cán bộ giảng dạy đạt tiêu chuẩn chức danh Chính phủ quy định. Cần có kế hoạch đào tạo lại đội ngũ cán bộ giảng dạy, khuyến khích nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để đạt trình độ kiến thức cao hơn.
- Nhà nước cần có những chính sách và chế độ đảm bảo đời sống tinh thần và vật chất của đội ngũ cán bộ giảng dạy, đây là yếu tố quan trọng để họ yên tâm lao động sáng tạo và xã hội tôn vinh các Nhà giáo.
Ba là, ở nước ta hiện nay, mạng lưới trường học chưa hợp lý về quy mô và cơ cấu ngành nghề đào tạo. Chúng ta có 110 trường Đại học và Cao đẳng; 546 trường Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề (trong đó Trung ương 260 trường, địa phương 286 trường), nhưng quymô nhỏ và rất nhỏ. Trong 110 trường Đại học và Cao đẳng chỉ có 7 trường đào tạo “đa ngành”, số còn lại đào tạo “chuyên ngành”, có khoảng 20% số trường dưới 500 sinh viên, khoảng 40% số trường dưới 1.000 sinh viên, số trường con lại dưới 2.000 sinh viên, chỉ có 7 trường trên 5.000 sinh viên và có 2 trường trên 10.000 sinh viên. Quy mô trường nhỏ đã kéo theo mối quan hệ khônghợp lý giữa sinh viên và giáo viên, hiện nay bình quân là 9 sinh viên/ giáo viên, trong khi đó bình quân ở các nước Đông Nam á là 14 sinh viên/ giáo viên. Quy mô trường nhỏ đã làm tăng chi phí đào tạo đối với một sinh viên, đồng thời làm phân tán đội ngũ giáo viên, phân tán thiết bị máymóc, phòng thí nghiệm, thư viện… nên hiệu suất sử dụng cơ sở vật chất trường lớp không cao, giảm hiệu quả đầu tư của ngân sách Nhà nước . Chính vì vậy, cần phải sử dụng công cụ tài chính để tham gia sắp xếp lại hệthống các trường Đại học và Cao đẳng, các trường Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề theo hướng giảm những trường có quy mô nhỏ dưới 1000 học sinh, ngân sách Nhà nước chỉ tập trung đầu tư cho những trường trọng điểm, chất lượng cao (Đại học Quốc Gia, Đại học vùng), các trường mang tính chất đặc thù theo mô hình một cơ sở đảm nhận ba nhiệm vụ đào tạo – nghiên cứu khoa học và lao động sản xuất; đào tạo những ngành nghề theo cơ cấu chuyển dịch kinh tế, đồng thời chuyển phần lớn các trường Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề về địa phương và các doanh nghiệp. Đi đôi với việc sắp xếp lại mạng lưới các trường phải tính toán lại quymô đào tạo cho phù hợp với sự tăng trưởng của nền kinh tế, chú trọng nâng cao chất lượng đào tạo, hạn chế quy mô đào tạo chuyên tu và tại chức. Từ đó tạo điều kiện để nâng định mức chi ngân sách cho một học sinh/ năm đối với từng ngành nghề cụ thể.
Bốn là, công tác quản lý tài chính đối với sự nghiệp giáo dục đào tạo phải được thựchiện nghiêm chỉnh theo “luật ngân sách Nhà nước”. Cụ thể:
- Bộ giáo dục đào tạo có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ kế hoạch và đầu tư trong việc xây dựng, tổng hợp và dự kiến phân phối ngân sách toàn ngành (cả phần ngân sách dành cho các chương trình mục tiêu) gửi Bộ Tài chính, Bộ kế hoạch và đầu tư xem xét cân đối trình Chính phủ, để Chính phủ trình Quốc hội phê duyệt.
- Thực hành tiết kiệm chống lãng phí trong chi tiêu hành chính, sửa chữa, xây dựng mới.
2.1.1. Giáo dục mầm non.
2002-2003
2003-2004
Trường
9.715
10.104
Trẻ em
2.547.430
2.588.837
Giáo viên
134.934
150.335
Từ năm 2002-2004 số lượng trường học, số trẻ em và số lượng giáo viên trong giáo dục mầm non đều tăng.
2002-2003
2003-2004
Công lập
Ngoài công lập
Công lập
Ngoài công lập
Trường
3.599
6.116
4.002
6.102
Trẻ em
964.241
1.583.189
1.003.299
1.585.538
Giáo viên
52.613
93.321
56.706
93.629
Số trường công lập tăng lên; số trường ngoài công lập giảm xuống.
Số trẻ em, số giáo viên công lập và ngoài công lập đều tăng.
Tỷ lệ trẻ em/ giáo viên
2002-2003
2003-2004
Nhà trẻ
9,5
9,5
Mẫu giáo
20,8
20,4
2.1.2. Giáo dục phổ thông.
2002-2003
2003-2004
Trường
Học sinh
Giáo viên
Trường
Học sinh
Giáo viên
Trường
14.163
8.841.004
358.606
14.346
8.350.191
362.627
Học sinh
1.197
6.497.548
262.543
1.139
6.612.099
280.943
Cán bộ giảng dạy
1.532
2.458.446
89.357
1.685
2.616.207
98.714
Số trưòng học, số học sinh và số giáo viên ở cả ba cấp tiểu học, PTCS, PTTH nhìn chung đều tăng từ năm 2002-2004
2.1.3. Giáo dục trung học chuyên nghiệp.
2002-2003
2003-2004
Trường
268
286
Học sinh
309.807
360.392
Cán bộ giảng dạy
10.247
11.121
Do nhu cầu đòi hỏi lao động kỹ thuật có trình độ chuyên môn, có tay nghề nên số lượng trường, số học sinh và số cán bộ giảng dạy ở các trường trung học chuyên nghiệp đều gia tăng. Trong đó số trường công lập chiếm đa số (238 trường năm 2002-2003).
Cán bộ giảng dạy phân theo trình độ chuyên môn:
2002-2003
2003-2004
Tiến sĩ
53
115
Thạc sĩ
727
1.221
Đại học, cao đẳng
8.336
8.722
THCN
781
753
Trình độ khác
350
310
Cán bộ giảng dạy có trình độ tiến sĩ tăng gấp đôi, trình độ thạc sĩ tăng trong khi trình độ trung học chuyên nghiệp giảm.
2.1.4. Giáo dục Cao đẳng và Đại học:
2002-2003
2003-2004
Trường
121
81
127
87
Sinh viên
13.933
746.759
231.107
801.333
Giảng viên
11.215
27.393
11.551
38.434
Hiện nay, giáo dục Việt Nam có hơn 300 giáo sư, hơn 1000 phó giáo sư. Số trường Đại học, sinh viên và số giảng viên Cao đẳng, Đại học đều tăng.
2.1.5. Giáo dục không chính quy.
2002-2003
2003-2004
Trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh
57
57
Trung tâm giáo dục thường xuyên quận
491
499
Trường bổ túc văn hoá
83
83
Trung tâm học tập cộng đồng
488
500
2.2. Nguồn vốn đầu tư phát triển giáo dục - đào tạo.
Vốn là điều kiện để đảm bảo mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo. Theo luật giáo dục, các nguồn vốn đầu tư cho giáo dục - đào tạo gồm: Ngân sách Nhà nước và các khoản đóng góp, tài trợ của các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước.
Bảng 6: Cơ cấu nguồn tài chính cho sự nghiệp giáo dục đào tạo ở Việt Nam.
Đơn vị: %
1993
1994
1995
Tổng nguồn
100
100
100
1. Học phí
23.1
15.7
16.8
2. SX & HĐ
1.3
1.6
1.2
3. Thu khác
3.2
3.3
2.7
4. NS NN cấp
72.4
79.4
79.3
Nguồn: Ngân hàng thế giới năm 1995.
Bảng 7: Tỷ lệ đầu tư cho giáo dục đào tạo so với GDP.
1995
1996
1997
1998
Đầu tư cho GD - ĐT (tỷ đồng)
8293
9887
11274
13217
GDP (tỷ đồng)
228892
272036
313623
361468
% so GDP
3.62
3.63
3.59
3.66
Nguồn: Niên giám thống kê năm 1998.
Trong các nguồn vốn đầu tư phát triển giáo dục - đầu tư ở Việt Nam thì nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước là chủ yếu.
2.2.1. Đầu tư của ngân sách Nhà nước cho giáo dục - đào tạo.
Thời kỳ 1991 – 1995 tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 8,2%, tỷ lệ động viên GDP vào ngân sách Nhà nước là 20,5%, Nhà nước đã đầu tư cho giáo dục - đào tạo trong 5 năm là: 18.188 tỷ đồng, chiếm 9,84% chi ngân sách Nhà nước. Tốc độ chi giáo dục - đào tạo bình quân hàng năm khoảng 157,1% trong khi tốc độ tăng chi ngân sách Nhà nước khoảng 146%. Giai đoạn 1991-1995 so với 1986-1990 ngân sách đầu tư cho giáo dục đào tạo tăng gấp 11,76 lần.
Nguồn ngân sách Nhà nước đầu tư cho giáo dục - đào tạo trong những năm gần đây được thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 8: Nguồn và cơ cấu chi ngân sách Nhà nước đầu tư cho giáo dục - đào tạo giai đoạn 1991-1998
Năm
Chi cho GD-ĐT
Chi XDCB
Chi thường xuyên
Tổng số (tỷ đồng)
So với tổng chi NSNN (%)
1991
1.256
10,04
10,27
89,73
1992
2.038
8,60
8,39
91,61
1993
3.315
8,49
5,61
94,39
1994
4.874
11,03
7,70
94,30
1995
6.705
10,70
7,07
94,93
1996
8.800
12,90
11,36
88,64
1997
9.970
12,77
12,55
87,45
1998
11.250
13,89
11,20
88,80
Cho đến năm 2002-2003, chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục - đào tạo đã tăng lên rất nhiều:
Bảng 9 : Chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục - đào tạo năm 2002-2003
2002
2003
Tổng số
20.624
22.795
Chi cho XDCB
3.008
3.200
Chi thường xuyên cho giáo dục - đào tạo
16.906
18.625
Nguồn vốn chi ngân sách Nhà nước đầu tư là chủ yếu, bên cạnh đó còn có các nguồn vốn khác đầu tư phát triển giáo dục - đào tạo ở Việt Nam.
2.2.2. Đầu tư – Giáo dục - Đào tạo từ nguồn thu học phí.
Nguồn thu học phí có ý nghĩa kinh tế chính trị xã hội sâu sắc: Đối với nhà trường đó là khoản bù đắp một phần những chi phí quá lớn mà khả năng ngân sách Nhà nước không đài thọ đủ; đối với Nhà nước là thực hiện phương châm Nhà nước và nhân dân cùng chăm lo sự nghiệp giáo dục đào tạo; đối với xã hội là phát huy trách nhiệm của cộng đồng cho sự nghiệp “Trồng người” của đất nước.
Ngày nay, xu hướng đầu tư phát triển giáo dục đào tạo đang được chuyển dần từ khu vực chính phủ sang khu vực tư nhân.
Nguồn thu học phí để tái đầu tư, nếu lấy số lượng học sinh năm 1998 tạm tính với mức học phí trung bình ở các cấp học là: (cấp I không phải đóng học phí)
THCS : 5,252,144 học sinh ´ 90,000 đồng = 472.693 tỷ đồng.
THPT : 1,390,206 học sinh ´ (25,000 đồng ´ 9) = 312.796 tỷ đồng.
Dạy nghề & THCN: 21,484 học sinh ´ (100,000 ´ 10) = 214.842 tỷ đồng.
ĐH và CĐ : 671,120 học sinh ´ (160,000 ´ 10) = 1,073.792 tỷ đồng.
Như vậy, mỗi một năm tổng tiền học phí thu được là: 2.074 tỷ đồng. Đó là đối với hệ thống ở trường công lập, còn các trường dân lập, tư thục, bán công, trung tâm giáo dục thường xuyên, dạy nghề... không được quy định về mức đóng học phí và chế độ chi tiêu thống nhất
2.2.3. Đầu tư – Giáo dục - Đào tạo từ các nguồn khác.
Chính phủ khuyến khích sự tham gia tích cực của các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước nhằm đầu tư phát triển Giáo dục - Đào tạo của Việt Nam.
Bảng 10 : Đầu tư TTNN cho văn hoá, kinh tế Giáo dục ở Việt Nam năm 2003 –2004
Năm
Số dự án
Số vốn đăngký (nghìn USD)
Tổng số
Trong đó: Vốn pháp định
1/1- 6/12/2003
18
30495,0
15560,0
1/1-22/7/2004
10
9410,8
5215,0
Nguồn: TC con số và sự kiện.
Khoản viện trợ chính thức (ODA) cũng được coi là một khoản mục có vai trò đóng góp không nhỏ trong việc bổ xung nguồn vốn cho đầu tư phát triển Giáo dục - Đào tạo ở nước ta.
Năm
1991
1992
1993
1994
1995
Tổng số
ODA (nghìn $)
8860
12242
18978
57427
37796
Ngoài ra các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước cũng đã hợp tác tích cực và đóng góp không nhỏ vào nguồn vốn đầu tư và phát triển Giáo dục - Đào tạo ở Việt Nam.
3. Kết quả đạt được trong đầu tư phát triển Giáo dục - Đào tạo ở Việt Nam.
3.1. Giáo dục mầm non và phổ thông.
3.1.1. Về cơ sở vật chất:
Mạng lưới trường lớp còn nhiều khó khăn, song trong 15 năm qua đã phát triển rộng khắp và đa dạng hoá: các loại hình công lập, bán công, tư thục. Hiện nay hầu hết các xã phường đều có trường tiểu học và trung học cơ sở, bình quân mỗi huyện có khoảng hai đến ba trường trung học phổ thông hoăc phổ thông trung học ( cấp 2, cấp 3).
Tính đến năm học 2000- 2001 cả nước có 8,933 trường giáo dục mầm non và 87,166 lớp, so với 1986 – 1987 tăng 31.87% về số trường (bình quân một năm tăng 1.87%) và tăng 38.23% về số lớp (bình quân một năm tăng 2.17%).
Đối với giáo dục phổ thông năm học 2000- 2001 có 24,692 trường phổ thông từ tiểu học đến trung học với 509,604 lớp, so với 1986 – 1987 tăng 79.2% về số trường, 49.53% về số lớp( bình quân mỗi năm tăng 3.96% số trường và 2.72% số lớp). Từ năm học 1995 – 1996, giáo dục phổ thông loại hình ngoài công lập phát triển mạnh, đến nay cả nước có 691 trường với 19,775 lớp, tăng 78.9% số trường và 75.77% số lớp học, so với 1986 – 1987( Bình quân mỗi năm tăng 3.96% số trường và 3.84% số lớp). Tuy nhiên tốc độ phát triển trường học, lớp học có sự khác biệt rất lớn. Năm 2000 – 2001 so với 1986 – 1987 số lớp học bậc tiểu học tăng 33.12%, bậc trung học cơ sở tăng 78.69%, bậc trung học phổ thông tăng 143.19%; tương ứng bình quân một năm tăng 1.92% số lớp bậc tiểu học, 3.96% bậc trung học cơ sở, 6.1% trung học phổ thông.
Số trường phổ thông dân tộc nội trú năm 1999 – 2000 cả nước có 344 trường phổ thông dân tộc nội trú. Số phòng phổ thông bình quân năm tăng từ 50,000 đến 60,000 phòng học. Tuy nhiên tốc độ phát triển phòng học hàng năm so với tốc độ phát triển qui mô học sinh chưa đáp ứng đủ nhu cầu nên tỷ lệ lớp trên phòng học chung cả nước ở cả ba cấp học là 1.5; chất lượng phòng học phổ thông còn nhiều khó khăn: hiện cò 283,742 phòng học là nhà cấp bốn trở lên chiếm 83.83% tổng số phòng học cả nước, trong đó cấp tiểu học có 168,725 phòng chiếm 60% tổng số phòng của cấp học này
3.1.2. Về đội ngũ giáo viên:
Cùng với đa dạng hóa các loại hình giáo dục, đội ngũ giáo viên ở các ngành học mầm non, phổ thông phát triển khá nhanh cả về số lượng và chất lượng theo hướng chuẩn hoá.
Năm 2000 – 2001 so với năm 1986 – 1987, số giáo viên mẫu giáo có 103,306 người, tăng 47.35%( bình quân mỗi năm tăng 2.6%). Tỷ lệ giáo viên mẫu giáo đạt chuẩn đào tạo trên 30%, tương ứng số giáo viên phổ thông có 661,748 người, tăng 55.29% (bình quân mỗi năm tăng 2.55%), bậc trung học cơ sở có 233,834 người tăng 63.87% ( bình quân mỗi năm tăng 3.35%), trung học phổ thông có 71,971 người tăng 80.79% ( bình quân mỗi năm tăng 4.02%). Tuy nhiên trước sự phát triển về qui mô học sinh phổ thông các cấp thì mức độ đào tạo, cung cấp giáo viên tương ứng chưa đáp ứng được nhu cầu, đặc biệt là giáo viên trung học phổ thông ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa. Tình trạng thiếu giáo viên trực tiếp giảng dạy ở tất cả các cấp phổ thông theo định mức tại Quyết định 243 QĐ\CP của chính phủ vẫn liên tục xảy ra trong giai đoạn 1986 – 2000. Theo thống kê năm 1999 – 2000 cả nước thiếu 81,043 giáo viên phổ thông, trong đó 19,466 giáo viên tiểu học, 41,820 giáo viên trung học cơ sở và 19,757 giáo viên trung học phổ thông.
Về chất lượng đào tạo giáo viên năm 1999 – 2000 so với năm 1986 – 1987, số giáo viên được đào tạo chuẩn ở tất cả các cấp học đèu tăng: bậc tiểu học từ 34.54% tăng lên 77.75%, bậc trung học cơ sở từ 51.9% tăng lên 83.45%, bậc trung học phổ thông từ 89.15% tăng lên 95.56%. Tuy nhiên chất lượng đào tạo giáo viên giữa các vùng chưa đồng đều, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa.
3.1.3 Về qui mô học sinh.
Trong 15 năm qua, qui mô giáo dục tăng lên nhưng còn chứa đựng nhiều yếu tố tự phát. Năm 2000 – 2001 cả nước có 366,698 trẻ em đi nhà trẻ giảm còn 38.77% so với năm 1986 – 1987( bình quân mỗi năm giảm 6.08%) và có 2,212,020 trẻ em đi mẫu giáo, tăng 22.33% (bình quân mỗi năm tăng 1.33%).
Về qui mô học sinh phổ thông cũng có xu thế tăng dần, riêng học sinh cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông tăng khá nhanh vào những năm gần đây. Năm 2000- 2001 cả nước có 9,714,846 học sinh cấp tiểu học, tăng 16% so với năm 1986 – 1987( bình quân mỗi năm tăng 0.99%); song so với năm 1999 – 2000 thì giảm còn 97.09%. Nguyên nhân chủ yếu do thực hiện chương trình kế hoạch hoá gia đình và phổ cập giáo dục tiểu học. Học sinh trung học cơ sở năm 2000 – 2001 là 5,863,604 người, tăng 82.86% ( bình quân mỗi năm tăng 4.11%), tương ứng số học sinh trung học phổ thông là 2,171,436 người tăng 138.46% (bình quân mỗi năm tăng 5.95%).
Loại hình giáo dục trung học phổ thông ngoài công lập có xu hướng phát triển nhanh vào những năm gần đây. Tỷ lệ học sinh ngoài công lập so với tổng số từ 24.02% năm 1996 – 1997 lên 32.95% năm 1998 – 1999, 34.06% năm 1999 – 2000 và 34.34% năm 2000 – 2001.
3.1.4 Về chất lượng và hiệu quả giáo dục.
Trong thời kì 1986 – 2000, tỷ lệ lưu ban, bỏ học giảm dần và tỷ lệ hoàn thành cấp học ở các bậc học phổ thông tăng nhanh qua các năm. Tuy nhiên, nhóm trẻ em nằm trong đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn: như trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, lang thang, tàn tật… vẫn ít có cơ hội đến trường. Trung bình hàng năm vẫn có khoảng 1 triệu trẻ em từ 6 đến 14 tuổi chưa bao giờ được đến trường hoặc phải thôi học. Đây là vấn đề cần được quan tâm trong chiến lược của chương trình quốc gia trong thời gian tới.
3.2. Giáo dục - Đào tạo đại học, cao đẳng trung học chuyên nghiệp và dạy nghề.
3.2.1 Đối với đại học và cao đẳng.
Năm 2000- 2001, cả nước có 148 trường đại học, cao đẳng hệ công lập, 20 trường đại học , cao đẳng hệ dân lập bán công với 795,561 sinh viên hệ công lập và 82,809 sinh viên hệ dân lập. So với năm 1986 số sinh viên công lập tăng gấp 8.6 lần, số giáo viên công lập có 27.871 người tăng 45.06%. Tuy nhiên tốc độ tăng giữa giáo viên và qui mô sinh viên không tương xứng đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giảng dạy và tiếp thu kiến thức của sinh viên. Đội ngũ giáo viên đại học, cao đẳng thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Cường độ lao động của giáo viên quá cao ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả của công tác giảng dạy. Hiện nay tỷ lệ giáo viên/sinh viên là 1/40, có trường tỷ lệ này là 1/60.
3.2.2 Đào tạo trung học chuyên nghiệp.
Trong 15 năm qua, đào tạo trung học chuyên nghiệp có xu hướng giảm. Năm 2000, cả nước có 246 trường, giảm 46 trường (15.76%) so với năm 1986. Cùng với việc giảm số lượng trường, số lượng giáo viên cũng giảm theo: năm 1986 có 11,275 giáo viên, đến 1999 số giáo viên còn 9,612 người giảm 1,663 người (14.75%); năm 2000 số giáo viên có tăng lên chút ít nhưng cũng chỉ có 9,984 người. Nếu tính từ 1996 đến nay thì đào tạo trung học chuyên nghiệp có xu hướng tăng ( năm 1996 có 239 trường đến năm 2000 tăng thêm 7 trường). Qui mô học sinh năm 2000 có 200,148 học sinh, tăng so với 1996 và đặc biệt so với 1986 cũng tăng 47.38%.
3.2.3 Đào tạo công nhân kỹ thuật và dạy nghề.
Thời kỳ 1986 – 2000, số lượng trường đào tạo công nhân kỹ thuật và dạy nghề giảm mạnh: từ 296 trường năm 1986 đến 2000 còn 157 trường giảm 47.32% (bình quân mỗi năm giảm 4.14%). Đồng thời số học sinh dạy nghề giảm rất mạnh so với 1986; song từ 1997 đến 2000 qui mô học sinh đã tăng so với 1986. Năm 2000, số học sinh dạy nghề có 172,045 người, tăng 22.88% ( bình quân mỗi năm tăng 1.38%) so với 1986.
Có thể nói sự nghiệp đào tạo thời kỳ 1986 – 2000 có những chuyển biến bước đầu và đạt một số kết quả nhất định. Song tình trạng đào tạo nguồn nhân lực còn rất nhiều tồn tại cần được điều chỉnh giải quyết.
4. Những tồn tại trong đầu tư và phát triển Giáo dục - Đào tạo.
4.1. Tồn tại trong đầu tư của ngân sách nhà nước cho Giáo dục - Đào tạo.
Bên cạnh những cố gắng của Nhà nước trong việc tăng chi cho sự nghiệp Giáo dục- Đào tạo và những kết quả mà ngành giáo dục - đào tạo đã đạt được trong thời gian qua. Cũng còn một số tồn tại trong đầu tư Ngân sách cho sự nghiệp này.
Thứ nhất, phần lớn nguồn vốn đầu tư cho sự nghiệp Giáo dục – Đào tạo là từ ngân sách Nhà nước nhưng chỉ được phân bổ theo từng năm, tỷ trọng đầu tư cao hay thấp đều tuỳ thuộc vào khả năng thu và cơ cấu chi của ngân sách Nhà nước. Mặt khác, yêu cầu đặt ra đối với công tác Giáo dục - Đào tạo là phải đạt được tối ưu hoá các công trình đào tạo và làm nhẹ đi tính mất cân đối, sự chồng chéo trong tổ chức đào tạo. Song trong thực tiễn: Bộ trường, và các cơ sở đào tạo nói chung đang đơn giản hoá kế hoạch hàng nă thành các văn bản dự án về yêu nhu cầu tài chính. Cơ cở đào tạo dành sự quan tâm chủ yếu vào chỉ tiêu ngân sách nhà nước cung cấp hàng năm nhiều hơn là vạch ra các biện pháp về tổ chức, thực hiện và quản lý kế hoạch theo những mục tiêu và các hoạt động để tiếp cận mục tiêu.
Thứ hai, tốc độ tăng chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp Giáo dục - Đào tạo trong thời gian qua là 12 –14%/năm chưa đủ đáp ứng nhu cầu thực tế hệ số tăng 15 –20% năm, giáo viên tăng 18%/năm và các khoản tăng chi do giá cả thực tế biến động. Vì vậy, đầu tư, của ngân sách nhà nước cho sự nghiệp Giáo dục - Đào tạo trong nhữn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 59.doc